← Quay lại trang sách

P8. CAPITÔN[130] VÀ VÙNG PHỤ CẬN. 1. PHÂN TÍCH NHỮNG CHUYỆN TÔN NGHIÊM

P8. CAPITÔN[130] VÀ VÙNG PHỤ CẬN.

1. phân tích những chuyện tôn nghiêm

ước đi lên đáng sợ, từ mấy tiếng đồng hồ, cứ luôn luôn thay đổi màu sắc khiến cho Guynplên hoa cả mắt, và đã dẫn nó đến Uynxo, giờ đây lại đưa nó trở lại Luân đôn.

Những thực tế huyền ảo cứ nối tiếp nhau trước mắt nó không gián đoạn.

Chẳng có cách nào lẩn tránh được cả. Thực tế này vừa buông nó ra, thực tế kia lại bắt giữ nó lại.

Nó không có thì giờ để kịp thở nữa.

Ai đã từng thấy người là trò tung hứng là đã được nhìn thấy số phận. Những vật tung rơi đó, hết tung lên rồi lại rơi xuống, là những con người nằm trong tay số phận.

Vật tung rơi là thứ đồ chơi.

Ngay chiều hôm ấy, Guynplên ở tại một nơi rất kỳ lạ.

Nó ngồi trên một chiếc ghế dài có hình hoa huệ.

Ngoài bộ áo lụa, nó khoác một chiếc áo dài nhung đỏ lót lụa trắng, có lông chồn trắng, trên vai đính hai giải lông chồn trắng thêu kim tuyến.

Xung quanh nó, những người đủ mọi lứa tuổi, trẻ có, già có, cũng ngồi như nó, trên hoa huệ, cũng khoác áo đỏ và công chồn trắng như nó.

Trước mặt, một số người khác đang quỳ gối. Nhóm này mặc áo lụa đen. Một số trong những người quì gối đang viết.

Đối điện với nó, cách xa một tí, nó thấy có mấy bực thềm, một cái bục, một long đình, một huy chương to lấp lánh giữa một con sư tử và một con kỳ lân; dưới long đình, trên cái bục, trên bực thềm cao nhất, tựa lưng vào chiếc huy chương, là một chiếc ghế bành thếp vàng có hình vương miện. Đấy là một cái ngai.

Ngai của Đại Anh quốc.

Guynplên, bản thân là nguyên lão, đang ngồi trong nguyên lão nghị viện Anh quốc.

Guynplên đã được đưa vào nghị viện nguyên lão bằng cách nào? Chúng ta hãy nói ngay điều đó.

Suốt ngày từ sáng đến chiều, từ Uynxơ đến Luân đôn, từ Corlêon-Lotglơ đến Oexminxtơ-Hon, là cả một cuộc đi hết bực thang này đến bực thang khác. Mỗi bực thang lại thêm một lần choáng váng mới.

Từ Uynxo nó được đưa đi trong những chiếc xe của nữ hoàng, với đoàn hộ tống đúng nghi thức dành cho một vị nguyên lão.

Đội vệ binh danh dự giống hệt đội vệ binh đứng gác.

Ngày hôm ấy, trên con đường từ Uynxo đến Luân đôn, dân chúng dọc bờ sông trông thấy một đoàn quí tộc ân cấp của nhà vua phi ngựa theo hai chiếc xe trạm lộng lẫy kiểu hoàng gia. Viên hoàng môn quan đũa đen ngồi trong xe thứ nhất, tay cầm chiếc đũa. Trong xe thứ hai, người ta nhận thấy một chiếc mũ lông chim trắng đổ bóng kín cả một khuôn mặt. Ai đi qua thế? Một hoàng thân chăng? Một tù nhân chăng.

Đó chính là Guynplên.

Nom có vẻ như một kẻ bị dẫn tới tháp Luân Đôn[131], nếu không phải là một người được đưa đến nguyên lão nghị viện.

Nữ hoàng đã khéo sắp đặt mọi việc. Vì đây là người chồng tương lai của cô em, nên nữ hoàng đã cho một đoàn hộ tống riêng của mình.

Viên tuỳ tùng của hoàng môn quan đũa đen cưỡi ngựa dẫn dầu đoàn.

Trong xe của hoàng môn quan đũa đen, trên chiếc ghế phu, có một cái gối bằng dạ ngân tuyến. Trên gối này đặt một cái cặp đen đóng hình vương miện.

Đến Brenfo, trạm cuối cùng trước khi đến Luân Đôn, hai chiếc xe và đoàn hộ tống dừng lại.

Một cỗ xe bốn bánh bằng đồi mồi đóng bốn ngựa đang túc trực, phía sau có bốn tên hầu, phía trước có hai kỵ mã, và một người đánh xe đội tóc giả. Bánh xe, kệ để đồ, càng xe, toàn bộ trang bị trên xe đều mạ vàng. Đàn ngựa đều thắng yên cương bằng bạc.

Chiếc xe dạ hội này hình dáng oai nghiêm và kỳ lạ, đáng được long trọng có mặt trong số năm mươi mốt cỗ xe nổi tiếng mà Rubô đã để lại cho ta những bức tranh.

Hoàng môn quan đũa đen bước xuống xe, viên tuỳ tùng của y cũng xuống ngựa.

Viên tuỳ tùng bê cái gối dạ ngân tuyến ra khỏi chiếc ghế phu, trên để cái cặp in hình vương miện. Hắn bưng cái gối bằng cả hai tay, và đứng sau lưng hoàng môn quan.

Hoàng môn quan đũa đen mở cửa chiếc xe tứ mã, không người, rồi mở cửa xe của Guynplên. Hai mắt nhìn xuống, y kính cẩn mời Guynplên sang ngồi vào chiếc xe tứ mã.

Guynplên xuống xe trạm rồi bước lên cỗ xe tứ mã.

Hoàng môn quan cầm đũa và viên tuỳ tùng bưng gối cũng bước lên theo, ngồi xuống cái ghế dài thấp dành cho tiểu đồng trong những xe lễ tân ngày xưa.

Phía trong xe chăng xa-tanh trắng và hàng Binsơ với những riềm, những quả găng bạc. Trần xe có trang trí huy chương.

Số kỵ mã của hai chiếc xe trạm vừa bỏ lại đều bận y phục quân nhà vua. Còn tên đánh xe: cánh kỵ mã và quân hầu của cỗ xe tứ mã lại vận chế phục khác, rất lộng lẫy.

Guynplên, qua chuyến mộng du làm nó thất đảm, nhận thấy đám đầy tớ rực rỡ đó liền hỏi hoàng môn quan đũa đen.

- Bọn quân hầu nào thế?

Viên hoàng môn quan đũa đen đáp:

- Bẩm huân tước, quân hầu của ngài.

Hôm ấy, nghị viện nguyên lão họp vào buổi tối.

Curia erat serena[132] theo như các biên bản cũ. Ở nước Anh nghị trường sẵn lòng sinh hoạt ban đêm. Người ta được biết có lần Sêridan mở đầu bài diễn văn vào lúc nửa đêm và kết thúc nó vào lúc mặt trời mọc.

Hai chục xe chạm đi không, trở lại Uynxo; cỗ xe tứ mã có Guynplên ngồi, tiến về hướng Luân đôn.

Cỗ xe đồi mồi tứ mã đi bước một từ Brenfi về Luân đôn. Tư thế bộ tóc giả của tên đánh xe đòi hỏi phải vậy. Nhìn vẻ mặt long trọng của tên đánh xe, Guynplên cũng lây dáng nghiêm trang.

Vả lại những sự chậm trễ đó đều có vẻ như được tính toán. Chốc nữa ta sẽ thấy được lý do có lẽ xác đáng.

Trời chưa tối, nhưng cũng sắp rồi, khi cỗ xe đồi mồi dừng lại trước cổng Hoàng Cung, một cái cổng thấp, nặng nề, giữa hai tháp con dẫn từ Hoaitơ Hon sang Oextminxtơ.

Đoàn quí tộc ân cấp cưỡi ngựa vây quanh cỗ xe tứ mã.

Một tên tòng bộc, đứng phía sau nhảy xuống đường.

Viên hoàng môn quan đũa đen, có tên tuỳ tùng bưng gối theo sau, bước ra khỏi xe và tâu với Guynplên:

- Bẩm huân tước, kính mời huân tước xuống xe. Xin huân tước cứ để mũ trên đầu.

Trong chiếc áo khoác đi đường. Guynplên vẫn mặc chiếc áo lụa hôm qua. Nó không có kiếm.

Nó để áo khoác lại trên xe.

Dưới mái vòm dành cho xe cộ của cổng Hoàng Cung có một cái cửa ngang nhỏ được tôn cao thêm nhờ mấy bậc cấp.

Trong nghi thức trang nghiêm, đi trước là dấu hiệu tôn kính. Viên hoàng môn quan đũa đen đi trước, sau lưng có tay tuỳ tùng.

Guynplên bước theo sau.

Tất cả bước lên bậc cấp và đi qua cái cửa ngang.

Một lúc sau, họ đứng trong một căn phòng tròn, rộng, giữa có cột trụ; đây là phần dưới một tháp con, thuộc tầng dưới cùng, lấy ánh sáng qua những lỗ hẹp hình cung nhọn như những khe nhỏ trong hậu tầm, và ngay giữa trưa cũng rất tối. Đôi khi cảnh thiếu ánh sáng lại tôn thêm vẻ trang nghiêm. Bóng tối vốn uy nghiêm.

Trong căn phòng này có mười ba người đang đứng nghiêm. Phía trước ba, hàng thứ nhì sáu, phía sau bốn.

Trong số ba người đứng đầu, một anh mặc áo nhung đỏ, hai anh kia cũng mặc áo đỏ nhưng bằng xa-tanh. Cả ba đều có huy hiệu Anh quốc đeo trên vai.

Sáu anh đứng ở hàng thứ hai mặc áo cồn bằng hàng vân trắng, mỗi anh có một huy hiệu khác nhau trên ngực.

Bốn anh đứng phía sau đều mặc áo vân đen khác hẳn nhau, người thứ nhất bởi chiếc áo choàng xanh lam, người thứ nhì bởi chiếc huy hiệu thánh Giorgiơ đỏ ở bụng, người thứ ba bởi hai thánh giá đỏ sẫm trên ngực và trên lưng, người thứ tư bởi cái cổ lông đen, gọi là da xabenlin. Tất cả đều đội tóc giả, không mũ, hông đeo kiếm.

Vì tranh tối tranh sáng nên rất khó nhận ra mặt họ.

Mà họ cũng không thể trông thấy Guynplên.

Lão hoàng môn quan đũa đen giơ chiếc đũa lên và nói:

- Bẩm huân tước Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli và Hâncơvin, hạ thần, hoàng môn quan đũa đen, đệ nhất quan chức phòng xuất tịch, xin phép được chuyển giao lãnh chúa lại cho Giarơchie, vụ trưởng vụ lễ nghi Anh quốc.

Nhân vật mặc áo nhung, để những người khác đứng lại sau, cúi sát đất chào Guynplên và nói:

- Bẩm huân tước Fecmên Clăngsacli, thần, Giarơchie, vụ trưởng vụ lễ nghi. Thần là quan chức do công tước Norphon, bá tước nguyên soái thế tập, sáng lập và gia phong. Thần đã tuyên thệ trung thành với nhà vua, và các nguyên lão và các hiệp sĩ dòng Giarơchie. Ngày gia phong của thần, ngày thần được bá tước - nguyên soái Anh quốc rót lên đầu một chén rượu, thần đã trịnh trọng hứa giúp đỡ giới quý tộc, tránh giao du với những kẻ thành tích bất hảo, tha thứ chứ không khiển trách những người quý phái, cứu giúp các quả phụ và các trinh nữ. Chính thần chịu trọng trách chu tất tang nghi cho các nguyên lão và chăm lo bảo vệ huy hiệu của các nguyên lão. Thần đến chờ đợi sự sai khiến của lãnh chúa.

Người thứ nhất trong hai người mặc áo xa-tanh gập người xuống chào và nói:

- Bẩm huân tước, thần là Claren, vụ phó vụ lễ nghi Anh quốc. Thần là quan chức phụ trách mai táng các quý tộc dưới hàng nguyên lão. Thần đến chờ đợi sự sai bảo của lãnh chúa.

Người mặc áo xa-tanh kia cúi chào và nói:

-Bẩm huân tước, thần là Noroa, vụ phó thứ hai vụ lễ nghi Anh quốc. Thần đến chờ đợi sự sai bảo của lãnh chúa.

Sáu người ở hàng thứ hai, đứng im và không nghiêng mình, tiến lên một bước.

Người thứ nhất bên phải Guynplên nói:

- Bẩm huân tước, lũ thần, sáu trợ lý lễ nghi Anh quốc. Thần là York.

Rồi mỗi truyền lệnh sứ tức trợ lý lễ nghi lần lượt lên tiếng, và tự xưng danh.

- Thần là Lancat.

- Thần là Lysơmông.

- Thần là Sextơ.

- Thần là Xômơxet.

- Thần là Uynxo.

Những huy hiệu trên ngực họ là huy hiệu các lãnh địa và thành phố họ mang tên.

Bốn người mặc áo đen, đứng sau các truyền lệnh sứ, đều đứng im.

Vụ trưởng vụ lễ nghi Giarơchie đưa ngón tay chỉ họ cho Guynplên và nói:

- Bẩm huân tước, đây là bốn nhân viên trong vụ lễ nghi.

- Áo xanh.

Người khoác áo choàng xanh cúi đầu chào.

- Rồng Đỏ.

Người mang huy chương Thánh Giorgiơ cúi chào.

- Thập tự Đỏ.

Người mang chữ thập đỏ cúi chào.

- Cửa hậu trường.

Người khoác lông xabenlin cúi chào.

Theo hiệu lệnh của vụ trưởng vụ lễ nghi, nhân viên thứ nhất, Áo Xanh, tiến lên, đỡ từ tay viên tuỳ tùng của hoàng môn quan chiếc gối dạ ngân tuyến và cái cặp có hình vương miện.

Vụ trưởng vụ lễ nghi nói với hoàng môn quan đũa đen:

- Lễ tất. Tôi xin lĩnh nhận ngài lãnh chúa.

Những thủ tục này khác tiếp theo thuộc về nghi lễ cổ xưa trước thời Hăngry VIII, mà nữ hoàng Anh cố gắng phục hồi trong một thời gian. Ngày nay tất cả những việc trên đây không còn gì nữa. Tuy vậy nghị viện nguyên lão vẫn tưởng mình bất di bất dịch; và nếu những gì xa xưa còn tồn tại ở một nơi nào đó, thì chính là những điểm trên đây. Tuy vậy nó cũng có thay đổi. E Pur si muovel.

Chẳng hạn cái may pole, tức là cái cột tháng Năm mà thành phố Luân Đôn vẫn trồng trên đường các vị nguyên lão đi đến nghị viện, thì nay ra sao? Cột cuối cùng còn thấy được trồng vào năm 1713. Từ đó "may pole" đã biến mất. Lạc hậu.

Bề ngoài vẫn bất động; thực tế có thay đổi. Chẳng hạn như danh hiệu: Anbơmaclơ. Tưởng chừng nó vĩnh cửu. Vậy mà đã có mười gia đình mang danh hiệu đó.

Ôđô, Mađơvin, Bêtuyn, Plăngtagiơnê, Bôsăng, Monk.

Với danh hiệu Lixextơ đã nối tiếp năm tên khác nhau, Bônông, Bnivô, Đulây, Xitnây, Côkơ. Với Lincôn, sáu. Với Pembrôk, bảy, vân vân. Gia đình thay đổi, nhưng danh hiệu vẫn giữ nguyên. Nhà viết sử hời hợt tưởng đâu là bất di bất dịch. Thực sự chẳng có gì trường cửu cả. Con người chỉ có thể là sóng. Chính nhân loại mới là nước.

Giới quý tộc tự hào về điểm mà phụ nữ vẫn lấy làm xấu hổ là tuổi già, nhưng cả phụ nữ lẫn quý tộc đều ảo tưởng mình vẫn trẻ mãi. Có lẽ nghị viện nguyên lão sẽ không bao giờ nhận ra mình qua điều ta vừa đọc tự đây và điều ta sắp đọc, gần giống như người đàn bà đẹp ngày xưa không muốn có nếp nhăn. Gương soi là một tên bị cáo già; nó hay vào hùa.

Tất cả nhiệm vụ của nhà viết sử là làm sao cho giống.

Viên vụ trưởng vụ lễ nghi nói với Guynplên.

- Xin huân tước vui lòng theo tôi.

Y nói thêm:

- Người ta sẽ chào ngài. Ngài chỉ cần khẽ hất vành mũ lên thôi. Sau đó, đoàn tiến thành hàng về phía một cái cửa ở cuối phòng tròn.

Lão hoàng môn quan đũa đen dẫn đầu.

Rồi đến anh Áo Xanh bưng gối; rồi đến vụ trưởng vụ lễ nghi; sau vụ trưởng vụ lễ nghi là Guynplên mũ vẫn đội trên đầu.

Các vụ phó vụ lễ nghi, truyền lệnh sử, nhân viên vụ lễ nghi, đứng lại trong căn phòng tròn.

Guynplên, trước mặt có lão hoàng môn quan đũa đen, sau lưng có vụ trưởng vụ lễ nghi, đi từ phòng nọ sang phòng kia, theo một hành trình ngày nay không thể nào tìm ra được, vì toà nhà cũ của nghị viện Anh quốc đã bị phá huỷ.[133] Ngoài các phòng, nó còn đi qua căn phòng quốc vụ viện kiểu gôtic, nơi xảy ra cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Ciăc đệ Nhị và Monmoath, nơi đã chứng kiến việc người cháu hèn nhát quỳ gối vô ích trước mặt ông chú độc ác.

Quanh căn phòng này, treo thành hàng trên tường, theo thứ tự năm, cùng với tên và huy hiệu, chín bức chân dung toàn thân của những nguyên lão cũ. Huân tước Nauxlađrông 1305. Huân tước Balion 1306. Huân tước Môngbêgon 1357. Huân tước Tibôtô 1372. Huân tước Zusơ Côno 1615. Huân tước Bla Aqua, không có niên hiệu. Huân tước Haren và Xơrê, bá tước Bloa, không có niên hiệu.

Trời đã về đêm, trong hành lang từng quãng từng quãng lại có đèn. Những ngọn đèn chùm bằng đồng cắm nến sáp ong đều thắp sáng trong các phòng, nom tương tự như các gian bên của nhà thờ.

Ở đấy chỉ có mặt những người cần thiết.

Trong một phòng khác có ngài Philip Xaiđenham quang vinh, lãnh chúa Etmun Bêcân Xuyphôn, người thừa kế của ngài Nicôla, và được phong primus harone- torum Anglioe[134]. Sau lưng ngài Etmun có cung thủ riêng mang bộ súng hỏa mai và tuỳ tùng mang huy hiệu Uynxtơ, vì các tòng nam tước sinh ra đã là người bảo vệ lãnh địa Uynxtơ ở Iêclăng.

Trong một phòng khác có vị quốc khố đại thần, kèm thêm bốn vị chủ nhiệm tài khoản và hai đại diện của huân tước thị vệ đại thần, có nhiệm vụ phân bổ thuế thân. Lại thêm trưởng ban tiền tệ, trên bàn tay xoè có một đồng livrơ xteclinh dập máy như các đồng pao. Cả tám nhân vật này đều kính cẩn chào vị huân tước.

Tại chỗ bước vào du lang có trải một chiếc chiếu, dẫn từ hạ nghị viện sang thượng nghị viện, Guynplên được ngài Tômax Manxen Macgam chào, ông này là kiểm soát viên tại cung nữ hoàng, và đại biểu nghị viện của Glamorgan; và tại chỗ ra lại được một đoàn đại biểu chào, đoàn "một trên hai" này thay mặt cho các nam tước Năm Hải-cảng[135] sắp hàng bốn, bên phải bên trái, vì Năm Hải-cảng thành tám. Uynliam Asbơham chào thay cho Haxtinh, Mathiu Aimo thay cho Đuvrơ, Giôdiax Bơcsét thay cho Xanđuysơ, ngài Philip Botơlơ thay cho Haith, Gion Briuvơ thay cho Niu Râmnê, Eđua Xaothuen thay cho thành phố Rai, Giêm Hay thay cho thành phố Vinsenxi, và Giorgiơ Nêlo thay cho thành phố Xipho.

Guynplên sắp chào lại thì vụ trưởng vụ lễ nghi khẽ nhắc nghi thức.

- Bẩm huân tước, chỉ vành mũ thôi.

Guynplên vội làm đúng lời hướng dẫn.

Nó vào đến phòng họa; ở đây không có tranh vẽ, ngoài mấy bức ảnh thánh, trong số đó có thánh Eđua, dưới những vòm cửa sổ dài hình cung nhọn bị mặt sàn cắt đôi phía dưới là Oetminxtơ-Hon[136] phía trên là phòng họa.

Bên này bức rào chắn bằng gỗ ngăn đôi phòng họa, có ba vị quốc vụ khanh, những nhân vật quan trọng. Vị thứ nhất có chức quyền tại miền nam Anh quốc, xứ Iêclăng và các thuộc địa, thêm các nước Pháp, Ý, Thụy Sỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Thổ Nhĩ Kỳ. Vị thứ nhì lãnh đạo miền bắc Anh quốc và giám sát các nước Hà Lan, Đức, Đan Mạch, Thụy Điển, Ba Lan và Moxcôvi. Vị thứ ba người Êcôx, lãnh trách nhiệm xứ Êcôx. Hai vị trên là người Anh. Một trong hai vị là ngài Rôbơc Haclây tôn kính, đại biểu nghị viện của thành phố Niu Ratno. Một đại biểu Êcôx, ngài Mungô Graham, có họ với công tước Môngtơrô, cũng có mặt. Tất cả đều im lặng chào Guynplên.

Guynplên khẽ chạm mũ.

Người gác rào chắn nhấc thanh gỗ có bản lề mở lối vào phía sau phòng hoạ, ở đấy có chiếc bàn dài trải thảm màu xanh lá cây, dành riêng cho các vị huân tước.

Trên bàn đặt một giá đèn chùm tháp nến sáng trưng.

Guynplên trước mặt có hoàng môn quan đũa đen, Áo Xanh và Giarôchie, bước vào gian phòng riêng này.

Người gác chắn, sau khi Guynplên đi qua, lại đóng lối vào.

Vụ trưởng vụ lễ nghi vừa qua khỏi chắn liền dừng lại.

Phòng hoạ rộng thênh thang.

Cuối phòng, đứng dưới cái vương huy giữ hai cửa sổ, có hai ông già vận nhung phục đỏ với hai giải lông chồn trắng viền vạch vàng ở vai, và đội mũ lông chim trắng trên bộ tóc giả. Qua tà áo thấy rõ chiếc áo lụa và cái đốc kiếm của họ.

Sau lưng hai ông già, một người mặc áo vân đen đứng đực như phỗng, tay giơ cao một cái chuỳ vàng to phía trên có đầu sư tử đội vương miện.

Đấy là viên hộ pháp cầm chuỳ của các nguyên lão Anh quốc.

Sư tử là biểu trưng của các vị. Et les lions ce sont les Barons et li Per, theo biên niên sử viết tay của Bectơrăng Đuy Ghexcơlanh.

Vụ trưởng vụ lễ nghi chỉ cho Guynplên hai nhân vật mặc nhung phục và khẽ rỉ tai;

- Bẩm huân tước, hai vị này ngang hàng với huân tước. Ngài đáp lễ đúng như họ chào ngài. Hai vị huân tước hiện diện này là hai nam tước và là người đỡ đầu cho ngài, do huân tước tư pháp đại thần chỉ định. Hai vị rất già và hầu như mù. Chính họ sẽ tiến dẫn huân tước vào nguyên lão nghị viện. Vị thứ nhất là Saclơx Vinmê, huân tước Phitoantơ, lãnh chúa thứ sáu ở dãy ghế nam tước, vị thứ hai Ôguytơx Arânđen, huân tước Arânđen Tơrerix, lãnh chúa thứ ba mươi sáu trên hàng ghế nam tước.

Vụ trưởng vụ lễ nghi tiến một bước về phía hai ông già và cất cao giọng:

- Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli, nam tước Hâncơvin, kiêm hầu tước Corlêon xứ Xixin, nguyên lão vương quốc, kính chào quí vị lãnh chúa.

Hai vị huân tước nhấc mũ ra, đưa thẳng cánh tay lên trên đầu rồi đội lại.

Guynplên cũng chào lại đúng theo kiểu đó.

Viên hoàng môn quan đũa đen lại tiến lên, rồi đến Áo Xanh, rồi Giarơchie.

Viên hộ pháp đến đứng ngay trước mặt Guynplên, hai vị huân tước đứng hai bên, huân tước Phitoantơ bên phải, huân tước Arânđen Tơrerix bên trái. Huân tước Arânđen gầy còm và nhiều tuổi hơn. Ông ta mất vào năm sau, để lại tước vị nguyên lão nghị viện cho người cháu tên là Gion, vị thành niên Tước đại thần này cũng chấm dứt vào năm 1768.

Đoàn người rồi khỏi phòng hoạ, bước vào một hành lang toàn trụ vuông. Ở đây, từ trụ nọ sang trụ kia, xen kẽ có lính cầm thương của nước Anh và lính cầm kích xứ Êcôx đứng canh.

Lính cầm kích người Êcôx là đoàn quân tuyệt vời chân đất xứng đáng đương đầu sau này với Fôngtơroa, với kỵ binh Pháp và với những giáp binh nhà vua mà đại tá của họ nói: Thưa các tiên sinh, các ngài hãy giữ chặt lấy mũ, chúng tôi sắp hân hạnh được tấn công.

Vị chỉ huy lính cầm thương và vị chỉ huy lính cầm kích cùng vung kiếm chào Guynplên và hai vị huân tước đỡ đầu. Còn cánh lính thì tốp chào bằng thương tốp chào bằng kích.

Cuối hành lang lấp loáng một cái cửa lớn, hai cánh rực rỡ như hai tấm vàng lá.

Hai bên cửa có hai người đứng im như phỗng. Qua chế phục của họ có thể nhận ra đấy là lính canh cửa.

Trước khi đến cái cửa ấy, hành lang rộng ra và có một giao điểm tròn lồng kính.

Tại giao điểm này, một nhân vật uy nghiêm, nhờ tấm áo rộng và bộ tóc giả, ngồi trên một chiếc ghế bành lưng tựa rất rộng. Đó là Uynliam Caopơ, huân tước tư pháp đại thần của Anh quốc.

Tàn tật hơn nhà vua là một ưu điểm. Uynliam Caopơ cận thị. Nữ hoàng Anh cũng thế nhưng có kém hơn. Tật phải nhìn gần này của Unyliham Caopơ rất vừa lòng tật cận thị của nữ hoàng, nên ông được nữ hoàng chọn làm tư pháp đại thần và người bảo vệ lương tâm của triều đình.

Uynliam Caopơ có môi trên mỏng môi dưới dầy, dấu hiệu của sự phúc hậu nửa vời.

Giao điểm lồng kính được soi sáng bằng một ngọn đèn treo ở trần.

Huân tước tư pháp đại thần, nghiêm nghị trong chiếc ghế bành cao, bên phải có một cái bàn với viên thư ký hoàng gia, bên trái có một cái bàn với viên thư ký nghị viện.

Trước mặt mỗi viên thư ký đều đặt một quyển sổ mở sẵn và một nghiên mực.

Viên hộ pháp cầm cái chuỳ có vương miện đứng sau chiếc ghế bành của tư pháp đại thần. Thêm viên cầm đuôi áo và viên cầm túi tiền đội tóc giả dài. Tất cả những chức vụ đó hiện nay vẫn còn.

Trên chiếc bàn con cạnh ghế bành có một cây kiếm đốc bằng vàng, bao và dây đeo bằng nhung màu lửa.

Một quan chức đứng sau lưng viên thư ký hoàng gia, hai tay nâng một tấm áo mở sẵn, đấy là tấm áo đăng quang.

Một quan chức khác đứng sau lưng viên thư ký nghị viện cũng nâng một tấm áo mở rộng, đấy là tấm áo nghị viện.

Hai tấm áo ấy, bằng nhung đỏ, lót lụa trắng với hai giải lông chồn trắng có vạch vàng ở vai, đều giống nhau, trừ mỗi một điểm là giải lồng chồn trắng ở chiếc áo đăng quang có to bản hơn.

Một quan chức thứ ba là viên "thủ thư" bưng một mảnh da vuông xứ Flăngđrơ trên để quyển sổ đỏ, một thứ sổ con bọc da dê đỏ, trong có danh sách các đại thần và các công xã, thêm những trang trắng và một cây bút chì theo tục lệ được giao lại cho mỗi đại biểu mới vào nghị viện.

Đoàn người, đi sau cùng là Guynplên bước giữa hai đại thần đỡ đầu, dừng chân trước chiếc ghế bành của huân tước tư pháp đại thần.

Hai vị huân tước đỡ đầu bỏ mũ ra. Guynplên cũng làm theo họ.

Vụ trưởng vụ lễ nghi liền đón từ tay Áo Xanh chiếc gối dạ ngân tuyến rồi sụp quì xuống, dâng chiếc cặp đen để trên gối lên lãnh chúa tư pháp đại thần.

Vị huân tước tư pháp đại thần cầm chiếc cặp, trao cho viên thư ký nghị viện. Viên thư ký bước tới, kính cẩn đón chiếc cặp rồi trở về chỗ, ngồi xuống.

Hắn mở cặp ra, đứng dậy.

Trong cặp có hai chiếu chỉ như thường lệ, chứng thư nhà vua gửi thượng nghị viện và lệnh tham dự gửi cho vị tân nguyên lão.

Viên thư ký đứng kính cẩn, thong thả đọc to hai bản chiếu chỉ.

Lệnh tham dự thông đạt cho huân tước Fecmên Clăngsacli, kết thúc bằng những kinh ngữ quen thuộc:

"Chúng tôi nghiêm lệnh cho ngài, vì lòng tôn kính và trung thuận ngài phải có đối với chúng tôi, đích thân đến nhận ngôi vị bên cạnh các chủ giáo và các vị nguyên lão họp tại nghị viện chúng tôi ở Oexminxtơ, để cho biết ý kiến của ngài về các vấn đề của vương quốc và của nhà thờ, với tất cả danh dự và lương tâm".

Chiếu chỉ đọc xong huân tước tư pháp đại thần liền cao giọng:

- Dấu hiệu quy thuận đối với triều đình. Huân tước Fecmên Clăngsacli, ngài có chịu từ bỏ sự hóa thể[137] sự tôn thờ các thánh và việc dự lưx misa không?

Guynplên nghiêng mình.

- Đã quy thuận - huân tước tư pháp đại thần nói.

Và viên thư ký nghị viện đáp lại:

- Lãnh chúa đã tuyên thệ.

Huân tước tư pháp đại thần thêm:

- Huân tước Fecmên Clăngsacli, ngài có thể an toạ.

- Lễ tất - hai vị đỡ đầu cùng nói.

Vụ trưởng vụ lễ nghi liền đứng dậy, cầm thanh kiếm trên chiếc bàn con, và cài khóa dây đeo kiếm quanh người Guynplên.

"Sau đó - theo lời các hiến chương cũ của Normăngđi - vị nguyên lão cầm thanh kiếm của mình, bước lên hàng ghế cao và tham dự phiên họp".

Guynplên chợt nghe có tiếng người nói phía sau lưng:

- Thần xin khoác áo nghị viện cho lãnh chúa.

Đồng thời viên chức cầm áo vừa nói đó liền khoác áo và thắt sợi dây đen của giải lông chồn trắng vào cổ cho Guynplên.

Lúc này, với tấm áo đỏ trên lưng và thanh kiếm vàng bên cạnh, Guynplên giống hệt hai vị huân tước bên phải và bên trái. Viên thủ thư liền trình quyển sổ đỏ và bỏ nó vào túi áo trong cho Guynplên.

Vụ trưởng vụ lễ nghi rỉ tai:

- Bẩm huân tước, lúc vào, ngài sẽ chào vương kỷ.

Vương kỷ tức là cái ngai.

Trong khi ấy hai viên thư ký, người nào bàn ấy, bên này viết vào sổ hoàng gia, bên kia viết vào sổ nghị viện.

- Cả hai, kẻ trước người sau, viên thư ký hoàng gia trước, đưa sổ đến trình huân tước tư pháp đại thần.

Ký vào sổ xong, huân tước tư pháp đại thần đứng lên:

- Huân tước Fecmên Clăngsacli, nam tước Clăngsacli, nam tước Hâncơvin, kiêm hầu tước Corlêon nước Ý, rất hoan nghênh việc ngài có mặt bên cạnh các nguyên lão, những huân tước tinh thần và thế tục của Đại Anh quốc.

Hai vị đỡ đầu của Guynplên khẽ chạm vào vai của Guynplên.

Cái cửa vàng to ở cuối hành lang bỗng mở rộng cả hai cánh.

Đấy là cửa bước vào nghị viện nguyên lão của Anh quốc.

Từ lúc Guynplên, đi giữa một đoàn người khác, trông thấy mở ra trước mắt cánh cửa sắt của nhà lao Xaothuak, chưa trôi qua hết ba mươi sáu tiếng đồng hồ.

Những đám mây trên đầu ấy đã trôi nhanh khủng khiếp; những đám mây làm nên sự kiện; nhanh như một đợt tấn công.

Việc tạo ra một tước vị bình đẳng với vua, gọi là tầng lớp nguyên lão, vào những thời đại man rợ là một hư chế hữu ích. Ở nước Pháp và nước Anh, phương sách chính trị thô sơ này đã đưa lại kết quả khác nhau. Ở Pháp, nguyên lão nghị viện là một ông vua giả; ở Anh, đấy là một ông hoàng thật. Không to bằng ở Pháp nhưng thực chất hơn. Có thể nói: nhỏ hơn nhưng tồi tệ hơn.

Tầng lớp nguyên lão nghị viện bắt nguồn từ nước Pháp, vào thời kỳ nào thì không chắc chắn lắm, theo tục truyền thì dưới thời Saclơma; theo lịch sử thì dưới thời Rôbe-Anh-minh. Lịch sử cũng chẳng chính xác gì hơn tục truyền, Favanh viết: "Vua nước Pháp muốn lôi kéo các bậc quyền quý trong nước bằng tước vị cao sang là nguyên lão, như thể họ bình đẳng với mình".

Tầng lớp nguyên lão nghị viện đã nhanh chóng tách ra làm đôi và từ nước Pháp sang nước Anh.

Tầng lớp nguyên lão nghị viện Anh là một sự kiện lớn và gần như một điều quan trọng. Trước nó đã có tước Wlttenagemot[138] của người Xacxơ[139], tước Thane của người Đan Mạch và Vavasseur[140] của người Normăngđi hoà lẫn vào nhau thành tước nam, Nam tước cũng đồng từ với vir, tiếng Tây Ban Nha dịch là varon và có nghĩa rất hay, là người. Ngay từ năm 1075 các nam tước đã ra ngoài với vua. Mà sao lại khéo chọn vua! Với Ghiôm-Chiến-thắng[141], năm 1086 họ đặt nền tảng cho chế độ phong kiến: nền tảng đó là quyển Doomsday-book, "Sổ phán xét cuối cùng”. Dưới triều Giăng-Vô-thổ, xung đột,giới lãnh chúa Pháp ra vẻ kiêu ngạo với nước Anh và giới nguyên lão Pháp đòi vua nước Anh phải ra trước vành móng ngựa của mình. Các nam tước Anh phẫn nộ.

Ngày lễ đăng quang của Philip Oguyxt, với tư cách công tước xứ Normăngđi, vua nước Anh cầm lá cờ vuông đi đầu và công tước Gllyen lá cờ thứ hai, chống lại vị vua chư hầu đó của nước ngoài, cuộc "chiến tranh lãnh chúa" bùng nổ. Các nam tước buộc vị vua khốn khổ Giăng phải ban hành Đại hiến chương[142] mở đầu cho nguyên lão nghị viện. Giáo hoàng can thiệp hộ nhà vua và rút phép thông công các huân tước, năm ấy là năm 1215, và giáo hoàng là Inôxăng-đệ-tam, người thảo ra bản Veni Sanete Spiritus và gửi cho Giăng-Vô-thổ bốn đức tính cơ bản dưới hình thức bốn vòng xích vàng. Các huân tước vẫn không chịu. Một cuộc chống đối quyết liệt dai đẳng trải suốt nhiều thế hệ. Pembrốc chống lại.

Năm 1248 là năm của các "Tạm ước Ôcxfơc". Hai mươi bốn nam tước hạn chế nhà vua, tranh cãi với vua, và gọi mỗi lãnh địa một hiệp sĩ để tham gia vào cuộc tranh chấp mở rộng. Buổi lê minh của các công xã, Về sau, các huân tước lấy thêm một đô thị hai công dân và mỗi thị trấn hai thị dân. Do đó đến thời Êlizabeth, các nguyên lão là người xét xử vấn đề hiệu lực của các cuộc bầu cử công xã. Từ quyền tài phán của họ sinh ra ngạn ngữ: "Các đại biểu chỉ định phải được 3P: sine Prece, sine Pretio, sine Poculo[143]." Điều đó không ngăn cản có những thị trấn thối nát. Năm 1293 vua nước Anh vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của pháp đình nguyên lão nước Pháp, và Philip Lơ Ben đã đòi Êđua-đệ-Nhất ra trước toà án của mình, Êđua-đệ-Nhất là vị vua đã hạ lệnh cho con trai luộc mình sau khi mình chết và đem xương mình ra trận. Trước những chuyện ngông cuồng như vậy của vua, các huân tước cảm thấy cần phải củng cố nghị viện: họ chia nó ra thành hai viện: Thượng viện và Hạ viện. Các huân tước ngang nhiên chiếm giữ ưu thế.

Nếu có một đại biểu công xã nào dám láo xược phát biểu bất lợi cho nguyên lão nghị viện, người ta sẽ đòi hắn ra trước vành móng ngựa để nhận sự trừng phạt và đôi khi tống hắn vào tù (trong bầu cử cũng có sự phân biệt như thế). Tại nguyên lão nghị viện, bầu từng người một, bắt đầu từ vị nam tước cuối cùng gọi là "em út".

Khi được gọi đến tên, mỗi vị nguyên lão trả lời bằng lòng hay không bằng lòng. Tại các công xã, bầu chung, cả bầy, bằng có hoặc không. Công xã buộc tội, nguyên lão xét xử. Do khinh rẻ con số, các nguyên lão ủy quyền cho các công xã việc giám sát bàn cờ[144], về sau các công xã sẽ lợi dụng cho đó; gọi như thế, theo một số người, tức là giám sát tấm thảm trải bàn tượng trưng một bàn cờ, và theo một số người khác, tức là giám sát những ngăn kéo của một cái tủ cũ, phía sau một rào sắt, kho tàng các vua nước Anh để trong đó. Từ cuối thế kỷ thứ mười ba, bắt đầu có sổ Niên Thư "Year book".Trong cuộc chiến tranh Hai Bông Hồng, người ta cảm thấy trọng lượng của các huân tước, lúc ngả sang phía Gion Đơ Gôn, công tước Lancax, lúc ngả sang phía Etmun, công tước York.

Uot Tôlơ, các Lola, Varvic, người Chế tạo ra vua, toàn bộ nền vô chính phủ mẹ này, đẻ ra phong trào giải phóng, đều thú nhận hoặc bí mật lấy nền phong kiến nước Anh làm điểm tựa. Các huân tước ghen tị với nhà vua, một cách hữu ích; ghen tị tức là giám sát; họ khoanh tròn sáng kiến của nhà vua lại, thu hẹp những trường hợp đại nghịch, xúi giục những Risac giả chống lại Hăngri-đệ-Tứ đứng ra làm trọng tài, xét xử vấn đề ba vương miện giữa công tước York với Macgorit Ăngiu, và khi cần thì cất quân và có những trận chiến.

Sriuxblun, Tlukexbluri, Xanh-Anh-băng, lúc bại lúc thắng. Vào thế kỷ thứ mười ba, họ đã có được chiến thắng Livơ, và đã đuổi ra khỏi đất nước bốn anh em nhà vua, con hoang của Izaben và bá tước La Macsơ, cả bốn đều cho vay lãi, và họ lôi giáo dân qua tay bọn Do Thái; vừa là những hoàng thân, vừa là lũ lừa đảo, việc đó về sau cũng có thấy lại, nhưng vào thời ấy ít được tán thưởng.

Cho đến thế kỷ thứ mười lăm người ta vẫn thấy vai trò công tước Normăngđi trong vua nước Anh, và các văn nghị viện vẫn viết bằng tiếng Pháp. Từ Hăngri VII trở đi, theo ý kiến của các huân tước, mới viết bằng tiếng Anh. Nước Anh thuộc xứ Brơtan dưới thời Ute Penđragơn, thuộc La Mã dưới thời Xêđa, thuộc Xăcxơ dưới thời Thất Quốc[145], thuộc Đan Mạch dưới thời Haron, thuộc Normăngđi sau Ghiôm, trở thành Anh Cát Lợi nhờ vào các huân tước. Sau đó nó trở thành nước theo giáo phái Anh quốc. Có được tôn giáo của mình tại nước mình là một sức mạnh lớn. Một giáo hoàng nước ngoài thường bòn rút cuộc sống quốc gia, La Mêcơ[146] là một con thuồng luồng. Năm 1534, Luân Đôn trục xuất La Mã, giới nguyên lão tán thành cuộc cải cách và các huân tước thừa nhận Lute[147], đòn trả đũa việc rút phép thông công năm 1215. Việc này hợp ý Hăngri VIII, nhưng về nhiều phương diện khác, các huân tước lại gây trở ngại cho ông. Nguyên lão nghị viện trước mắt Hăngri VIII khác nào con chó dữ trước một con gấu. Khi mà Wolsey[148] mạo danh White-Hall của quốc gia, và khi Hăngri VIII mạo danh White-Hall của Wolsey, thì ai rầy la? Bốn huân tước là Đacxi đo Sisexte, Xên-Gion Đơ Blexô và (hai tên người Normăngđi) Mungioi và Muntigon. Nhà vua tiếm đoạt. Giới quý tộc lấn quyền. Quyền thừa kế bao hàm tính chất bất khả lung lạc; do đó mà sinh ra sự bất phục tùng của các huân tước, Ngay cả đối với Êlizabeth[149], các nam tước cũng không chịu ngồi yên. Do đó mà có những cực hình của Đuyaram. Chiếc váy tàn bạo ấy vấy đầy máu. Một chiếc lồng váy [150] trong đó có một cái thớt xử trảm đó là Êlizabet, Êlizabet tìm cách họp nghị viện thật ít, và thu hẹp nghị viện nguyên lão lại chỉ còn sáu mươi lăm vị, trong đó có có một hầu tước là Oexminxtơ, và không có lấy một công tước nào cả. Vả lại các vua nước Pháp cùng ghen tị như thế và cũng dùng kiểu loại trừ ấy. Dưới thời Hăngri đệ Tam chỉ còn có tám lãnh địa công tước, và nhà vua rất khó chịu về việc nam tước Đơ Măngtơ, nam tước Đơ Cuxi, nam tước Đơ Culôngmiê, nam tước Đơ Satônơp, Timơr, nam tước Đơ La Phe Tacdơnoa, nam tước Đơ Mortan và một số khác nữa, vẫn giữ tước vị nguyên lão nước Pháp, ở Anh, nhà vua vui lòng để mặc cho giới nguyên lão tàn tạ dần dần.

Dưới thời nữ hoàng Anh, chỉ đơn cử một ví dụ thôi, những việc tàn lụi từ thế kỷ thứ mười hai rốt cuộc đã đạt đến một tổng số năm trăm sáu mươi nhăm tước thế tộc bị huỷ bỏ. Cuộc chiến tranh Bông Hồng đã mở đầu cuộc tuyệt diệt các công tước mà sau đó Mari Tuyđo đã hoàn thành bằng những nhát rìu. Như vậy là chặt đầu giới quý tộc. Chặt công tước tức là chặt đầu. Cố nhiên đây là một đường lối chính trị hay, nhưng tha hóa vẫn hơn chặt. Điều đó Giăc đệ Nhất cảm thấy. Ông phục hồi công quốc. Ông phong tước công cho vị sủng thần của ông là Vilie, người đã gọi ông là con lợn(1). Đổi công tước phong kiến thành công tước nịnh thần, việc này sẽ phát triển tràn lan. Sáclơ đệ Nhị sẽ phong cho hai ả nhân tình là Bachơ Đơ Xaohămtơn và Luyđơ Đơ Kêrueil làm nữ công tước. Dưới thời nữ hoàng Anh sẽ có hai mươi lăm công tước trong đó có ba người nước ngoài, Cơmbơdan, Kembntgiơ và Sanbec.

Nhưng biện pháp đó của triều đình do Giăc đệ Nhất phát minh có đạt kết quả gì không? Không. Nguyên lão nghị viện cảm thấy mình bị âm mưu đó uy hiếp bèn nổi giận. Nó nổi giận chống lại Sáclơ đệ Nhất người nhân tiện mà nói có lẽ có hơi nhúng tay vào việc giết bố như Mari Đơ Mêđixit có hơi nhúng tay vào việc giết chồng. Đoạn tuyệt giữa Sác lơ đệ Nhất và giới nguyên lão. Các huân tước dưới thời Giắc đệ Nhất đã đòi cá nhân Bêcơn ra trước vành móng ngựa của mình về tội hối lộ, thì dưới thời Sáclơ đệ Nhất lại truy tố cá nhân Xtapho về tội phản nghịch. Trước kia họ kết án Bêcơn, nay họ kết án Stapho. Một người mất danh dự, một người mất mạng. Sáclơ đệ Nhất đã bị chặt đầu lần thứ nhất qua Stapho. Các huân tước tiếp tay cho các công xã. Nhà vua triệu tập nghị viện đến Ôcxfơc, cách mạng triệu tập nghị viện đến Luân Đôn; bốn mươi ba vị nguyên lão đi với nhà vua, hai mươi hai vị đi với nền cộng hoà. Từ việc thừa nhận vai trò dân chúng này của các huân tước nảy ra bản dự án quyền hạn phác thảo những nhân quyền của chúng ta, đó là cái bóng lờ mờ mà cách mạng Pháp từ tương lai sâu thẳm hắt lên cách mạng Anh.

Đấy là những công lao. Vô tình, cứ cho là thế. Và được trả bằng giá đắt, vì giới nguyên lão này là một loại ký sinh trùng khổng lồ, nhưng đáng kể. Sự nghiệp chuyên chế của Luy XI, của Risơliơ và của Luy XIV, việc xây dựng một quốc vương A Rập, việc bóp bẹp được ngộ nhận như sự bình đẳng, trận đòn đánh bằng vương trượng, quần chúng bị san phẳng bằng lối hạ thấp. Cái công trình Thổ Nhĩ Kỳ làm tại nước Pháp ấy, ở nước Anh các huân tước đã ngăn chặn lại. Họ đã dùng chế độ quý tộc là một bức tường, bên này kiềm chế nhà vua, bên kia che chở nhân dân. Họ chuộc lại cái tội ngạo mạn đối với nhân dân bằng thái độ xấc xược đối với nhà vua.

Ximông, bá tước Đơ Lêxetơ nói với Hăngry đệ Tam: "Đức vua, Người đã nói dối." Các huân tước buộc nhà vua phải khuất phục; họ xúc phạm nhà vua ở điểm yếu, ở việc săn bắn bằng chó. Bất cứ huân tước nào, đi qua một vườn ngự uyển, cũng có quyền bắn một con hươu tại đấy. Huân tước xem cung vua như nhà của mình. Vua, được dự chi tại Tháp Luân Đôn[151] với giá biểu của mình, không hơn gì một nguyên lão, mỗi tuần mười hai livrơ xtecling, trả cho nghị viện nguyên lão. Hơn thế nữa nhà vua bị mất ngôi, việc đó người ta nợ nhà vua. Các huân tước đã truất ngôi Giăng Vô Thổ, giáng chức Êđua Đệ Nhị, phế bỏ Risa đệ Nhị, tước quyền Hăng-ri VI và dã làm cho Cromoen trở thành hiện thực. Trong Sác lơ đệ Nhất dã có Luy XIV; nhờ Cromoen ông ta đã mang tính chất tiềm tàng. Vả lại, nhân thể nói luôn, bản thân Cromoen, không một sử gia nào để ý việc này, cũng muốn vươn lên tầng lớp nguyên lão; vì vậy mà y lấy Êlizabet BuôcSiê, dòng dõi và thừa kế của một Crômoen, huân tước BuôcSiê, mà tước thế tập đã tắt năm 1471, và của một Buôcsiê, huân tước Rôbơxa, mà tước thế tập đã tắt năm 1429. Tham dự vào sự phát triển đáng sợ của các sự kiện, Crômoen nhận thấy thống trị bằng con đường phế truất nhà vua nhanh hơn con đường đòi hỏi quyền nguyên lão, Nghi lễ của các huân tước đôi khi độc ác, thường đụng chạm đến nhà vua. Hai tên cầm kiếm ở Tháp Luân Đôn, vai mang rìu, đứng bên phải và bên trái vị nguyên lão bị kết tội phải ra trước vành móng ngựa, cũng dành cho cả nhà vua cũng như cho bất cứ một vị huân tước nào. Suốt năm thế kỷ nghị viện nguyên lão cũ đã có một kế hoạch, và cứ làm như thế không hề thay đổi. Người ta đếm những ngày vui chơi giải trí và những ngày nhu nhược của nó, chẳng hạn như cái lúc kỳ lạ nó bị cám dỗ bởi chiếc thuyền buồm lớn chở đầy phó-mát, giăm-bông và rượu Hy Lạp do Giuyn đệ Nhị gửi cho. Giới quý tộc Anh lo lắng, kiêu ngạo, cứng rắn, chăm chú, đa nghi một cách yêu nước.

Chính nó, vào cuối thế kỷ thứ mười bảy, bằng văn kiện thứ mười, năm 1694, đã tước của thị trấn Xtôcbrit, ở Xaohamtơn, cái quyền cử đại biểu vào nghị viện, và buộc các công xã phải huỷ bỏ cuộc bầu cử của thị trấn này vì có sự gian lận của giáo hoàng. Nó dã buộc Giăc, công tước York phải tuyên thệ, và khi Giăc từ chối, nó đã gạt ông ra khỏi ngai vàng. Tuy nhiên ông ta vẫn trị vì, nhưng cuối cùng các huân tước đã lại tóm được ông ta và đuổi hẳn. Chế độ quý tộc này, trong thời gian dài của nó, đã có một bản năng tiến bộ nào đó. Một đôi chút ánh sáng đáng khen cũng đã thường xuyên phát ra, trừ giai đoạn cuối, tức là hiện nay, Dưới triều đại Giăc đệ Nhị, nó giữ lại ở hạ nghị viện tỉ lệ ba năm bốn mươi sáu tư sản đối lại chín mươi hai hiệp sĩ, mười sáu nam tước lễ phong của Năm Hải Cảng cộng thừa đủ cân bằng với năm mươi công dân của hai mươi lăm thành phố. Bản thân rất hay cám dỗ và rất ích kỷ, chế độ quý tộc này đặc biệt vô tư trong một số trường hợp. Người ta thường xét đoán nó quá khắt khe. Lịch sử thường chỉ đánh giá tốt các công xã; điều đó còn phải tranh luận. Chúng tôi nghĩ vai trò huân tước rất lớn. Chế độ đại tộc là đường lối độc lập ở trạng thái man rợ, nhưng vẫn là độc lập. Cứ xem như Ba Lan; trên danh nghĩa là vương quốc, thực tế là nước cộng hoà. Các nguyên lão nước Anh luôn luôn đặt ngai vàng trong vòng ngờ vực và phải giám thị. Trong nhiều trường hợp, hơn cả các công xã, các huân tước cũng biết làm phật ý. Họ làm cho nhà vua thất bại.

Chẳng hạn như năm 1694, năm đáng lưu ý, các nghị viện ba năm một khóa, bị các công xã bác bỏ vì Ghi-ôm đệ Tam không ưa họ, lại được các nguyên lão bầu. Ghi-ôm đệ Tam phẫn nộ bèn tước bỏ của bá tước Binh toà lâu đài Penđêmx, ' và của hầu tước Morđôn tất cả mọi chức trách. Nghị viện nguyên lão là chế độ cộng hòa Vơni trong lòng vương chế nước Anh. Mục đích của nó là biến nhà vua thành một vị đại thống lãnh, nó làm nhỏ bé nhà vua bao nhiêu thì lại làm cho quốc gia lớn mạnh lên bấy nhiêu.

Nhà vua hiểu như thế và căm thù tầng lớp nguyên lão. Cả hai bên đều tìm cách làm suy yếu lẫn nhau. Những sự giảm sút ấy có lợi cho nhân dân và làm cho nhân dân lớn mạnh thêm. Hai lực lượng mù quáng, chế độ quân chủ và chế độ đại tộc, không nhận thấy mình đang làm lợi cho một lực lượng thứ ba, chế độ dân chủ.

Thế kỷ trước, triều đình mừng rỡ biết bao khi treo cổ được nguyên lão là vị huân tước Ferơ!

Tuy vậy cũng chỉ treo cổ ông ta bằng một sợi dây tơ. Lễ độ.

Nếu là một nguyên lão nước Pháp, người ta đã không treo cổ. Nhận xét kiêu hãnh của quận công Kisơliơ. Đồng ý. Người ta đã chặt đầu. Lễ độ cấp cao hơn.

Môngmôrenxi-Tăngcarvin thường ký: Nguyên lão nghị viện nước Pháp và nước Anh, thế là gạt tầng lớp nguyên lão Anh quốc xuống hàng thứ nhì. Các nguyên lão nghị viện nước Pháp cao quý hơn và kém quyền thế hơn, chú trọng thứ bậc hơn quyền hành, thích ngôi thứ hơn quyền lực. Giữa họ và các huân tước nước Anh có chút khác biệt ngăn cách tính hư vinh với thói kiêu ngạo.

Đối với các nguyên lão nghị viện nước Pháp, đi trước các hoàng thân nước ngoài, dẫn đầu các bậc quyền quý Tây Ban Nha, đứng trên các nhà quý tộc Vơni, lấp ngồi vào các hàng ghế dưới của nghị viện các thống chế nước Pháp, nguyên soái và đô đốc nước Pháp, dù đó là bá tước Tulơzơ hay con trai Luy XIV, phân biệt giữa các nam công quốc và các nữ công quốc, giữ quãng cách giữa một bá tước lãnh địa đơn thuần như Aemanhắe hoặc Anbret và một bá tước lãnh địa của nguyên lão nghị viện như Evrơ, có quyền mang trong một số trường hợp huy chương xanh hoặc huy chương kim dương mao ở tuổi hai mươi lăm, làm công tước Tơlermoi, vị nguyên lão xưa nhất bên cạnh nhà vua, bằng vai với công tước Uze, vị nguyên lão lâu năm nhất trong nghị viện đòi xe mình phải có một số tiểu đồng và ngựa ngang với một cử tri, được Thủ tướng gọi là đức ông, tranh luận xem công tước Menơ có đứng trong hàng nguyên lão như bá tước ở từ năm 1458 không, đi qua gian đại sảnh theo chiều chéo góc hay theo chiều cạnh, đó là vấn đề quan trọng.

Đối với các huân tước Anh, vấn đề quan trọng lại là chứng thư hàng hải, là lời tuyên thệ, là việc châu Âu trưng mộ lính phục vụ cho nước Anh, là việc thống từ các biểu, là chuyện trục xuất dòng họ Xtuyua, là chiến tranh với nước Pháp. Bên này trước hết là triều nghi; bên kia trước hết là quyền lực. Các nguyên lão Anh quốc nắm cái mồi, các nguyên lão Pháp quốc nắm cái bóng.

Nói tóm lại, nghị viện nguyên lão của Anh là một điểm xuất phát; về mặt văn minh thế là rất quan trọng.

Nó có vinh dự mở đầu cho một quốc gia. Nó là hiện thân đầu tiên của sự thống nhất một dân tộc. Sự chống đối kiểu Anh, cái sức mạnh tối tăm quyền năng vô hạn đó đã phát sinh trong nghị viện nguyên lão. Các nam tước, bằng một loại hành động bạo ngược đối với nhà vua, đã sơ phác ra vấn đề phế vị cuối cùng. Nghị viện nguyên lão ngày nay cũng hơi ngạc nhiên và buồn rầu về cái việc mà nó đã làm một cách miễn cưỡng và không hay biết. Hơn nữa điều đó lại không thể bãi bỏ được. Nhượng bộ là gì? Là hoàn trả. Và điều đó không phải các quốc gia không biết. Nhà vua nói: Ta ban. Nhân dân nói: Ta thu hồi. Nghị viện nguyên lão tưởng mình đã sáng tạo ra đặc quyền của nguyên lão, nhưng nó đã sản sinh ra quyền công dân. Chế độ quý tộc, con diều hâu đó, đã ấp cái trứng chim ưng là nền tự do.

Ngày nay cái trứng đã vỡ, con chim ưng bay lượn, con diều hâu dã chết.

Chế độ quý tộc hấp hối. Nước Anh lớn lên.

Nhưng chúng ta nên công bằng đối với chế độ quý tộc. Nó đã giữ thế cân bằng với chế độ quân chủ; nó là đối trọng. Nó là vật chướng ngại trước nền độc tài; nó đã là cái rào chắn. Chúng ta hãy cảm ơn nó, và cứ chôn vùi nó.

Cạnh tu viện Oetminxtơ có một toà lâu đài cổ kiểu Normăngđi bị đốt cháy dưới thời Hăngri VIII. Nay nó chỉ còn hai cánh, Ê-đua VI đặt nghị viện nguyên lão vào một cánh, và nghị viện công xã vào một cánh.

Cả hai cánh, cả hai phòng ngày nay đều không còn; người ta đã xây dựng lại tất cả.

Nhưng chúng tôi đã nói và cần phải nhấn mạnh, nghị viện nguyên lão ngày nay và nghị viện nguyên lão ngày xưa không giống nhau tí nào. Người ta đã phá huỷ lâu đài cũ, như thế là đã phần nào phá bỏ cái tục lệ cũ, những nhát cuốc bổ vào các công trình kiến trúc vĩ đại đều ảnh hưởng trở lại vào các tập quán và các hiến chương. Một hòn đá cũ không bao giờ rơi xuống mà không cuốn theo một điều luật cũ. Cứ đặt thượng nghị viện của một phòng hình vuông vào một phòng hình tròn, nó sẽ khác ngay. Lớp vỏ ngoài thay đổi làm biến dạng con sò bên trong.

Nếu muốn bảo tồn một vật gì cũ, của con người hay của thần thánh, luật pháp hay tín điều, quý tộc hay tăng lữ, thì chớ làm lại mới bất cứ một điều gì, cả cái hề ngoài cũng thế. Cùng lắm chỉ thêm chi tiết. Chẳng hạn, phái Giêduyt là một chi tiết thêm vào đạo Thiên chúa. Đối với các công trình xây dựng, cũng nên xử xự giống như khi sử xự với các thể chế.

Bóng tối phải nằm trong hoang tàn. Cái sức mạnh già cỗi không được thoải mái trong những ngôi nhà mới trang trí. Đối với các thể chế rách rưới, phải có những lâu đài rêu phong.

Giới thiệu nội thất của phòng nghị viện nguyên lão ngày xưa tức là giới thiệu một cái gì đó xa lạ. Lịch sử là đêm tối. Trong lịch sử không có hậu cảnh, ánh sáng giảm dần và bóng tối lập tức xâm chiếm tất cả những gì không còn ở phía trước sân khấu. Trang trí cất di, là xóa sạch, là quên hết. Quá khứ đồng nghĩa với “không biết”.

Khi là pháp đình, các nguyên lão họp trong gian đại sảnh Oetminxtơ, còn khi là thượng nghị viện lập pháp thì họp trong một phòng đặc biệt gọi là "Nhà Nguyên lão", “House of the lords”.

Ngoài toà án nguyên lão Anh quốc, chỉ họp khi nào nhà vua triệu tập, có hai toà án lớn của nước Anh, dưới toà án nguyên lão, nhưng trên mọi cấp tài phán khác họp tại phòng đại sảnh Oetminxtơ. Hai tòa án này đóng trong hai gian kề nhau, ở đầu trên căn phòng này. Tòa án thứ nhất là Cao đẳng pháp viện mà nhà vua buộc phải chủ toạ; tòa án thứ hai là Pháp viện của Bộ tư pháp do tư pháp đại thần chủ toạ. Một bên là tòa án công lý, một bên là tòa án khoan hồng. Chính tư pháp đại thần kiến nghị, nhà vua ân xá; thỉnh thoảng thôi. Hai tòa án này hiện nay vẫn còn, chuyên giải thích pháp chế và phần nào uốn nắn lại nó; nghệ thuật của quan toà là bào gọt bộ luật thành án lệ. Một cái nghề trong đó đức công bình tuỳ nghi xoay xở. Pháp chế được chế tạo và áp dụng giữa chốn tôn nghiêm đó, phòng đại sảnh Oetmilltơ. Phòng này có một mái vòm kiểu giẻ gai mà mạng nhện không sao bám được; trong pháp luật đã có khá nhiều mạng nhện rồi.

Họp tòa án và họp nghị viện là hai việc khác nhau. Tính chất nhị nguyên này hợp thành quyền lực tối cao. Hội nghị kéo dài, bắt đầu ngày 3 tháng 11 năm 1640, cảm thấy nhu cầu cách mạng của thanh gươm hai lưỡi này. Vì vậy nó tự tuyên bố, với tư cách một nghị viện nguyên lão, có cả quyền tư pháp lẫn quyền lập pháp.

Hai quyền này có từ thuở rất xa xưa trong nghị viện nguyên lão. Chúng tôi vừa nói, là quan toà, các nguyên lão chiếm Oetminxtơ-Hôn; là nhà lập pháp, họ có một phòng khác.

Căn phòng khác này, nói cho đúng là viện nguyên lão, dài và hẹp. Nó chỉ được chiếu sáng nhờ bốn cửa sổ khoét sâu vào tầng nóc, và nhận ánh sáng qua mái, thêm ở phía trên long đình, một cửa mắt bò có sáu tấm kính với màn che; ban đêm không có ánh sáng nào khác ngoài mười hai giá đèn chùm nhỏ thắp nến gắn trên tường. Phòng thượng nghị viện của Vơni còn không được thắp sáng bằng thế. Giống cú vọ quyền uy rất mực này ưa thích đôi chút bóng tối.

Trên căn phòng nơi các vị huân tước ngồi họp khum khum một vòm cao đa diện và có những hõm nhỏ mạ vàng. Phòng công xã chỉ có một cái trần bằng; trong các công trình xây dựng thời quân chủ mọi thứ đều mang một ý nghĩa, ở một đầu căn phòng dài của các vị nguyên lão là cửa ra vào: đầu kia, đối diện là cái ngai vua. Cách cửa vài bước là bức rào chắn, một đường cắt ngang, một thứ biên giới, đánh dấu chỗ chấm dứt nhân dân và nơi bắt đầu giới quý tộc. Bên phải ngai là một lò sưởi, trên mặt có huy hiệu, phô bày hai bức trạm trổ bông cẩm thạch, một bức tượng trưng chiến thắng Câtvôn đánh vào quân Brơtan năm 572, một bức tượng trưng bản đồ thị trấn Đânltêbơn, thị trấn này chỉ có bốn đường phố, song song với bốn phần của thế giới. Ba bực cấp tôn cao cho cái ngai. Ngai vua được gọi là “Vương kỷ”. Trên hai bức tường đối diện, chăng dài thành những bức tranh liên hoàn, một tấm thảm rộng do Ehzabet tặng các vị nguyên lão, và mô tả toàn bộ cuộc phiêu lưu của hải quân Tây Ban Nha, từ lúc nó rời khỏi Tây Ban Nha cho đến lúc bị đắm trước nước Anh. Những phần nổi của tàu thuyền đều dệt bằng kim tuyến và ngân tuyến, vì thời gian đã xám xịt. Tựa vào bức thảm này, từng quãng từng quãng lại bị những ngọn đèn chùm gắn vào tường làm gián đoạn, bên phải có ba hàng ghế dài dành cho các giám mục, bên trái có ba hàng ghế dài dành cho các công tước, hầu tước và bá tước sắp theo hình bực thang và cách nhau bằng những bực lên xuống. Các công tước ngồi trên ba ghế ở đoạn thứ nhất, các hầu tước, trên ba ghế ở đoạn thứ hai; các bá tước trên ba ghế ở đoạn thứ ba.

Ghế của tử tước xếp vuông góc, nhìn thẳng vào ngai, và phía sau, giữa các tử tước và cái rào chắn, có hai ghế dành cho các nam tước. Trên chiếc ghế dài cao, bên phải ngai, là hai tổng giám mục, Cantơbiuri và York; trên chiếc ghế giữa, ba giám mục, Luân Đôn, Duyaram và Vinsexte; các giám mục khác ngồi trên ghế phía dưới. Giữa tổng giám mục Cantơbiuri và các giám mục có sự khác biệt rất lớn, ở chỗ ông là giám mục do quyền uy Chúa, còn các vị khác chỉ là do Chúa cho phép. Bên phải ngai, ta thấy một chiếc ghế dựa dành cho hoàng thân xứ Galơ, và bên trái, những chiếc ghế xếp dành cho các vương công tước, và sau số ghế xếp này có mấy bục dành cho các nguyên lão vị thành niên chưa được tham dự nghị viện. Khắp nơi nhan nhản hình hoa huệ; và huy hiệu nước Anh to tướng trên bốn bức tường, trên đầu các vị nguyên lão cũng như trên đầu nhà vua.

Con trai các vị nguyên lão và những người thừa kế tham dự các cuộc tranh luận, đứng sau ngai vua, giữa long đình và bức tường, Chiếc ngai vua ở cuối phòng và ở ba mặt phòng, ba dãy ghế dài dành cho các vị nguyên lão, để chừa ra một ô vuông rộng. Trong ô vuông này, trên trải tấm quốc thảm mang huy hiệu Anh quốc, có bốn cái đệm len; một cái trước ngai để vị tư pháp đại thần ngồi giữa kim đầu trượng và quốc ấn, một cái trước mặt các giám mục để các quan toà cố vấn quốc gia ngồi, chỉ dự thính chứ không được phát biểu, một cái trước mặt các công tước, hầu tước và bá tước để các quốc vụ khanh ngồi, một cái trước mặt các tử tước và nam tước để cho hai viên phó thư ký quỳ viết. Ở giữa ô vuông có một chiếc bàn rộng phủ da, đầy những hồ sơ, sổ cái, sổ thu nhập với những lọ mực to bằng vàng bằng bạc và những ngọn đuốc cao ở bốn góc. Các nguyên lão tham dự hội nghị theo thứ tự niên đại người nào theo ngày tháng thụ tước của người nấy. Họ ngồi theo tước vị và, trong tước vị,