← Quay lại trang sách

Chương 1 Thằng Huyện

“Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.”(1)

Các cụ đã dạy thì cấm có sai. Nhìn xem, bọn chánh lý lại đang họp hành về cái nghiệp ăn cướp của chúng nó trên đình ấy. Lại có thêm ông Huyện họ Đinh Văn dự cuộc góp vui, dễ chừng năm nay cả cái làng Ẻn (2) này đói to.

Ở nhà anh Đồ Khê, lúc này cũng đang diễn ra một cuộc chè chén, nhưng là của người có học chữ, cho nên cứ gọi là cuộc luận đàm Nho gia cho nó đúng lễ. Anh Đồ Khê năm nay cũng gần tam tuần rồi, vẫn chưa qua cuộc thi Hương3, thi Hội nào; lẽ thường cũng không có tư cách đi gõ đầu trẻ.

Nhưng giữa cái lúc nước mất nhà tan, thế thời thối nát như này, còn lều chõng đi thi thì thành ra quân hèn hạ bán nước à? Cứ khư khư ngậm lấy con chữ sống cảnh thanh nhàn như anh, thế mà cao quý bội phần, còn được làng phá lệ cho lên hàng đồ, hàng ông nữa đây.

Huống hồ, cụ thân sinh nhà anh lại là bậc khí tiết được muôn người nể trọng, non bảy năm trước khi rợ Minh cho quân chiêu tài vào làng bắt văn sĩ và thợ thuyền, cụ đã là người đầu tiên vái thiên vái địa rồi đâm đầu vào cột tự vẫn, tránh đi cái nhục bị bắt sang xứ người hầu quân xâm lược.

Thuở ấy, người hay chữ trong làng toàn làm thế, trẻ trung thì trốn biệt lên rừng, già cả thì xổ khăn tự vẫn, bởi họ trọng cái tiếng trung trinh hơn bất cứ thứ gì, còn hơn cả vợ con và tính mạng.

Mà cũng nhờ cái mạng cao cả của cụ, phúc đức để lại, Đồ Khê giờ cũng được hưởng tám, chín phần. Phóng mắt trông cả huyện Thanh Ba này xem, có họ nào được vọng trọng bằng cái họ Nguyễn Vi nhà anh không?

Phải là lúc trước, họa may còn có bọn Đinh Văn, nhưng kể từ khi họ đó có thêm một ông huyện nhà Minh, ai nấy dẫu không nói ra, song đều xem cả họ Đinh Văn như phường lụn bại.

Thời thế lắm nỗi trái ngang, các anh học trò dùi mài đến mòn vẹt đá vàng thì cũng không có đất dụng võ, bèn học theo khí tiết thanh cao của ông Bảo Nghĩa Vương đời Trần, thà làm trò xứ Nam chứ không thèm làm quan phương Bắc, suốt ngày nếu không vịnh thơ viết chữ buồn cho vận nước gian truân, thì cũng trải chiếu hoa ngồi kéo nhị giữa sân, vừa khóc vừa tỏ bày niềm tiếc thương mất nước.

Còn có các buổi hội họp luận bàn thế sự như này nữa, nơi mà bọn họ dùng cái khí tiết cuồn cuộn của con nhà gia giáo, cái ngạo nghễ thanh cao của bậc hiền sĩ ái quốc trộn lẫn vào miếng xôi, hớp rượu để mắng cha, mắng bà cái lũ ra làm quan cho giặc!

Tiên sư chúng nó! Ăn cơm đất Nam mà lại đi hốt phân cho rợ Bắc, hỏi có đớn, có nhục, có hèn không cơ chứ? Được cái mũ cánh chuồn, cái đai dát ngọc, đôi giày ống cao thì oai lắm sao?

Bạn ông cứ khăn đầu rìu, đai vải thô, chân đi đất mà vẫn được khối kẻ khoanh tay, khom người gọi bằng “ông”, bằng “ngài”. Còn cái ngữ bán nước chúng bây ấy à, dù có lên được bao phẩm mấy vị, cũng chỉ đáng kêu tiếng “thằng” mà thôi!

Mỗi lần các ông học trò mắng đến đây, cái tên Đinh Văn Trung đều được lôi ra để các ông xâu xé. Ai phải gió lại đặt cho nó tên tự là “Trung” ấy nhỉ? Nghe nó mới nhạo, mới giễu làm sao....!

Trung gì cái ngữ như nó, tài năng kiêm bị thế nào, văn hay chữ tốt ra sao, lại ra đầu quan cho giặc! Ấy mà cũng thăng đến chức huyện thừa4 rồi đấy, nghe bảo còn được một thằng ngụy quan5 chức vị rất to ở phủ hết lòng nâng đỡ, suýt đã gả con gái cho.

Thế mới hay giời không có mắt, những thằng bất trung khốn nạn thì lại vinh hiển đầy nhà! Còn một bụng dạ trung nghĩa thiết tha như họ, lại phải chết mòn trong quần thô áo vải...

“Tính ra thì vị đấy lúc còn đi học, cũng là một bậc anh tài các bác ạ,” trong cơn ngà say, Đồ Khê khẽ cười. “Tôi còn nhớ mãi bài văn cuối cùng hắn nộp cho thầy tôi vào năm rợ Minh vào đến làng, ôi là nó chắc phải sắc sảo, cao sang lắm hay sao, mà thầy tôi trước ngưỡng tử vong vẫn cố đọc cho bằng hết...! Hết rồi, còn vo lại nuốt luôn xuống bụng! Cụ khóc, các bác ạ, đời tôi chưa bao giờ thấy thầy mình khóc thảm đến thế, vừa khóc vừa siết tay hắn mà lẩm bẩm tự trách rằng; thân làm thầy mà chẳng được dũng cảm như trò, thôi thì chết cũng là đáng tội...! Nói xong, cụ buông tay hắn ra, chẳng thèm ngó ngàng gì đến tôi và u, đâm sầm vào cột lăn ra tắt thở. Bảo sao không tài, các bác nhỉ?”

Thấy anh Đồ đắng cay nói giễu, một ông trò ngồi cạnh vỗ vỗ vai anh. “Thôi nào bác Khê, bác vẫn còn căm cụ Đồ cái chuyện ấy sao? Người già mà, trước khi chết thường hay quẫn trí, nói không chừng cụ nhầm bác với thằng Trung cũng nên...! Có lẽ đâu sắp chết rồi mà vợ con đứng đấy không trối, lại đi trối với thằng học trò không ruột rà máu mủ?”

“Đúng đấy bác Khê ạ, đành là thằng ấy cũng một tên hay chữ, đến thầy tôi bên Ma Khê còn nghe được tài học của nó; song lúc ấy nó cũng chỉ mới thành niên, đường đời bao dày mấy sâu đâu mà có thể viết ra được thứ gì hay ho khiến bậc cao thâm như cụ Đồ xúc động như vậy? Chắc chắn là cụ ấy nhầm nó với bác thôi...”

Đồ Khê lắc đầu như có vẻ không mấy thuyết phục, đoạn khịt cười vung lên bát rượu.

“Mà này, các bác là dân có chữ, phải gọi người ta bằng ‘ông’ nhé. Quan huyện mà lị...! Ai lại cứ “thằng với ‘tên’ mãi thế, làng xóm họ cười cho!”

Một ông ngồi đối diện nện bát xuống phản thành tiếng rõ to, dẩu môi gắt gỏng.

“Ông gì cái phường bội phản như nó! Ông đây khinh! Giá mà nó phản cũng phản cho ra dáng học trò nước Nam, còn biết giơ cao đánh khẽ đối với dân nhà, ông đây cũng không cạn nghĩa đến độ rủa mắng như con chó! Đằng này nó nhuốc bác ạ! Nhuốc ghê cơ chứ! Còn hùa với cả cái đám ‘cướp-ngày’ trên cao mà vơ vét của dân. Bọn chức sắc tham gì, mấy năm nay nó lại chả tham đấy? Rồi giờ lại còn giở cái thói ngông nghênh của lũ rợ Minh, cứ trông thấy trò Nam chúng mình là hất đầu bày dáng bố cha thiên hạ. Cái giống chó săn cho giặc như nó, chỉ đáng gọi là ‘thằng’ thôi!”

Ấy thế là câu chuyện cứ xoay quanh “thằng Huyện” mãi hoài không dứt. Người mắng thằng Huyện là chó, kẻ rủa thằng Huyện là trâu, đứa thì làu bàu chửi luôn ông tằng, ông cố nhà thằng Huyện. Tính ra, học trò mà khi say rồi, miệng mồm cũng nghiệt lắm thay...! Giả dụ mà thằng Huyện kia có chết bất đắc kỳ tử, chắc cũng bị các ông Đồ, ông Trò mồm mép cay nghiệt đây chửi cho sống lại.

Giữa lúc hăng say hứng chí, hào khí ngút trời, thằng nhóc con lại chạy ào vào thưa với chủ có bác Cai Đại đến thăm. Vừa nghe đến từ “cai” từ miệng đứa trẻ, cái khí thế uy phong của các bậc sĩ tử bỗng đâu như bếp hồng gặp mưa rào, lèo xèo lụi tắt.

Cai, thì là người của làng, mà làng, thì là của quan.

Thế rồi từ bếp than tàn, khói nó tù mù bốc lên, khói hoảng, khói hãi, khói choáng, khói của hàng trăm chữ “thằng Huyện” bị kẹt ngay giữa cuống họng, quạt cách nào cũng không sao ra khỏi miệng.

Có ông đánh rơi đôi đũa, có ông mắc nghẹn cổ gà, có ông còn hoảng đến độ ngã từ trên phản xuống. Cả một đám sĩ tử Nho gia phong lưu nho nhã, trong thoáng chốc đã loạn như đàn gà trong cảnh đám ma.

Đồ Khê nhìn cảnh này mà dở khóc dở cười, khắc trước còn mắng mỏ đầy khí thế là thế, vừa nghe nhắc đến quan, à không, lính của lính-của-quan, đã giật mình thon thót. Cái lũ này cũng thật là mạnh mồm yếu vía.

Mà anh cũng chẳng hơi đâu nhạo cười chúng nó, nhỡ đâu chúng giận, sau này lại chả sang đây nữa thì đời anh lại hóa buồn? Thế nên, anh chỉ cười trừ, dang tay trấn an.

“Gượm nào các bác, anh Cai này là người trong họ tôi, chẳng phải đến thăm dò, bắt bớ gì đâu. Chắc là trên đình có sự chi can hệ, anh ấy mới vội về đây báo. Các bác ngồi cho ngay thẳng lại nào, để tôi cho anh ấy vào thưa chuyện.”

Cả bọn hú vía, thở phào vài cái rồi ngồi lại vào mâm ra dáng đạo mạo. Đồ Khê cho thằng hầu đem thằng Cai vào, bản thân thì khoanh chân, ưỡn ngực đúng dáng cậu cả.

Vừa vào đến nhà, thằng Cai đã vội bổ đến chân anh Đồ.

“Ối bác Cả ơi, phen này nguy rồi...! Bác có thương thì ra đình giúp cho cô cháu với...!”

Đồ Khê nhíu mày. “Cô cháu?” Thằng này là thằng cai đinh6, đi theo hầu bọn ông trùm7, lấy đâu ra nhà chủ mà đòi “cô cháu”?

“Mày chầm chậm thôi nào, cô nào cơ?”

“Cô... cô Trinh nhà thầy Đồ Nghị, trước đây đã dạy cháu vài năm văn chữ đấy ạ...!”

Một hình ảnh mỹ miều quen thuộc hiện lên trong óc, anh đột nhiên cảm thấy choáng váng mặt mày.

“Cô Trinh làm sao?”

“Dạ bẩm... trưa nay người làng Quả đưa xác của bà Đồ Nghị về đây, bảo là bắt được cô Trinh lén lút mướn người chôn cất bà ở bãi tha ma làng họ, họ không muốn mang vạ nên phải đem trả.”

“Làng Quả... đến tận bên Lũng Bản cơ à...? Xa thế mà họ vẫn gắng đưa về đây?” Một ông trò chen lời.

Thằng Cai ngậm ngùi gật nhẹ. “Họ sợ họa quan, vạ quyền ông ạ. Chuyện cụ Đồ thầy cháu hai năm trước mắng mỏ quan châu rồi nhảy sông tự vẫn, xác bị lão Châu8 vớt lên đem treo ở cây đa cổng làng cho đến hồi khô đét vẫn còn mới lắm. Họ sợ sau này nhỡ đâu truy ra bà Đồ được chôn cất đàng hoàng ở làng họ, cả làng sẽ bị lão Châu ghi thù.”

Cả bọn lặng yên ngậm ngùi cho cái phận vợ tội đồ, thằng Cai sụt sùi kể tiếp.

“Sự bị lão Trùm lôi lên đình, trước các quan ông, lão làm tình làm tội bà Đồ, người lúc bấy giờ chỉ còn là một cái xác, nào đòi lóc thịt lóc da để trơ xương cho thiên hạ ném đá, nào đòi lột truồng treo lên đài dùng roi quất cho thỏa, bệnh hoạn vô cùng các ông ạ! Chắc là lão còn căm lắm việc bà Đồ thà chết chứ không chịu gả cô Trinh cho lão mấy tháng trước, chứ ai lại nhè vào một cái xác mà mắng, mà la, mà nhục mạ như thế bao giờ...?”

Lại một tràng tiếng thở dài vang lên xung quanh.

“Cô Trinh cháu chịu không được cảnh ấy, lại mắc phải chứng câm không gào khóc cho thỏa được, cuối cùng điên quá bèn nhân lúc bọn lính sơ suất, cô vùng ra đẩy vại dầu cúng lên xác bà Đồ, đoạn thảy cái đuốc kế bên vào luôn đấy.”

Các ông hít sâu vào đầy sửng sốt. Không ngờ nàng Trinh thường ngày trông hiền lành đoan thuận là thế, tức nước vỡ bờ cũng quyết liệt thật. Thà thiêu luôn xác u chứ không để người ta giày xéo. Cái việc nó bất hiếu làm sao, mà cũng thật hiếu thảo làm sao...!

Một ông trò bò ra đập tay bộp bộp lên phản. “Ôi đến là khổ cái thân bà Đồ! Chồng là bậc trung lương, vì không muốn theo hầu giặc đã phải phơi xương giữa đường, không nơi chôn cất thì chớ... Bây giờ cả cái thây tàn cũng phải đeo mang tội nợ! Đã trốn sang đến tận huyện khác để tìm chỗ nương nhờ cho tấm thân thối rữa, mà giời cũng chẳng tha cho...! Ôi là cái quân chó săn khốn nạn! Đến cả đồng bào mà cũng ăn thịt, uống máu...! Tội cho cô Trinh quá, phận gái cút côi, bệnh tật, mà còn phải gắng kiên cường trước bọn mặt ngựa đầu trâu. Giời cao mù rồi! Giời cao mù rồi...!”

Ấy rồi cuộc rượu lại chuyển sang cuộc than, cuộc oán, các ông sĩ tử đua nhau than giời oán đất giúp gia đình Đồ Nghị. Mắng các đấng linh thiêng chán chê, họ lại quay sang rủa thằng Châu, thằng Huyện, thằng Giáp, thằng Lý... đến cái con chó nhà chúng nuôi, sợ là các ông đều lôi ra mắng tất.

Ôi là cái sự mắng chung, mắng nhóm, mắng đoàn, nó khí khái làm sao, anh hùng làm sao! Khiến cho các ông trong thoáng chốc còn tưởng mình hóa ra ông tướng đang chém giết trên trận mạc, nào có nhớ cho rằng... các ông thường ngày đến con gà, con ngỗng, còn phải nhờ vợ đem ra sau sân cắt tiết.

“Mà giời đôi khi cũng mở được một con mắt các bác ạ, nghe bảo đợt thăm làng nhà hôm qua, thằng Huyện Thanh Ba bị chính đám trẻ nít trong họ mình ném phân trâu vào mặt. Xong chuyện, chúng nó mạnh ai nấy chạy, thằng kia vì bị bà Thái9 Đinh Văn dọa gạch tên khỏi tộc phả nên phải nén hờn tha cho lũ nít. Làm quan như thế, hỏi có nhục không?”

“Cái đám Đinh Văn ấy tôi còn lạ gì, vừa ngông vừa bạo, được cái ai nấy khí tiết đầy mình. Nghe bảo năm kia huyện bắt dân chịu rét lên rừng săn linh thú cống vua, trai đinh họ đấy ức quá, còn hợp nhau giữa đêm leo vào phủ huyện giết ngang con chó. Việc xong, còn treo cả lên cây thị trong sân, ghim cùng chữ ‘Trung’ to kềnh trên bụng cái thây bị mổ, lòng ruột gì phòi ra, thòng cả xuống đất. Đến là ngông các bác ạ. Nhưng là ngông-hùng, ngông-dũng, các bác có thấy thế không?”

“Họ chẳng thế thì thiên hạ chửi cho đến chết! Cả một vọng tộc được gần xa kính ngưỡng, ăn ở thế nào tự dưng lại đẻ ra một thằng phản quốc cầu vinh, nhục lắm đấy! Miếng khăn lành thanh bạch không dưng có vết nhơ, nghĩ cũng thương cho họ...”

“Tất cả cũng vì cái thằng chó Huyện tham lam...!”

Mặc cho ai nấy đều dời chú ý sang việc mắng chửi thằng Huyện, Đồ Khê thì cứ nghĩ mãi đến nàng Trinh rồi nhức nhối trong lòng. Nếu không phải năm đó u anh vì sợ bị quan bắt bớ lây, lại ngại bệnh câm bất ngờ của nàng nên từ hôn với bà Đồ Nghị, nàng và anh giờ đã ấm duyên vợ chồng, u con nhà họ cũng không lâm vào cảnh gia đạo tan tác, thân cô thế cô như hiện giờ...

Nhưng u anh có cái lẽ riêng, là phận con, anh cũng không làm trái đi được, đành mang tiếng phụ rẫy người ta. Rồi cô Trinh nhà đó kể cũng đáng mặt con nhà thư hương lắm, đứng trước hàng tá bi kịch trải ra như chiếu hoa bắt lửa bếp lò, nàng vẫn bình tĩnh chăm lo cho người mẹ đổ bệnh, vẫn thẳng lưng ngước nhìn lũ chức sắc khi chúng ra lệnh cho người làng phải xa lánh u con nàng.

Thậm chí, lúc bị u anh khéo léo từ chối cho vay vài đồng tiền thuốc thang, nàng cũng chỉ thản nhiên cúi chào một cái rồi lặng lẽ ra về.

Trưa đó, nghe thằng Cai kể lại, nàng dỡ luôn cái bếp và gian ngủ của mình, lấy gỗ ra chợ bán, tối về lót chiếu trên đất nằm cạnh giường trông u.

Hai chữ “kiên cường” thật chẳng ngoa, mà sao cũng đau đớn quá...

Trước tâm trạng ủ ê tập thể của các ông trên chiếu, thằng Cai biết mình không nên nói tiếp những chuyện xảy ra, sự đến đây mà các ông đã khóc than như thế, còn kể tiếp thì ra sao nữa? Nhưng rồi bác Cả vì sốt ruột cho người xưa nên đã hối, nó cũng không dám nhẹm.

“Cứ tưởng bà Đồ thế là thoát kiếp tội nợ, nhưng lão Trùm lão dai lắm mấy ông ạ. Lão sai người dập lửa, lôi phần thịt loang lổ, cháy khét vẫn còn tươm máu ra, rồi đòi treo cả lên cây! Cô cháu gào không thành tiếng, lại bị lính kèm, bèn không cách nào khác ngoài rũ đầu buông xuôi, sụp xuống quỳ lạy các quan ông van cầu tha tội. Kể ra, cũng may ông Châu không có dự cỗ này, nếu không với cái sự căm của ông dành cho nhà cụ thầy cháu, ông chắc sẽ xử chết cô cháu ngay tại chỗ.”

“Rồi cô Trinh bị xử thế nào? Mày cứ lan man mãi thế?”

“Dạ thưa các ông, thưa các bác, giữa ngay lúc ấy thì ông Huyện đang gối trên đùi ả đào cho vã cơn say đột nhiên tỉnh ngủ. Có lẽ do dân làng vây quanh khóc than ồn quá, ông ta cả giận quát to khiến đám chức dịch sợ xanh cả mặt, vội vã quỳ xuống bẩm hết đầu đuôi. Ông nghe xong không bảo gì, chỉ khoác vai con hát ngả nghiêng một hồi, đoạn sai người lấy khăn ướt lau đi máu trên trán cô Trinh cho ông xem mặt.”

Đến đây thì trong ruột Đồ Khê quặn lại. Lẽ nào...?

“Ông Huyện cười to rồi kêu lên ơ sao đẹp thế, chốc lại quay sang ngả ngớn với ông Xã10 rằng, nếu đứa con gái đó chịu về hầu ông, ông sẽ bỏ ra vài quan đi chuộc vạ thay nó với ông Châu, để nó ít nhất quấn được cái chiếu rách chôn con mẹ nó.”

Thằng Cai nói đến đây, cả đám đều hai năm rõ mười. Làm quan sướng là thế đấy, có chút quan hệ với quan to trên phủ là tha hồ mà ngông, đến nỗi hận của quan Tri châu mà cũng chỉ dùng vài quan quèn là có thể vuốt xuống.

Nhưng nàng Trinh xuất thân con nhà gia giáo, khí tiết nào cho phép nàng hạ mình làm đĩ điếm cho người? Nhất là người đây còn là chó săn cho giặc? Một khi nàng đồng ý, chỉ còn nước đeo gánh nhục nhã ngàn thu.

Làng Ẻn này trọng nhất trinh tiết đàn bà, dù có thông cảm cho hoàn cảnh nghiệt ngã của nàng thế nào, một khi thân bị nhấn xuống bùn lầy nhơ nhuốc, nàng sẽ trở thành tội nhân thiên cổ.

Nhưng rồi, chữ “hiếu” vẫn còn phơi ra đó, xác thây của bà Đồ vẫn réo rắt gọi đòi...

“Cô mày đồng ý rồi phải không?” Đồ Khê thở dài hỏi.

“Vâng ạ,” thằng Cai thểu não gục đầu.

Thế là toi nào hoa nào ngọc, nào tiếng nào danh, nào trinh nào tiết.

Không hiểu sao, trong lòng anh lúc này, thương thì có thương, hiểu thì có hiểu, nhưng cũng không tránh khỏi chữ “khinh” nghẹn ngào dợm lên. Đảo mắt nhìn quanh, anh biết chúng bạn đều cùng chung suy nghĩ. Chữ “trinh” của đàn bà, chữ “tiết” của đàn ông ở cái làng thượng văn này nặng như thế đấy.

“Thế thì cô mày đã chọn vùi dập má đào, tao còn cứu làm chi nữa...?”

Hỡi ôi...

Trinh cao Trinh đứng một mình,

Về hầu anh Bất, hóa nghìn chữ “khinh”.

Chú thích:

[1] Ca dao khuyết danh.

[2] Làng Ẻn: ngày nay là xã Vũ Yến (Mạn Lạn), huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

[3] Thi Hương, thi Hội: thi Hương là một khoa thi Nho học tổ chức liên tỉnh, thi Hội là một khoa thi Nho học tại kinh đô để tuyển chọn người có tài. Người đỗ thi Hương mới có tư cách thi Hội. Năm 1396, Trần Thuận Tông ban chiếu quy định cách thức thi Hương, thi Hội bằng thể văn 4 kỳ, và định rõ: “Cứ năm trước thì Hương thì năm sau thi Hội, người đỗ thì vua ra một bài văn sách để xếp bục.”

[4] Huyện thừa: một chức quan cấp huyện ở Giao Chỉ vào thời Minh thuộc. Hàm Chính bát phẩm. Dân gian chỉ gọi chung là “ông Huyện”.

[5] Ngụy quan: người nước ta làm quan cho nhà Minh.

[6] Cai đinh: lính lệ của làng, có trách nhiệm trông coi cơ sở, đình miếu.

[7]Ông trùm: chức dịch trong làng, có trách nhiệm trị an, tự vệ.

[8] Lão Châu: cách gọi dân gian của lão Tri châu, một chức quan cấp châu thời phong kiến.

[9] Bà Thái: vợ của ông Thái học sinh, hoặc mẹ của anh Thái học sinh. Thái học sinh là học vị cấp cho những thí sinh thi đỗ kỳ thi Hội, một trong những kỳ thi Nho học do triều đình phong kiến tổ chức. Học vị này xuất hiện từ khoa thi Nhâm Thìn (1232) đời Trần Thái Tông cho đến khoa thi Canh Thìn (1400) đời Hồ Quý Ly.

[10] Ông Xã: tức Xã quan, một chức danh thời Trần, dùng để chỉ người đứng đầu một xã và phải được toàn dân xã ấy bầu bằng phiếu kín và được Tri huyện chuẩn y.