← Quay lại trang sách

Sáng tạo phi lý Triết học và hư cấu

Mọi sinh mệnh kiên trì sống trong bầu không khí phi lý tinh lọc sẽ không trụ lâu được nếu không có những tư duy thường trực và sâu sắc tiếp sức mạnh cho chúng. Chỉ riêng sự trung thành với phi lý là không đủ. Con người tỉnh thức đã hoàn thành nghĩa vụ của mình giữa những cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất mà không tin rằng có sự mâu thuẫn. Bởi lẽ quan trọng là không được trốn tránh điều gì. Chịu đựng được sự phi lý của thế giới là niềm vinh dự siêu hình. Chinh phục hay diễn xuất, hay trải nghiệm nhiều cuộc tình, cuộc nổi dậy phi lý là cống vật mà con người dâng cho phẩm giá của mình trong một chiến dịch anh ta đã bị đánh bại từ đầu.

Đây đơn thuần là vấn đề trung thành với nguyên tắc của trận chiến. Suy nghĩ đó có lẽ đủ để giúp nuôi dưỡng một tâm trí, nó đã chống đỡ và bây giờ vẫn chống đỡ cho các nền văn minh. Không thể phủ nhận chiến tranh. Phải sống cùng nó hay chết vì nó. Như vậy sự phi lý ở đây là: phải sống cùng nó để nhận ra những bài học từ nó và giành lại xương thịt con người. Về mặt này, niềm vui phi lý cao nhất là sự sáng tạo. Như Nietzsche nói: “Nghệ thuật và không có gì ngoài nghệ thuật, chúng ta có nghệ thuật để không phải chết vì sự thật”.

Trong trải nghiệm mà tôi đang cố gắng mô tả và làm rõ bằng nhiều cách thức, một điều chắc chắn rằng hễ một nỗi đau khổ bị dập tắt thì nỗi đau khổ mới sẽ sinh ra. Cuộc truy tìm ngây ngô theo sau sự lãng quên, lời kêu cầu được thỏa mãn giờ không tiếng vọng. Nhưng sự căng thẳng thường trực khiến con người phải đối mặt với thế giới, cơn cuồng nhiệt tuân theo mệnh lệnh thúc giục anh ta phải lĩnh hội mọi thứ khiến anh ta rơi vào một cơn sốt khác. Trong vũ trụ này, tác phẩm nghệ thuật trở thành cơ may duy nhất để anh ta giữ được ý thức và sắp đặt những chuyến phiêu lưu của nó. Sáng tạo là sống nhiều gấp hai lần. Những dọ dẫm, cuộc kiếm tìm đầy bất an của Proust, những tỉ mẩn nhặt nhạnh nào hoa, nào giấy dán tường, và cả những nỗi lo âu của ông ta, chẳng hàm nghĩa điều gì khác cả. Nó cũng không nhiều ý nghĩa hơn sự sáng tạo liên tục dù khó thấy nơi người diễn viên, kẻ chinh phục, và mọi con người phi lý trong cuộc sống hàng ngày của họ. Tất cả bọn họ đều đang thử đóng kịch, lặp lại, và tái tạo cái thực tại của họ. Đến tận cùng ta luôn đến bước đường đối mặt với sự thật. Toàn bộ tồn tại của một con người vốn ngoảnh mặt trước sự bất diệt chính là vở kịch lớn không lời dưới lớp mặt nạ phi lý. Sáng tạo là vở kịch câm vĩ đại.

Những kẻ nói trên biết cách bắt đầu, và sau đó toàn bộ nỗ lực của họ là để kiểm nghiệm, để phóng chiếu, và làm phong phú thêm hòn đảo phù du họ vừa đáp xuống. Nhưng trước hết họ phải biết đã. Vì cuộc khám phá phi lý trùng hợp với đoạn ngừng khi mà những đam mê trong tương lai được chuẩn bị và hợp thức hóa. Ngay cả những người không theo phúc âm nào vẫn có ngọn Núi Ôliu của riêng mình [1]. Không được phép ngủ quên trên đó. Vì đối với con người phi lý, điều quan trọng không phải là lý giải và giải quyết, mà là trải nghiệm và mô tả. Tất cả khởi đầu với sự dửng dưng sáng suốt.

Mô tả, đó là tham vọng tối hậu của một suy nghĩ phi lý. Cũng như khoa học, một khi đã đi đến tận cùng những nghịch lý của nó, thì sẽ ngừng đưa ra gợi ý lý giải tiếp, để chiêm ngắm và phác họa cảnh quan muôn đời trinh nguyên của các hiện tượng. Từ đó trái tim học được rằng, cảm xúc làm lòng ta rộn ràng khi nhìn thấy các khía cạnh của thế giới này không phải xuất phát từ sự sâu sắc, mà là từ sự đa dạng của chúng. Lý giải chẳng ích gì, cảm thụ vẫn còn mãi, và ứng với nó là những những lời mời gọi liên tục từ một vũ trụ vô cùng tận về số lượng. Từ đây có thể hiểu được vị trí của tác phẩm nghệ thuật.

Tác phẩm nghệ thuật ghi dấu đồng thời cái chết của một kinh nghiệm lẫn sự nhân lên của nó. Nó là một hình thức lặp lại đơn điệu mà đầy đam mê những chủ đề đã được hòa phối bởi thế giới: cơ thể, những thánh tượng trơ trơ không biết mệt trụ trên trán tường [2] các đền thờ, các hình thái hay màu sắc, con số hay nỗi đau buồn. Như vậy khi một lần nữa đọ những chủ đề chính của tiểu luận này trong thế giới tuyệt vời và tươi non của người sáng tạo, kết luận không hề dửng dưng. Thật sai lầm khi tìm một biểu tượng trong nó và cho rằng tác phẩm nghệ thuật rốt cuộc là nơi trú ẩn cho sự phi lý. Bản thân nó là một hiện tượng phi lý, và ở đây ta chỉ quan tâm đến sự mô tả của nó. Tác phẩm nghệ thuật không là lối thoát cho căn bệnh trí tuệ. Mà nó là một trong những triệu chứng của căn bệnh ảnh hưởng toàn bộ tư duy của một con người. Nhưng tác phẩm nghệ thuật đã khiến lần đầu tiên tâm trí bước ra ngoài chính nó và đặt nó đối diện với những tâm trí khác; không phải để nó lạc lối mà là để chỉ rõ cho nó con đường cụt mà tất cả đều đã dấn vào. Nói theo lập luận phi lý, thì sự sáng tạo theo đuổi sự dửng dưng lẫn khám phá. Nó đánh dấu nơi những đam mê phi lý bung nở và lý lẽ dừng chân. Địa vị của nó trong tiểu luận này sẽ được biện luận theo hướng này.

Ở đây cần xem xét một số chủ đề chung của người sáng tạo và nhà tư tưởng để chỉ ra trong các tác phẩm nghệ thuật mọi mâu thuẫn trong tư duy liên quan đến sự phi lý. Thật ra, không có nhiều kết luận đồng nhất chứng minh sự liên quan của tâm trí bằng kết luận về các mâu thuẫn chung. Như vậy nó gắn với tư duy và sáng tạo. Có lẽ tôi không cần phải nói rằng cùng một nỗi thống khổ đã thúc con người hướng tới hai điều đó. Tâm trí và sáng tạo trùng nhau ở điểm khởi đầu là đây. Nhưng tôi thấy rằng rất hiếm tư tưởng bắt nguồn từ sự phi lý trụ lại được trong quá trình sáng tạo. Và chính giữa những sự chệch hướng lẫn bất trung (so với tư tưởng phi lý ban đầu) đó, tôi lượng được điều gì thuộc về sự phi lý. Tôi cũng tự hỏi: Liệu có thể nào thực hiện tác phẩm nghệ thuật phi lý được không?

Không thể nào quá khăng khăng một hướng về bản chất dễ đổi dời của sự đối lập xưa cũ giữa nghệ thuật và triết học. Nếu khẳng định sự đối lập đó theo nghĩa quá bó hẹp, thì hẳn nhiên sẽ sai. Còn nếu chỉ nói rằng hai lĩnh vực đó, mỗi lĩnh vực đều có môi trường riêng biệt của chúng, thì có lẽ đúng nhưng vẫn còn mơ hồ. Luận cứ duy nhất khả dĩ chấp nhận được căn cứ trên mâu thuẫn giữa người triết gia được bao bọc bên trong hệ thống của chính ông ta và người nghệ sĩ khi được đặt trước tác phẩm của mình. Nhưng luận cứ đó chỉ thỏa đáng khi áp dụng trong một số hình thức nghệ thuật và triết học nhất định, mà ở đây ta coi là thứ yếu. Ý tưởng cho rằng có thứ nghệ thuật tách rời khỏi người sáng tạo ra nó không chỉ là đã quá lỗi thời, mà còn sai lầm. Trái với người nghệ sĩ, chưa có triết gia nào sáng tạo được nhiều hệ thống. Nhưng thật ra cho đến nay, cũng chưa có nghệ sĩ nào diễn tả được nhiều hơn một chủ đề dù dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Trong nghệ thuật có sự toàn hảo tức thời và luôn cần đổi mới, đúng thế, nhưng chỉ dựa trên một khái niệm định trước. Vì tác phẩm nghệ thuật cũng như một công trình xây dựng, và ai cũng biết các nghệ sĩ sáng tác vĩ đại “nhất điệu” đến thế nào. Với lý do tương tự như các nhà tư tưởng, người nghệ sĩ gắn bó và hóa thân trong tác phẩm họ tạo ra. Sự thẩm thấu đó làm dấy lên những vấn đề quan trọng nhất trong mỹ học. Hơn nữa, với những ai tin vào tính đơn mục đích của tâm trí, thì sự phân biệt dựa trên phương pháp và đối tượng sáng tạo quả là vô ích. Giữa những môn nghệ thuật mà con người đặt ra cho chính mình nhằm thông hiểu và yêu thương, không hề có rào cản nào. Chúng đan cài vào nhau, và được nối kết bởi cùng một mối lo âu.

Đầu tiên cần nói rõ điều này. Việc thực hiện một tác phẩm nghệ thuật phi lý đòi hỏi một tư tưởng sáng suốt nhất. Nhưng đồng thời đó không được là một tư tưởng rõ ràng hiển nhiên, ngoại trừ do trí tuệ tự điều hòa. Mâu thuẫn này có thể được giải thích theo sự phi lý. Tác phẩm nghệ thuật ra đời khi trí tuệ khước từ suy luận về điều chắc chắn cụ thể. Nó đánh dấu chiến thắng của xúc cảm trần tục. Chính tư tưởng sáng suốt khuấy động nó, nhưng chính trong hành động đó tư tưởng chối bỏ nó. Nó sẽ không đầu hàng trước nỗi cám dỗ chấp nhận thêm thứ được mô tả là một chiều ý nghĩa sâu sắc hơn, mà nó biết là không hợp lý. Tác phẩm nghệ thuật là hiện thân của một vở kịch của trí tuệ, chỉ là nó chứng tỏ điều này theo lối gián tiếp. Tác phẩm nghệ thuật phi lý đòi hỏi người nghệ sĩ ý thức được những hạn chế này cũng như một môn nghệ thuật trong đó cái cụ thể biểu hiện không gì khác hơn là chính nó. Nó không thể là mục đích, ý nghĩa, hay niềm an ủi cho cuộc đời. Sáng tạo hoặc không sáng tạo đều không thay đổi điều gì. Người sáng tạo phi lý không đề cao đánh bóng tác phẩm của mình. Anh ta có thể chối bỏ tác phẩm của mình. Và trên thực tế đã có những trường hợp như vậy. Cứ xét trường hợp của Rimbaud trong thời kỳ ông ở Abyssinia [3] cũng đủ rõ.

Đồng thời ta cũng thấy được một nguyên tắc thẩm mỹ trong nghệ thuật. Những tác phẩm nghệ thuật thực thụ luôn là thước đo nhân văn. Về cơ bản đó là những tác phẩm phản ánh “ít hơn”. Giữa toàn bộ trải nghiệm của người nghệ sĩ và tác phẩm phản ánh trải nghiệm đó có mối liên hệ nhất định, như giữa diễn tiến của nhân vật Wilhelm Meister với sự trưởng thành của Goethe. Mối quan hệ sẽ trở xấu khi muốn bày toàn bộ trải nghiệm lên những trang giấy đẹp đẽ có họa tiết viền quanh trong một tác phẩm văn chương có tính lý giải. Còn mối quan hệ đó tốt đẹp khi tác phẩm chỉ là một mảnh cắt từ kinh nghiệm, một mặt của khối kim cương trong đó ánh rực rỡ từ bên trong tỏa ra không giới hạn. Trong trường hợp đầu tiên, có sự quá tải lẫn kỳ vọng hướng đến vĩnh cửu. Trong trường hợp thứ hai, tác phẩm phong phú giàu có vì toàn bộ kinh nghiệm ẩn hàm trong đó, với độ sâu dày khôn dò. Vấn đề của người nghệ sĩ phi lý là phải đạt tới trình độ savoir-vivre (ở đây tạm dịch là biết xử lý tác phẩm), vốn vượt cao hơn savoir-faire (khả năng xử lý tác phẩm). Và cuối cùng, trên tất cả, các nghệ sĩ vĩ đại trong môi trường này là những hiện hữu sống tuyệt vời, khái niệm “sống” ở đây ngang nghĩa với trải nghiệm lẫn phản ánh. Do đó tác phẩm thể hiện vở diễn của trí tuệ. Tác phẩm phi lý minh họa sự chối từ của tư duy trước danh giá gán cho nó, nó từ chối không trở thành thứ gì hơn là một trí tuệ mô tả tỉ mỉ những vẻ ngoài và vỏ bọc bằng những hình ảnh không chứa lý giải lý trí nào trong đó. Nếu thế giới này rõ ràng dễ hiểu, nghệ thuật sẽ không tồn tại.

Ở đây tôi không nói đến các môn nghệ thuật của hình thái hay màu sắc, trong đó sự mô tả thắng thế trong sự giản dị tuyệt vời của nó [4]. Sự biểu lộ bắt đầu nơi mà tư tưởng kết thúc. Những xác ướp thiếu niên với hốc mắt trống rỗng được người ta đưa vào đền thờ và viện bảo tàng - triết lý của họ thể hiện trong cử chỉ. Đối với con người phi lý, điều đó còn dạy họ nhiều điều hơn mọi thư viện trên đời. Điều này cũng đúng cho âm nhạc, ở một khía cạnh khác. Nếu có môn nghệ thuật không chứa đựng bài học nào, thì đó hẳn là âm nhạc. Nó liên quan quá mật thiết với toán học đến nỗi không phải vay mượn sự vô vị lợi của môn này. Trò chơi tâm trí tự bày ra cho nó tuân theo những quy luật định sẵn và nhịp nhàng này, diễn ra trong tầm âm vang ta nghe được, và xa hơn đó những rung chấn gặp nhau trong một vũ trụ phi nhân. Không còn cảm thụ nào tinh thuần hơn thế. Những ví dụ này quá dễ thấy. Con người phi lý nhìn nhận những hòa âm và hình thái ấy là của mình.

Tôi muốn nói đến một dạng tác phẩm nghệ thuật mà trong đó nỗi cám dỗ lý giải vẫn mạnh nhất, ảo tưởng tự động phơi lộ, và việc đi đến kết luận hầu như không thể tránh khỏi. Đó chính là sáng tạo hư cấu. Hãy thử tìm xem trong đó sự phi lý có trụ được không.

Việc tư duy, về cơ bản là sáng tạo ra một thế giới (Hoặc rào chắn thế giới riêng của mình, cả hai đều dẫn đến cùng một kết quả). Quá trình đó phát sinh từ mối bất đồng cơ bản tách rời con người khỏi kinh nghiệm để tìm ra một điểm chung tùy theo nỗi hoài vọng của nó, một vũ trụ được rào giậu bởi lý lẽ hay được thắp sáng bởi các phép loại suy, nhưng chính nó, dù trong trường hợp nào đi nữa, đều chừa lại một cơ hội để hủy bỏ cuộc phân ly khôn kham đó. Người triết gia, bao dù ông ta có là Kant [5] đi chăng nữa, cũng là một người sáng tạo. Triết gia có những nhân vật, những biểu tượng, và hành động được che đậy. Ông còn có sẵn các kết cục khác nhau cho cốt truyện của mình. Ngược lại, sự vượt lên của thể loại tiểu thuyết so với thơ ca và tiểu luận đơn thuần tượng trưng cho lượng trí thức hóa nghệ thuật lớn hơn, mặc dù nhìn bề ngoài khó thấy điều đó. Xin đừng nhầm lẫn, ở đây tôi chỉ đang nói đến những tiểu thuyết vĩ đại nhất. Sự giàu có và tầm quan trọng của một thể loại văn học thường được đo lường bằng lượng “sản phẩm rác” trong đó, nhưng không thể vì số lượng tiểu thuyết tồi mà quên giá trị của những kiệt tác. Những kiệt tác này thực sự đã mang theo cả một vũ trụ trong chúng. Tiểu thuyết có logic riêng, lập luận riêng, trực giá riêng, và những định đề riêng. Nó cũng có đòi hỏi riêng về mức độ rõ ràng. [6]

Sự đối lập kinh điển mà tôi có nhắc bên trên thậm chí còn ít chính đáng hơn trong trường hợp cụ thể này. Tác phẩm có giá trị lâu dài khi dễ dàng tách rời triết lý khỏi tác giả của nó. Ngày nay, khi tư duy đã không còn đòi quyền bao trùm phổ quát, khi lịch sử đáng nói nhất của tư duy là về những ăn năn của nó, thì ta biết rằng cái hệ thống trong tiểu thuyết, nếu là tác phẩm xứng tầm, không thể nào tách rời khỏi tác giả của nó. Như tác phẩm Đạo đức, xét theo một trong nhiều khía cạnh, chính là lời xưng tội cá nhân dài dòng nghiêm khắc. Tư duy trừu tượng cuối cùng cũng quay về với trụ cột xác thịt của nó. Tương tự, những hoạt động hư cấu của thân xác và của những đam mê được điều chỉnh hơi nghiêng theo hình dung về thế giới của tác giả. Nhà văn đã thôi không còn đơn thuần kể lại “những câu chuyện” mà sáng tạo ra vũ trụ của riêng mình. Những tiểu thuyết gia vĩ đại là các tiểu thuyết gia - triết học, nghĩa là đối cực với các người viết - luận đề. Ví dụ như Balzac, Sade, Melville, Stendhal, Dostoevsky, Proust, Malraux, Kafka, và nhiều vị khác.

Nhưng trong thực tế, việc các tiểu thuyết gia ưa dùng hình tượng hơn là các luận cứ chặt chẽ trong tác phẩm liên quan đến một suy nghĩ chung, cho rằng nguyên lý diễn giải nào cũng là vô dụng, trong khi vẻ ngoài tác động vào cảm thụ của người ta chắc chắn truyền đi được thông điệp dẫn dắt họ muốn. Họ coi tác phẩm nghệ thuật vừa là kết thúc vừa là khởi đầu. Nó là kết quả của một thứ triết lý thường không được biểu đạt ra, là sự minh họa đồng thời là kết thúc hoàn hảo cho triết lý đó. Nhưng nó chỉ trở nên trọn vẹn được nhờ những hàm ý của triết lý đó. Cuối cùng, nó cũng lên tiếng bênh vực cho một biến thể của chủ đề cũ xưa về một tư tưởng nhỏ bé bị tách rời khỏi cuộc sống, trong khi rất nhiều tư tưởng quay về hòa hợp với cuộc sống. Khi không thể trau chuốt được thực tại, tư duy ngừng mô phỏng nó. Thể loại tiểu thuyết được nhắc đến ở đây là thứ nhạc cụ của tri thức vô tận có liên quan, cũng như của tình yêu.Với tình yêu, sáng tạo hư cấu ban đầu khiến ta kinh ngạc thán phục, sau đó gợi lên những suy ngẫm phong phú.

Ít nhất đó là những nét mê hoặc tôi thấy được ban đầu. Nhưng tôi cũng thấy những điều tương tự khi chứng kiến sự tự sát của những tư tưởng bị làm nhục của những người ưu tú.

Điều tôi thực sự quan tâm là tìm biết và mô tả lực lượng đã hướng họ trở về con đường chung của ảo tưởng. Do đó phương pháp bên trên cũng giúp được cho tôi ở đây. Vì đã vận dụng qua phương pháp này, nên tôi có thể rút ngắn lập luận và đi đến kết luận luôn trong một ví dụ cụ thể. Tôi muốn biết liệu rằng, khi chấp nhận một cuộc sống không viện cầu, thì người ta liệu có đồng thời chấp nhận làm việc và sáng tạo không viện cầu hay không, và nếu có thì con đường đưa tới sự giải phóng này là gì. Tôi muốn giải phóng vũ trụ của mình khỏi những bóng ma của nó và chất đầy nó chỉ bằng những sự thật cụ thể của phàm nhân mà tôi không thể phủ nhận được sự hiện diện của chúng. Tôi có thể trình diễn tác phẩm phi lý, và chọn quan điểm sáng tạo chứ không phải quan điểm nào khác. Nhưng một quan điểm phi lý, nếu duy trì được, thì phải ý thức rằng nó song hành với sự vô vụ lợi. Tác phẩm nghệ thuật cũng vậy. Nếu những lời răn của sự phi lý không được tuân theo, nếu tác phẩm nghệ thuật không minh họa cho sự phân ly và nổi dậy, nếu nó hiến thân cho những ảo ảnh và làm dấy lên niềm hy vọng, thì tác phẩm ấy không còn vô vụ lợi nữa. Khi đó tôi có thể không tách mình ra khỏi nó nữa. Cuộc đời tôi có lẽ sẽ tìm ra được ý nghĩa nào đó trong nó, nhưng đó chỉ là một ý nghĩa tầm thường. Tác phẩm không còn là cuộc luyện tập của sự dửng dưng lẫn niềm đam mê vốn đội tấm vương miện huy hoàng và phù phiếm lên cuộc sống con người.

Trong loại hình sáng tạo trong đó nỗi cám dỗ đưa ra giải thích là mạnh mẽ nhất, liệu người viết có thể vượt qua sự cám dỗ đó không? Trong thế giới hư cấu trong đó nhận thức về thế giới thực là sắc bén nhất, tôi có thể giữ nguyên lòng trung thành với sự phi lý mà không hiến mình cho khao khát được phán xét đánh giá? Phải trăn trở với quá nhiều câu hỏi trong nỗ lực cuối cùng này. Đã quá rõ những câu hỏi ấy tượng trưng cho điều gì. Chúng là những đắn đo tối hậu của nhận thức, nó sợ bỏ rơi bài học đầu tiên đầy khó khăn mà nó học được để chạy theo ảo tưởng cuối cùng. Điều gì đúng cho sáng tạo, xét như là một trong những quan điểm có thể có của một con người ý thức được sự phi lý, cũng đúng cho mọi phong cách của cuộc sống mở ra trước mặt anh ta. Người chinh phục hay người diễn viên, người sáng tạo hay Don Juan có thể quên rằng sự luyện tập đó của họ trong quá trình sống không thể nào thực hiện được nếu không nhận thức rõ bản chất điên rồ trong đó. Một người khát khao kiếm tiền để được hạnh phúc liền đổ hết thời gian tinh lực cho việc này. Thế rồi hạnh phúc bị lãng quên; phương tiện đã bị coi là mục đích. Tương tự như vậy, toàn bộ nỗ lực của người chinh phục sẽ bị chệch hướng sang tham vọng của anh ta, mà đó chỉ là một con đường để hướng tới cuộc đời lớn lao hơn. Don Juan buông mình theo số phận, thỏa mãn với kiếp tồn tại mà sự cao quý chỉ có giá trị thông qua phản kháng. Đối với người này đó là nhận thức, và đối với kẻ khác, đó là sự phản kháng; trong cả hai trường hợp sự phi lý đều biến mất. Niềm hy vọng cứ ương ngạnh bám lấy trái tim con người. Sự nhân nhượng của những người trên xuất phát từ nhu cầu được yên ổn, trong thâm tâm, điều đó tương đương với sự ưng thuận hiện sinh. Như vậy là có những thánh thần của ánh sáng và thánh thần của bùn lầy. Điều quan trọng là tìm ra con đường giữa hai thái cực đó để dẫn đến những gương mặt muôn vẻ của con người ta tìm kiếm.

Cho đến nay, chính những đòi hỏi không thực hiện được của phi lý cho chúng ta thấy rõ nhất phi lý là gì. Tương tự, nếu được báo trước, thì ta sẽ nhận thấy rằng sáng tạo hư cấu chứa sự mơ hồ như một số triết lý khác. Do đó tôi chọn làm ví dụ minh họa dưới đây một tác phẩm bao gồm mọi yếu tố biểu thị nhận thức về sự phi lý, có khởi điểm rõ ràng và một môi trường sáng suốt. Những kết quả của nó sẽ soi sáng cho chúng ta. Nếu phi lý không được tôn trọng trong tác phẩm đó, chúng ta sẽ biết là do ảo tưởng quỷ quyệt nào chen vào. Như vậy chỉ cần phân tích một ví dụ cụ thể, một chủ đề, và độ trung thành của một nhà sáng tạo thôi là đủ. Đã có những phân tích tương tự trước đó nhưng dài hơn nhiều.

Sau đây tôi sẽ nghiên cứu một chủ đề yêu thích của Dostoevsky. Tất nhiên tôi hoàn toàn có thể tìm hiểu những tác phẩm khác [7]. Chỉ là trong tác phẩm này, vấn đề được xử lý trực tiếp như các triết lý hiện sinh đã thảo luận bên trên, thể hiện qua sự cao quý và cảm xúc. Trạng thái song song này là đối tượng nghiên cứu của tôi.

Kirilov

Tất cả các nhân vật chính của Dostoevsky đều tự đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Về mặt này những nhân vật ấy khá là hiện đại: họ không sợ bị chế giễu. Điều phân biệt cảm thức hiện đại và cảm thức cổ điển là cái sau tôn cao các vấn đề đạo đức còn cái đầu nhấn mạnh về các vấn đề siêu hình. Trong các tiểu thuyết của Dostoevsky câu hỏi được đặt ra dữ dội đến nỗi mà nó chỉ có thể thu hút các giải pháp cực đoan. Tồn tại là hư ảo hoặc là vĩnh cửu. Nếu Dostoevsky bằng lòng dừng ở đòi hỏi lựa chọn này, ông đã là một nhà triết học. Nhưng ông lại minh họa những kết quả của câu đố trí tuệ đó trong đời sống con người, như vậy ông là một nghệ sĩ. Trong số những kết quả này, ông đặc biệt chăm chút cho tác phẩm cuối cùng là Nhật ký của một Nhà văn [8], mà ông gọi là sự tự sát logic. Trong những bài viết đăng tháng 12 năm 1876, ông đã thực sự hình dung ra lập luận về “tự sát logic”. Khi tin chắc rằng tồn tại của con người là sự phi lý tuyệt đối đối với những ai không tin vào sự bất tử, con người tuyệt vọng đi đến những kết luận sau đây:

“Vì trong lời đáp cho những câu hỏi của tôi về hạnh phúc, tôi nghe thấy, qua trung gian là ý thức của tôi, rằng tôi không thể hạnh phúc trừ khi hòa hợp với Đấng vĩ đại mà tôi không hiểu, và cũng sẽ không bao giờ ở vị thế nào để có thể hiểu được, điều đó là hiển nhiên...”

“Bởi vì cuối cùng, tôi đóng cả hai vai nguyên đơn lẫn bị đơn, bị cáo lẫn thẩm phán, và bởi vì tôi coi tấn hài kịch mà tôi phạm vào do bản chất của mình là hoàn toàn ngu ngốc, tôi thậm chí thấy nhục nhã khi hạ cố tham gia vào...”

“Với tư cách không thể chối cãi của nguyên đơn và bị đơn, của thẩm phán và bị cáo, tôi kết án cái bản chất trơ tráo đã đưa tôi vào cuộc sống để bắt tôi chịu đựng đau khổ - tôi kết án nó phải bị tiêu diệt cùng với tôi”.

Quan điểm ấy hãy còn chứa một chút hài hước. Hành động tự giết chính mình này, xét ở bình diện siêu hình, là bởi anh ta bị làm phật ý. Xét theo một nghĩa nào đó, kẻ ấy đang thực hiện cuộc trả thù của mình. Đây là cách anh ta chứng minh rằng mình “sẽ không bị lừa”. Tuy nhiên, như ta đã biết, cùng một chủ đề này được thể hiện một cách khái quát tuyệt vời nhất ở nhân vật Kirilov trong tác phẩm Lũ người quỷ ám [9], một nhân vật cũng ủng hộ sự tự sát logic. Kirilov, người kỹ sư tuyên bố rằng ông muốn sống cuộc đời theo ý mình bởi nó “là ý tưởng của ông”. Rõ ràng ở đây phải hiểu đúng nghĩa từ ấy. Nó chỉ một ý tưởng, một suy nghĩ, rằng ông ta đã sẵn sàng chết. Đây là sự tự sát ở cấp độ cao siêu. Theo diễn tiến câu truyện, trong hàng loạt cảnh mà trong đó tấm mặt nạ che đậy của Kirilov dần được soi tỏ, cái tư tưởng nhuốm mùi chết chóc thôi thúc ông ta dần hé lộ trước mắt chúng ta. Thật sự, quan điểm ấy của người kỹ sư lại quay về các luận điểm trong Nhật ký. Ông cảm thấy rằng Chúa là cần thiết, và như vậy ông phải tồn tại. Nhưng ông cũng biết mình không, và không thể tồn tại. Ông thốt lên: “Tại sao người không nhận ra rằng với lý do đó là đã đủ giết chính mình?” Quan điểm ấy cũng đưa đến cho ông một số hệ quả phi lý. Do dửng dưng, ông kệ cho vụ tự sát của mình bị lợi dụng trong một vụ giết người mà ông khinh miệt. “Tối qua tôi đã quyết định rằng tôi chẳng thèm quan tâm”. Và cuối cùng, ông chuẩn bị cho hành động ấy của mình trong tâm trạng lẫn lộn giữa nổi dậy và tự do. “Tôi sẽ giết chính mình để khẳng định sự bất phục tùng của tôi, tự do mới mẻ và đáng sợ của tôi”. Đó không còn là trả thù, mà đã trở thành sự nổi dậy. Do đó Kirilov là một nhân vật phi lý, tuy nhiên phải đi kèm với điều kiện tiên quyết là: ông tự sát. Bản thân con người ông giải thích cho mâu thuẫn này, cùng lúc, hé lộ bí mật của phi lý trong vẻ tinh khiết trọn vẹn. Thực vậy, ông thêm vào cái logic chết người đó một tham vọng phi thường, đưa ra cho nhân vật thấy trọn logic đó: Ông muốn tự giết mình để trở thành chúa.

Lập luận thật rõ ràng và kinh điển. Nếu Chúa trời không tồn tại, thì Kirilov là chúa. Nếu Chúa trời không tồn tại, thì Kirilov phải tự sát. Như vậy, Kirilov phải tự sát để trở thành chúa. Logic đó quả là phi lý, nhưng cần như thế. Tuy nhiên, điều thú vị là ở chỗ nó gán một ý nghĩa cho thế lực thần thánh đó được hồi sinh ở trái đất. Điều đó chẳng khác nào tuyên bố: “Nếu Chúa trời không tồn tại, thì tôi là chúa”, mà lập luận này vẫn khá là mù mờ. Quan trọng là phải chú ý ngay từ đầu rằng người đàn ông cất lời tuyên bố điên rồ đó thật sự thuộc về thế giới này. Ông mỗi sáng đều tập thể dục để bảo vệ sức khỏe. Ông bứt rứt không yên khi thấy Shatov vui sướng khi tái hợp với bà vợ [10]. Trên mảnh giấy mà người ta tìm thấy sau khi ông chết, ông muốn vẽ một khuôn mặt thè lưỡi vào “bọn chúng no”. Ông trẻ con và nóng nảy, sôi nổi, ngăn nắp và nhạy cảm. Ông không có yếu tố gì của một siêu nhân ngoài logic và nỗi ám ảnh, trong khi ông có đầy đủ mọi yếu tố của một con người. Tuy nhiên, cũng chính con người này nói về sự thần thánh của mình một cách rất bình tĩnh. Ông không điên, bởi nếu vậy Dostoevsky hẳn cũng điên. Do đó thứ kích thích ông không phải là ảo tưởng của chứng hoang tưởng tự đại. Và trong trường hợp này, lẩy ra từng từ để xét theo nghĩa cụ thể là ngớ ngẩn.

Chính Kirilov giúp ta hiểu ông. Khi trả lời một câu hỏi của Stavrogin, ông nói rõ rằng mình không có ý chỉ một con-người-thần-thánh. Có lẽ có người nghĩ rằng ông muốn phân biệt mình với Chúa Jesus. Nhưng thật ra, ông mong muốn nhập làm một với Chúa Jesus. Kirilov rất háo hức mong chờ đến thời khắc Jesus chết và không thấy chính ngài được lên Thiên đàng. Khi đó Chúa nhận ra sự tra tấn ngài phải chịu là vô ích. Viên kỹ sư nói, “Các quy luật của tự nhiên khiến Chúa sống giữa lầm ảo và chết trong lầm ảo”. Chỉ trong nét nghĩa này, Jesus thực sự là hiện thân của toàn bộ tấn kịch nhân loại. Ngài là con người hoàn chỉnh, là con người nhận thức được bối cảnh phi lý nhất. Ông không phải là con-người-thần-thánh mà là một vị-thần-người. Và cũng như ông ta, mỗi người chúng ta đều có thể bị đóng đinh câu rút hoặc bị biến thành vật hy sinh ở mức độ nào đó.

Vì thế đấng thần linh nhắc đến ở đây hoàn toàn ở ngay tại trái đất này. Kirilov nói: “Trong suốt ba năm, tôi tìm kiếm các thuộc tính thánh thần trong tôi và đã tìm ra nó. Thuộc tính thánh thần chính là sự độc lập”. Đến đây tiền đề lập luận của Kirilov đã rõ: “Nếu Chúa không tồn tại, thì tôi là Chúa”. Trở thành Chúa chỉ đơn giản là trở nên tự do trên trái đất này, không phải phụng sự một đấng bất tử nào. Tất nhiên, trên hết, có thể rút ra mọi kết luận từ sự độc lập đau đớn đó. Nếu Chúa tồn tại, mọi sự đều cậy vào ngài, và ta không thể làm gì trái với ý chí của ngài. Còn nếu ngài không tồn tại, thì mọi sự đều tùy thuộc vào chính chúng ta. Đối với Kirilov, cũng như với Nietzsche, giết Chúa là tự mình trở thành chúa: là nhận ra cuộc sống vĩnh cửu trên trái đất này, như Phúc Âm đã viết [11]. Nhưng nếu chỉ riêng tội ác siêu hình này cũng đã đủ thành toàn cho con người, vậy thì cần thêm tự sát làm gì nữa? Tại sao phải tự sát và rời khỏi thế giới này một khi đã giành được tự do? Đó là điểm mâu thuẫn. Kirilov cũng nhận rõ điều đó, vì ông có nói thêm rằng: “Nếu anh cảm thấy được điều đó, thì hẳn anh là Sa hoàng, và thay vì tự sát, anh sẽ sống ngập trong huy hoàng”. Nhưng nói chung, con người không hiểu điều đó. Họ không cảm thấu được điều đó. Con người ấp ủ những hy vọng mù quáng hệt như thời thần Prometheus [12]. Họ cần được chỉ lối và không thể làm gì nếu không nghe thuyết giảng. Do đó, Kirilov phải tự sát vì tình yêu nhân loại. Ông phải cho những người anh em của mình thấy con đường vương giả và khó khăn mà ông tiên phong dấn bước vào. Đó là vụ tự sát có tính giáo dục. Kirilov hy sinh bản thân. Nhưng dù ông có bị hành hạ đi nữa, thì ông cũng sẽ không bị biến thành vật hy sinh. Ông vẫn là một vị-thần-người, tin tưởng vào cái chết không có gì sau nó nữa, thấm đẫm vẻ sầu muộn của kinh phúc âm. Ông nói: “Tôi bất hạnh bởi tôi buộc phải khẳng định sự tự do của mình”.

Nhưng một khi ông chết và con người cuối cùng cũng được giác ngộ, thì trái đất này sẽ toàn là các Sa hoàng và sáng bừng vinh quang của con người. Phát súng lục của Kirilov sẽ là sự báo hiệu cho cuộc cách mạng cuối cùng. Như vậy, không phải nỗi tuyệt vọng đẩy ông đến cái chết, mà ông chết vì tình yêu và lợi ích của đồng loại. Trước khi kết liễu trong máu đỏ cuộc phiêu lưu tinh thần khôn tả của mình, Kirilov buông một câu cũng cũ xưa như nỗi đau khổ của con người: “Mọi chuyện đều tốt đẹp”.

Do đó, chủ đề tự sát trong tác phẩm của Dostoevsky thực sự là một chủ đề phi lý. Cần lưu ý điểm này, trước khi tiếp tục xét sự tái hiện của Kirilov ở những nhân vật khác mà bản thân những nhân vật ấy cũng được đặt trong những chủ đề phi lý khác. Stavrogin và Ivan Karamazov thử áp những chân lý phi lý vào đời sống thực tế. Họ là những người được giải thoát bởi cái chết của Kirilov. Họ thử vào vai Sa hoàng. Stavrogin sống cuộc đời “đầy mỉa mai”, và khá nổi tiếng về mặt này. Ông gợi lên lòng căm thù xung quanh mình. Tuy thế, chìa khóa để hiểu được nhân vật này lại được tìm thấy trong lá thư vĩnh biệt: “Tôi chưa từng khi nào có khả năng ghét cay ghét đắng bất cứ điều gì”. Ông ta là một Sa hoàng trong sự thờ ơ. Tương tự, Ivan “thử vai” bằng cách khước từ quy phục vương quyền của tâm trí. Đối với những người dùng cuộc sống của chính mình để chứng minh, như em trai của Ivan, rằng quan trọng là phải hạ thấp bản thân đi để giữ niềm tin, Ivan có lẽ sẽ đáp trả rằng điều kiện ấy quả đáng xấu hổ. Nhận định chủ chốt của ông là: “Mọi điều đều được phép”, ẩn dưới tán u sầu đủ rộng. Giống như Nietzsche, người nổi tiếng nhất trong những kẻ rắp ranh giết chết Chúa trời, ông ta cuối cùng hóa điên. Nhưng đây là một rủi ro đáng để liều, và khi phải đối mặt những kết thúc bi thảm như vậy, sự thôi thúc thuộc về bản chất của tâm trí phi lý sẽ hỏi: “Điều đó chứng minh cho cái gì?”

Những tiểu thuyết như Nhật ký, nêu lên vấn đề phi lý. Chúng dựng lên logic dẫn đến cái chết, sự tôn vinh, tự do “đáng sợ”, niềm vinh quang của các Sa hoàng trở nên rất con người. Mọi chuyện đều ổn, mọi điều đều được phép, không có gì là đáng ghét - đây là những phán xét phi lý. Nhưng đó quả là thế giới sáng tạo tuyệt vời, nơi những con người như đồng thời được tạo ra từ lửa và băng đó dường như quá quen thuộc với chúng ta. Thế giới của sự dửng dưng mà đầy sôi nổi vang dội trong trái tim những nhân vật ấy, đối với chúng ta sao chẳng có vẻ gì là quái gở. Ta nhận ra nó trong những lo âu hàng ngày. Và có lẽ chưa có ai phủ cho thế giới phi lý vẻ mê hoặc đau đớn và quen thuộc như Dostoevsky.

Vậy nhưng kết luận cuối cùng của ông là gì? Hai câu trích dưới đây thể hiện quan điểm siêu hình đối ngược hoàn toàn của tác giả. Lập luận của người cam nguyện tự tử logic đã làm dấy lên những chỉ trích; tác giả, trong phần đăng tiếp theo của Nhật ký, bàn sâu rộng hơn về quan điểm của mình và kết luận: “Nếu con người cần đức tin vào sự bất diệt đến như vậy (đến nỗi khi không có nó thì tự sát), thì nó phải là một trạng thái bình thường của nhân loại. Mà nếu vậy, linh hồn con người chắc chắn bất tử, không hồ nghi gì nữa”. Rồi ở những trang cuối của cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ở đoạn kết cuộc chiến vĩ đại ở Chúa, những đứa trẻ hỏi Aliosha: “Karamazov, có phải tôn giáo dạy rằng chúng ta sẽ hồi sinh từ cái chết, và sẽ được hội ngộ lần nữa?” Aliosha đáp: “Hẳn rồi, chúng ta sẽ hội ngộ lần nữa, khi đó chúng ta sẽ vui sướng kể cho nhau nghe mọi điều đã xảy ra”.

Nói như vậy, Kirilov, Stavrogin và cả Ivan đều đã bại. Anh em nhà Karamazov đã đáp lời cho Lũ người quỷ ám. Và đó chính là một kết luận. Trường hợp của Aliosha không hề mơ hồ như hoàng thân Myshkin [13]. Ông hoàng ốm yếu sống trong một thực tại miên viễn, nhàn nhạt những nụ cười và sự dửng dưng, và trạng thái hạnh phúc ấy có lẽ chính là cuộc đời vĩnh cửu mà ông nói đến. Ngược lại, Aliosha nói rất rõ ràng: “Chúng ta sẽ gặp nhau lần nữa”. Chuyện tự tử hay hóa điên không còn đặt ra ở đây. Bởi những kẻ đã nắm chắc sự bất diệt cùng những niềm hạnh phúc nó đưa lại đâu cần đến chúng làm gì? Con người đánh đổi sự thần thánh của mình lấy hạnh phúc. “Chúng ta sẽ vui sướng kể cho nhau nghe mọi điều đã xảy ra”. Như vậy là một lần nữa tiếng súng của Kirilov lại vang lên đâu đó ở nước Nga, nhưng thế giới này vẫn tiếp tục tôn tụng những hy vọng mù quáng. Con người đã không hiểu được điều đó.

Do vậy ở đây không phải một tiểu thuyết gia phi lý đang nói với chúng ta một tiểu thuyết gia hiện sinh. Ở đây bước nhảy thật thống thiết, làm cao quý thêm cho môn nghệ thuật đã truyền cảm hứng cho nó. Nó là một sự cam thuận không yên, lổn nhổn những nghi ngờ, không chắc chắn và cháy bỏng. Về tác phẩm Anh em nhà Karamazov của mình, Dostoevsky viết: “Vấn đề chính yếu được đặt ra xuyên suốt tác phẩm này chính là điều dằn vặt tôi suốt đời, một cách có ý thức hay vô ý thức: Đó là sự tồn tại của Chúa”. Thật khó lòng tin nổi một tiểu thuyết có thể chuyển biến nỗi đau khổ suốt đời đó thành niềm hạnh phúc chắc chắn. Một nhà phê bình [14] đã chỉ ra rất chính xác rằng Dostoevsky đứng về phía Ivan, và những chương tiểu thuyết đầy tính khẳng định đó được viết trong ba tháng ròng nỗ lực, trong khi những phần “báng bổ”, nói như lời ông, được viết trong vỏn vẹn ba tuần trong tâm thế phấn khích. Không nhân vật nào của ông không phải mang gai nhọn đớn đau trong da thịt, không ai không vạch ngoáy nó thêm hay cố tìm cách chữa trị nó thông qua cảm thức hay sự bất diệt [15]. Dù cách nào đi nữa, chúng ta hãy cứ giữ mối hoài nghi này. Đây là một tác phẩm phối hợp thủ pháp tương phản vô cùng rõ ràng, cho phép chúng ta hiểu thấu cuộc đấu tranh của một người chống lại những hy vọng của mình. Một khi đã đến tận cùng, người sáng tạo lại quyết định chống lại nhân vật của ông. Mâu thuẫn đó giúp ta phân biệt rõ. Đây không phải là một tác phẩm phi lý, mà là tác phẩm gợi lên vấn đề phi lý.

Câu trả lời của Dostoevsky là nhục nhã, hay nói như Stavrogin là “đáng xấu hổ”. Ngược lại, tác phẩm phi lý không đưa ra câu trả lời; sự khác biệt chính là nằm ở đó. Hãy để ý kỹ điều này trong phần kết: Trong tác phẩm đó, đối ngược với sự phi lý không phải là bản chất Thiên Chúa trong nó, mà là tuyên ngôn về cuộc sống tương lai. Hoàn toàn có thể là người Thiên Chúa giáo và là người phi lý. Đã có những ví dụ về người theo đạo Thiên Chúa nhưng không tin vào kiếp lai sinh. Xét về tác phẩm nghệ thuật, đúng ra nó có thể vạch ra một trong số những hướng phân tích phi lý vốn đã được tiên báo trong những trang trước. Nó khơi lên “sự phi lý của Phúc Âm”. Nó soi sáng ý tưởng này, vun bón bằng những hậu quả, sự chắc chắn ấy không ngăn được mối hoài nghi. Ngược lại, dễ thấy rằng tác giả của Lũ người quỷ ám, do đã quá quen với những nẻo đường như vậy, khi kết luận lại chọn con đường hoàn toàn khác. Câu trả lời đáng ngạc nhiên của người sáng tạo cho những nhân vật của mình, của Dostoevsky với Kirilov, có thể tóm tắt bằng một câu: Tồn tại là ảo tưởng và nó bất diệt.

Sáng tạo phù du

Đến đây tôi nhận ra rằng không thể mãi lảng tránh hy vọng, nó thậm chí quấn lấy cả những người muốn thoát khỏi nó. Tôi phát hiện ra điều thú vị này trong những tác phẩm ta bàn ở đây. Ít nhất, trong địa hạt sáng tạo, tôi có thể liệt kê ra một vài tác phẩm phi lý đích thực [16]. Nhưng thứ gì cũng có khởi đầu. Đối tượng ta tìm kiếm ở đây là lòng trung thành ở mức độ nhất định. Có lẽ khi trước Giáo hội khắc nghiệt với những kẻ dị giáo đến vậy chỉ vì Giáo hội cho rằng không có kẻ thù nào tồi tệ hơn một đứa con lầm đường lạc lối. Nhưng “thành tích” của những kẻ (bị coi là) vô liêm sỉ theo thuyết Ngộ Đạo [17] và sự kiên trì của trào lưu Mani giáo đóng góp vào việc xây dựng tín điều chính thống còn nhiều hơn mọi lời cầu nguyện. Xét kỹ ra, điều tương tự cũng đúng với sự phi lý. Ta nhận ra hướng đi của một người thông qua việc phát hiện những nẻo đường lệch khỏi nó. Cũng như ở kết luận cuối một chuỗi suy luận theo logic phi lý, thì điều quan trọng không phải ở chỗ sự dửng dưng sẽ đưa niềm hy vọng quay trở lại trong vỏ bọc thống thiết nhất của nó. Điều đó cho thấy rất khó để sự phi lý khép mình theo kỷ luật nghiêm khắc đã đặt ra [18]. Trên hết, điều đó cho thấy cần phải liên tục giữ được sự tỉnh thức và xác định hướng đi chung của tiểu luận này.

Nếu như đến đây hãy còn quá sớm để liệt kê các tác phẩm phi lý, thì ít nhất ta đi tới được một kết luận về quan điểm sáng tạo, một trong những quan điểm giúp tồn tại phi lý trở nên hoàn chỉnh. Không gì phụng sự nghệ thuật tốt bằng tư tưởng tiêu cực. Để hiểu được tác phẩm lớn, cần tồn tại cả những cách tiếp cận dốt nát và bị hạ nhục, cũng như cần có đen để hiểu thế nào là trắng. Lao động và sáng tạo “không vì điều gì”, chạm khắc trên đất sét, biết rằng sự sáng tạo của mình không có tương lai, thấy tác phẩm của mình bị phá hủy chỉ trong một ngày trong khi nhận thức được rằng về cơ bản, nó cũng không hề quan trọng hơn những tạo tác tồn tại được hàng thế kỷ - đây là những thấu ngộ đầy khó khăn mà tư duy phi lý công nhận. Thực hiện đồng thời hai việc này, nghĩa là một mặt thì phủ định còn mặt khác tán dương, là mở ra con đường cho người sáng tạo phi lý. Người ấy phải tô màu cho hư không.

Điều này cũng dẫn tới một quan niệm đặc biệt về tác phẩm nghệ thuật. Thường tác phẩm của nhà sáng tạo được coi là một loạt những chứng nghiệm riêng biệt. Như vậy khái niệm người nghệ sĩ và người học giả bị lẫn lộn với nhau. Một tư tưởng sâu sắc luôn trong trạng thái điều chỉnh liên tục; nó thu nạp trải nghiệm trong cuộc sống để nên hình nên dạng, tương tự, sự sáng tạo của một người được củng cố qua nhiều khía cạnh liên tục: chính là các tác phẩm của người đó. Tác phẩm sau nối tác phẩm trước, chúng bổ sung cho nhau, điều chỉnh hay vượt qua, thậm chí mâu thuẫn nhau. Nếu quả có điều gì đưa sự sáng tạo đến điểm tận cùng, thì đó không phải là tiếng thét ảo tưởng mừng chiến thắng của nhà nghệ sĩ mù quáng, rằng “Ta đã thể hiện hết mọi điều”, mà chính là cái chết của người sáng tạo, cái chết đóng lại chặng đường trải nghiệm lẫn cuốn sách thể hiện tài năng thiên phú của người ấy.

Nỗ lực đó, ý thức siêu nhân đó không nhất thiết rõ ràng dễ thấy trong mắt người đọc. Sự sáng tạo của con người không có gì là kỳ bí. Chính ý chí tạo ra điều kỳ diệu ấy. Nhưng quả là không có sự sáng tạo đích thực nào không ẩn chứa bí mật. Những tác phẩm nối tiếp nhau không là gì khác ngoài hàng loạt những biến thể xấp xỉ nhau của cùng một tư duy gốc. Nhưng một dạng sáng tạo khác có thể hình thành khi đặt các tác phẩm đó cạnh nhau. Khi đó chúng trông có vẻ không liên quan gì tới nhau. Xét ở một cấp độ nào đó, chúng mâu thuẫn nhau.

Nhưng khi được đặt cạnh nhau để cùng xem xét, thì những tác phẩm ấy vẫn toát lên đặc tính chung tự nhiên. Ví dụ, từ cái chết chúng tìm được ý nghĩa đáng tin cậy nhất về mình. Chúng tiếp nhận thứ ánh sáng rõ ràng nhất từ cuộc đời của chính người tác giả. Vào thời khắc người ấy chết đi, những tác phẩm tiếp nối nhau ông từng sáng tác chỉ là một bộ sưu tập những thất bại. Nhưng nếu giả như những thất bại ấy đều có độ ngân vang như nhau, thì người sáng tạo đã làm được việc là phỏng lặp lại thân phận của mình, làm cho cái bí mật vô ích mà ông sở hữu vang vọng trong không gian.

Ở đây nỗ lực kiềm chế là rất đáng kể. Nhưng trí tuệ con người có khả năng vượt cao hơn thế nữa. Nó chỉ rõ khía cạnh tự nguyện của sáng tạo. Tôi từng viết trong một bài khác rằng ý chí con người không có mục đích nào khác hơn là duy trì sự tỉnh thức. Nhưng không thể làm vậy nếu không có kỷ luật. Sáng tạo là trường học rèn tính kiên nhẫn và sự sáng suốt hiệu quả nhất. Nó cũng là bằng chứng đáng ngạc nhiên về phẩm giá duy nhất của con người: chính là cuộc nổi dậy bền bỉ chống lại thân phận của mình, kiên trì theo đuổi một nỗ lực được cho là vô ích. Nó đòi hỏi sự cố gắng hàng ngày, sự tự chủ, và phán đoán chính xác về những giới hạn của sự thật, mức độ và sức mạnh. Tất cả đó, là một chế độ khổ hạnh. Và tất cả đều “vì cái hư không”, để phỏng lặp và để lại dấu chân mình trong dòng chảy thời gian. Tác phẩm nghệ thuật vĩ đại là thử thách đặt ra cho con người, cũng là cơ hội để người sáng tạo vượt qua những bóng ma của mình và tiến gần hơn một chút đến sự thật trần trụi. Vai trò này của các tác phẩm lớn có lẽ còn quan trọng hơn giá trị tự thân của nó.

Đừng nhầm lẫn khi xét đến khía cạnh thẩm mỹ. Ở đây tôi không cần đến những phân tích vô ích bất tận của những bài luận văn. Hoàn toàn ngược lại. Tiểu thuyết-luận đề, loại tác phẩm để chứng minh, cái thể loại đáng ghét nhất, thường nảy sinh từ một ý nghĩ tự mãn. Tác giả chứng tỏ mình chắc chắn về chân lý mình nắm giữ. Nhưng đó chỉ là những ý kiến đưa ra, mà ý kiến là sự trái ngược của tư duy. Mà những nhà sáng tạo ấy lại chính là triết gia, thật đáng xấu hổ. Tôi chỉ muốn bàn đến ở đây các nhà tư tưởng sáng suốt. Ở một mức nào đó, khi tư duy quay về nghiền ngẫm chính nó, thì nó hình dung tác phẩm như là biểu tượng hiển nhiên của một tư duy giới hạn, không phải là bất tử, và có tính phản kháng.

Có lẽ những người tôi nói đến cũng có chứng tỏ điều gì đó. Nhưng đó là những bằng chứng mà tiểu thuyết gia cung cấp cho chính mình hơn là cho thế giới. Điều cốt yếu là, tiểu thuyết gia mừng chiến thắng trong cái cụ thể, và chính điều này làm nên sự cao quý của họ. Cái chiến thắng hoàn toàn trần tục này đã được dọn sẵn chờ họ nhờ những thế lực trừu tượng bị hạ thấp trong tư duy của họ. Và khi chúng bị hạ thấp hoàn toàn, thì cùng lúc những yếu tố thuộc cõi phàm này sẽ khiến tác phẩm sáng lên lấp lánh trong vẻ huy hoàng phi lý. Rốt cuộc, những triết lý mỉa mai sản sinh ra tác phẩm đầy đam mê.

Bất kỳ tư duy nào phản đối nhất nguyên cũng đều tôn vinh sự đa dạng. Mà sự đa dạng là ngôi nhà của nghệ thuật. Tư duy độc nhất giải phóng tâm trí là tư duy không can thiệp đến nó, chắc chắn về những giới hạn cũng như kết thúc sớm muộn sẽ đến với nó. Không học thuyết, giáo điều nào cám dỗ được tư duy ấy. Nó chờ đợi sự chín muồi của các tác phẩm và cuộc sống. Một khi không lệ thuộc vào nó, tác phẩm sẽ cất lên tiếng nói không bị bóp nghẹt của một linh hồn Mãi mãi được giải thoát khỏi niềm hy vọng. Hoặc ngược lại, nó không biểu lộ điều gì, nếu người sáng tạo đã mệt mỏi và muốn quay đi. Hai cách diễn đạt đó tương đương nhau.

Vậy là, tôi đòi hỏi ở sáng tạo phi lý đúng những gì tôi đòi hỏi từ tư tưởng - sự phản kháng, tự do, và đa dạng. Rồi sau đó, sáng tạo phi lý sẽ thể hiện sự vô ích hoàn toàn của nó. Trong những nỗ lực ngày thường, khi mà trí tuệ và niềm đam mê hòa quyện và khơi gợi lẫn nhau, con người phi lý phát hiện ra nếp kỷ luật đưa lại cho anh sức mạnh lớn lao nhất. Sự cần mẫn bắt buộc, tính ngoan cường bền bỉ và sự sáng suốt, những yếu tố đó cũng tương tự như quan điểm của người chinh phục. Sáng tạo cũng giống như tạo hình định dạng cho một số phận con người. Với những người này, tác phẩm sáng tạo của họ cũng định nghĩa họ, ít ra là ngang bằng với mức họ định nghĩa chúng. Người diễn viên dạy ta một điều rằng: giữa bản chất vai diễn và vẻ ngoài trình diễn không có gì ngăn cách.

Xin được nhắc lại. Không gì trong số những điều này mang ý nghĩa thực sự. Trên con đường đạt tới sự giải phóng, hãy còn cả một quá trình. Nỗ lực cuối cùng của những tâm trí đề cập ở đây, dù của người sáng tạo hay người chinh phục, là giải thoát họ khỏi gánh nặng đang mang: là công nhận những công việc của họ, cho dù nó là sự chinh phục, yêu đương hay sáng tạo có thể không phải là như thế; hoàn thành sự vô ích tột cùng của cuộc đời một cá nhân. Thật ra, điều đó cho họ thêm nhiều tự do để nhìn nhận tác phẩm đó, cũng như nhận thức được sự phi lý của cuộc đời đã cho phép họ lao mình vào nó hết mình, không gì kiềm chế.

Tất cả những gì còn lại là một số phận mà chỉ có kết cục là nhuốm màu chết chóc. Ngoài cái chết đã định duy nhất đó, mọi thứ khác, niềm vui sướng hay hạnh phúc, là sự giải phóng. Thế giới diễn tiến với người chủ nhân duy nhất là con người. Những gì từng trói buộc anh ta là ảo tưởng của một thế giới khác. Kết quả của tư duy người ấy, vốn không còn bị khước từ nữa, bung nở trong vô vàn hình tượng. Nó đùa nghịch - có lẽ chỉ trong những điều hư cấu, nhưng những hư cấu đó không có chiều sâu nào ngoài chiều sâu của nỗi khổ con người và cũng vô tận như thế. Không phải trong những truyền thuyết thánh thần đáng cười và mù quáng, mà chính trong những gương mặt, hành vi, và vở kịch ngay trên trái đất này mà sự thấu ngộ đầy khó khăn và niềm đam mê phù du được kết tinh.

Chú thích:

[1] Núi Ôliu là núi ở thành phố Jerusalem, gắn với các truyền thống của người Do Thái và Kitô giáo.

[2] Phần trên cùng của mặt tiền đền thờ. - BTV

[3] Nay là Ethiopia. Nhà thơ Pháp Jean Nicolas Arthur Rimbaud từng có thời gian sống ở đây nhưng không sáng tác thơ mà làm nhà buôn, trong đó có buôn súng, café và da thú.

[4] Thật kỳ lạ khi nhận thấy rằng trong thể loại hội họa giàu trí tuệ nhất, cố gắng quy giản thực tế thành như