- 5 - THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM
Hai nhân vật quan trọng trong việc cổ vũ việc Pháp xâm lăng Việt Nam là giám mục Pelơranh (Pellerin) cai quản địa phận Huế và linh mục Huc, cựu thừa sai truyền giáo. Giám mục Pelơranh đã khẳng định trước mặt triều đình Napôlêông III rằng: «Nếu quân Pháp đánh chiếm nước này, thì giáo dân bản xứ sẽ tiếp đón họ như những kẻ cứu tinh». Linh mục Huc cũng viết thư cho vua rằng: «Chiếm lấy Nam kỳ là việc dễ dàng nhất trần gian, nó sẽ đem lại những kết quả vô cùng to lớn. Nước Pháp hiện có tại biển Trung Quốc những lực lượng dư sức để tiến hành công việc đó. Dân bản xứ thì hiền lành, siêng năng, rất dễ đón nhận đức tin Kitô giáo và đang rên siết dưới ách tàn bạo ghê tởm. Họ sẽ tiếp đón chúng ta như những người giải phóng, những vị ân nhân. Chỉ cần ít lâu thôi là đem họ theo đạo được hết và làm cho họ nhiệt tình yêu mến nước Pháp».
Chưa từng có luận điệu tuyên truyền tài tình tinh vi mức ấy! Bọn tư bản gặp được nơi những lời khẳng định lặp đi lặp lại đó, những công cụ hầu đánh lừa nhân dân Pháp. Đám quân sự hoan hỉ lao vào những cuộc viễn chinh dễ dàng như thế.
Năm 1856, thiếu tá M.đơ Môntinhi chỉ huy chiến hạm Lacaprixơdơ (La Capricieuse) tới Đà Nẵng, với mục đích đòi vua Tự Đức nhường hải khẩu đó cho Pháp, để cho người Pháp được hoàn toàn tự do buôn bán trên khắp cả nước và tự do giảng đạo công giáo. Viên thuyền trưởng tiếp giám mục Pelơranh cai quản địa phận Huế tại chiến hạm của ông. Giám mục lên tàu cung cấp cho ông các tin tức tình báo và nhân danh toàn thể các thừa sai tìm hiểu xem mục đích thật chiến hạm tới đây làm gì. Tự Đức không muốn nhượng bộ, còn Đơ Môngtinhi lại không có đủ số quân để chiếm cả nước, hoặc trừng phạt kẻ thù theo lời thỉnh cầu của các thừa sai. Chiến hạm Lacaprixơdơ rời Việt Nam mang theo giám mục Pelơranh, người có vũ chủ chốt việc Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Cử chỉ của Đơ Môngtinhi gây phản đối khắp nơi từ phía các cố thừa sai. Các ông này gửi về Pháp những bức thư tỏ thái độ tức giận. Giám mục Roto (Retoro) viết trong thư đề ngày 24-6-1857: «Chưa bao giờ gặp phải một thất vọng ê chề như thế: Phần chúng tôi phải nói rõ thôi, chúng tôi đã se cả tấm lòng mình lại, khi trông thấy cả tòa nhà huy vọng mình ôm ấp trân trọng đã sụp đổ nhanh như thế, rồi nghe lặn đi lặp lại bên tai người Pháp chúng tôi những lời hết sức khó chịu, chẳng hạn: Bọn họ kéo tới mà mình có mời đâu, rồi họ bỏ đi sau khi làm hại chúng mình... Hậu quả của tất cả việc đó là gì? Là đem chúng tôi ném vào răng cọp, sau khi đã chọc tức nó mà hại chúng tôi». Và chính giám mục kể trên lại kêu lên trong một bức thư khác: «Chúng tôi đã hy vọng biết bao khi mới nghe tin cuộc hành quân sắp tới nơi, để đòi cho chúng tôi cách này hay cách khác một sự bình an và sự tự do hoàn toàn, để báo thù cho danh dự nước Pháp đã bị xúc phạm quá lâu nay rồi... Thất vọng biết chừng nào thật ê chề khi biết chắc chắn rằng lính Pháp đã chẳng chịu làm gì hết trơn».
Và linh mục thừa sai Têôphan Vêna (Théophane Vénard), rồi đây được phong Á thánh như một vị thừa sai lừng danh nhất của Hội thừa sai Pari và của Việt Nam, đã viết cho thân phụ hồi tháng 6 năm 1857 như sau: «Dân chúng cả nước, lương cũng như giáo, đều vổ tay và tỏ lòng hoan hỉ, nhưng nghĩ rằng ông vua tàn bạo của họ sắp bị truất phế. Nhưng thấy quân đội Pháp chúng ta chỉ tạo ra nguyên chuyện lạ thôi, rốt cùng họ bị dân chúng chế diễu, còn chúng con thì chỉ lãnh đủ sự ô nhục, những người thừa sai nghè hen, những đứa con của nước Pháp, một vương quốc cao sang.
Các cuộc viễn chinh hèn nhát kiểu đó chẳng xứng đáng chút nào với nước Pháp, vốn mang một quả tim quảng đại đến thế. Nếu nước Pháp chịu làm việc gì trước thế giới, thì phải làm một cách vĩ đại mới hợp với bản chất vĩ đại của nó».
Quả đúng, qua cuộc hành quân kể trên, quân Pháp đã làm Tự Đức nổi giận lôi đình. Một sắc chỉ cấm đạo ngặt hơn, tàn ngặt hơn, tàn bạo hơn, đã được đưa ra đàn áp, nhằm mục đích phá hủy toàn bộ hạ tầng cơ sở của cái tôn giáo cấu kết quá chặt chẽ như thế với quân Pháp. Vua đã sai lầm khi đánh giá tình hình ngoài mặt, không nghĩ tới nguy cơ sắp đổ xuống trên đất nước mình. Phần vua Nepôlêông III, chịu sự áp lực của giám mục Pelơranh từng hứa rằng tất cà tín hữu người Việt sẽ hợp tác tới toàn diện với quân Pháp, vua cũng nghi vị giám mục đó và vị thừa sai khác giải thích cho hiễu rõ tình hình lực lượng quân sự và các điểm chiến lược của Việt Nam, nên đã ủy nhiệm cho phó đề đốc Rigê đơ Giơnuiy (Rigault de Genouilly) đánh chiếm Việt Nam. Ông này đã nhận được lời mời giám mục Rơto căn dặn như sau: «Nếu Ngài đô đốc muốn thực hiện công việc một cách vững chắc, bền bỉ, vừa đem lại vinh dự cho nước Pháp, vừa làm lợi ích cho nước Pháp, hoặc là đặt một ông vua có đạo dưới quyền bảo hộ của nước Pháp để ta chiếm giữ hải cảng và các hồn đảo vịnh Turan (Đà Nẵng) một cách vĩnh viển».
Rigault De Nouilly
Trên chiến hạm Nêmêdix (Némésis), Rigô đơ Giohuiy có giám mục Pelơranh bên cạnh, đảm bảo việc giao liên với các thừa sai và tín đồ kitô, vốn được chỉ thị cung cấp cho đô đốc các tin tình báo về vị trí các đội quân Việt Nam và các vụ chuyển quân. Được vị giám mục đảm bảo rằng hễ trông thấy hạm đội hùng mạnh của Pháp và Tây Ban Nha tới (bởi vì quân Tây Ban Nha ở Manila đã phái một trung tá để tham dự cuộc hành quân «trừng phạt» với Pháp) thì tất cả dân chúng giáo lương sẽ nổi loạn chống nhà vua và việc đánh chiếm nước này chỉ là việc làm và ba hôm là đô đốc Rigơ đơ Giơhuiy bèn triển khai đội hình 14 chiến hạm ngay trước vịnh Turan. Nhưng đã xảy ra bất đồng về chiến lược giữa giám mục và phó đô đốc. Do thiếu kết hợp các tin tình báo và chiến thuật, quan Pháp đã bắc phá cản Turan ngày 31-8-1858 nhưng rồi do dự không muốn về thủ đô Huế đang được bảo vệ bởi những tướng lãnh giỏi nhất của Việt Nam.
Bỏ lại Turan một đơn vị đóng chốt, Đơ Giơhuiy xuống đánh chiếm Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Sài Gòn thất thủ, nhưng cuộc kháng chiến được tổ chức tiếp tục xung quanh các vùng đât bị chiếm đóng, tạo vòng vây phong tỏa tiếp viện. Binh lính Pháp có thể chết đói tại đây, nếu giám mục Lơfevơrơ đã không kịp thời vận động giáo dân tiếp viện.
Năm 1860, cuộc hành quân Pháp-Anh đánh Bắc kinh bắc buộc quân Pháp phải tạm hoãn công việc chinh phục Việt Nam. Vua Tự Đức lợi dụng thời hạn đó để tổ chức tự vệ. Vua nói: «Cần phải diệt tận gốc cái đạo tàn ác kia đi, bởi nếu không có bọn tín đồ, thì lũ quân man rợ phương Tây sẽ không có ai phù giúp không nhận được tiếp tế gì hết. Thiếu tiếp viện thì chúng phải rời khỏi nước ta thôi».
Nhưng, sau sự thất bại ở Bắc kinh, quân Pháp quay lại mạnh mẽ thêm và quyết tâm dánh chiếm toàn bộ nước Việt Nam. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, nhà vui đã phải ký hòa ước ngày 5 tháng 6 năm 1862, nhượng cho nước Pháp 3 tỉnh, bồi thường chiến tranh 20 triệu tiền Pháp và ban bố tự do thờ cúng cho người công giáo.
Trong việc tổ chức cai trị các vùng đất chiếm được bọn quân Pháp chiêu mộ người hợp tác, nhưng theo lời đô đốc Riơniê (Rieunier), chúng chỉ gặp được «tín đồ kitô hoặc những tên vô lại». Bốn ngàn giáo dân đến quây quần xung quanh bọn xâm lược. Thật dễ đoán biết sự tức giận phẫn nộ không những của triều đình Huế mà cả trong dân chúng người «lương» nổi lên cao độ chừng nào. Các sắc chỉ cấm đạo công bố giữa năm 1859 và 1861 là gay gắt và nghiêm khắc nhất từ trước tới nay.
Sắc chỉ 17-1-1860 truyền phải phân tán người công giáo tới sống xen ở giữa các làng người lương, đễ mỗi tín đồ phải có 5 đồng bào lương kiểm soát. Tất cả các làng và nơi thờ tự của công giáo phải triệt hạ; tài sản của người công phải bị tịch thu và sau hết phải khắc chữ TÀ ĐẠO lên má các tín đồ.
Sau hòa ước 1862, Tự Đức công bố ân xóa khắp cả nước. Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của vua, vua ra lệnh tha cho tất cả các tín hữu kitô đang bị tù, cho những người bị phân sáp trước đó được trở về làng cũ, được nhận lại tài sản của họ, nhà cửa, ruộng đất, và còn được miễn thuế và được sống yên thân.
Tại Nam kỳ, trừ tín hữu kitô và những tên xu thời, nhân dân dân các vùng bị chiếm đóng đều tổ chức kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của những nhà chí sĩ yêu nước xuất thân từ quần chúng. Đây là loại chiến tranh du kích, được tiến hành vừa táo bạo vừa rất tài tình. Trong cuốn sử viễn chinh Nam kỳ, Panluy đơ la Berierơ (Pallu de la Barriere) mô tả theo điều tai nghe mắt thấy như sau: «Thực tế là đâu đâu cũng có các ổ kháng chiến, nó chia nhỏ li ti ra, có thể hầu như nói được rằng mỗi người An Nam là một ổ kháng chiến. Đúng hơn, phải kể mỗi người nông dân đang bó lúa là một điểm du kích! Và chiến thuật này khiến quân lính Pháp chẳng còn biết đâu mà mò: «Thật không có màng kịch nào buồn tẻ hơn, đơn điệu hơn, mệt mỏi hơn cái thảm cảnh quân lính Pháp ở trên đất cũng như nơi mặt biển. Một tên địch mình trông thấy hoài, nhưng một tên khác lại ngụy trang dấu mặt. Cứ thấy kẻ thù luôn luôn thoát khỏi tầm tay, khiến có cảm tưởng như chúng ta chỉ bắn vào không khí».
Nguyễn Đình Chiểu
Trước cuộc nổi dậy khắp nơi như thế, quân Pháp bèn tổ chức tiến công và chiếm đóng toàn bộ Nam kỳ vào năm 1867. Song dầu thấy quân địch thu được những chiến thắng cách chớp nhoáng và quan trọng như thế, du kích quân người Việt vẫn không bỏ cuộc kháng chiến. Và bởi xác tin rằng người công giáo đồng lõa vớn bọn xâm lược, họ cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình. Theo ông Nguyễn đình Chiểu, một nhà thơ Việt Nam yêu nước, thì «dân chúng bị tiêm nhiểm phải cái đạo tà nên kẻ thù xâm chiếm nước nhà mà chẳng ai chống cự lại». Và nhà thơ này cũng liên tưởng đến các chiến công của kháng chiến vốn chỉ được trang bị thô sơ, đã viết trong bài thơ phúng điếu các chiến sĩ Cần Giuộc như sau: «Hỏa pháo chỉ dùng ngọn đuốc rơm, đã đủ thiêu rụi một chủng viện. Dùng cây dao làm kiếm, cũng chặt được đầu tên thiếu úy».
Ở đây, nên ghi nhận cái ý tinh vi của vần thơ Việt Nam, đặt chủng viện thừa sai song song với thiếu úy thực dân. Thời gian này, tại Sài Gòn đã bị chiếm các hội thừa sai tổ chức xây dựng trường học, tu viện, nhà thương theo kiểu phương Tây.