- 7 - GIÁO HỘI DƯỚI CHẾ ĐỘ THUỘC ĐỊA.
Từ ngày xâm chiếm Viêt Nam cho tới năm 1945, quân Pháp hằng phải đương đầu với các cuộc nổi dậy liên tục, lúc thì rộng lớn, khi thì giới hạn hơn. Không những nhân dân Việt Nam vì hãnh diện với nền băn hóa 4000 năm, không thể chịu cái nhục bị đô hộ, nhưng cũng vì thế chế độ cai trị thuộc địa đã giam hãm họ mãi trong sự nghèo khổ, dốt nát và bất công. Với những ly rượu, ly thuốc phiện, bọn thực dân bắt quần chúng say sưa quân cả bản thân và nghiện ngập đến trở thành đần độn như súc vật. Cứ đọc chẳng hạn những bản báo cáo mà phủ toàn quyền gửi về cho Bộ thuộc địa Pháp, sẽ thấy Báo cáo ngày 29-1-1908 viết: «Việc bán rượu trong cùng một thời kỳ (tháng 10-1907) đã vượt con số 700 ngàn lít, nhưng giảm mất 60 ngàn lít so với tháng trước... Còn thuốc phiện trái lại mức bán có gia tăng luôn. Tháng 10, đã bán được gần 1.800 kí thuốc phiện, nghĩa là gần gấp đôi số lượng đã bán cùng kỳ năm 1906».
Báo cáo ngày 19-2-1908 ghi: «Việc tiêu thụ rượu tháng 11-1907 đã lên tới 744.798 lít, vượt tháng 10 được 40.957 lít, nhưng thấp hơn tháng 11 năm 1906, vì năm ấy đã bán tất cả 923.245 lít rượu. Còn việc bán thuốc phiện vẫn gia tăng một cách rất đáng phấn khởi».
Vài ví dụ đó chỉ rõ công trình văn minh «Thiên Chúa Giáo» người Pháp thực hiện tại Việt Nam đứng ở mức đạo lý cao chừng nào. Tuy thế, trong thời kỳ này, công giáo vẫn đang phồn thịnh và ngày càn một phát triễn hơn. Có vài người lãnh đạo công giáo Việt Nam còn dám gọi thời thuộc địa đó là «thời vàng son của Giáo Hội tại Việt Nam».
Việc phát triển công giáo trước hết là về mặc kinh tế. Nhằm tỏ lòng tri ân đối với các hoạt động thừa sai ngày 28-8-1962, tức chỉ 2 năm sau khi chiếm được 3 tỉnh ở Nam kỳ, toàn quyền thực dân đã ra nghị định dâng «nhưng không cho Nhà Chung mạn Tây Nam kỳ, hoàn toàn được chủ quyền về một sở đất tọa lạc tại Sài Gòn». Đàng khác, mặc dầu có luật tách biệt Nhà thờ khỏi Nhà nước được bỏ phiếu năm 1905 và áp dụng tại «mẫu quốc» rồi, luật đó vẫn không bao giờ được công bố và áp dụng tại thuộc địa. Nhiều vụ nhượng đất đai đã được thực hiện cho Nhà Chung, chẳng hạn những năm 1923, 1926, 1927, 1930, 1931, không nói tới các vụ hiến đất «cách riêng tư», một số quan người Pháp đã lấy đất công dâng cho Nhà chung, thể theo lòng đạo đức cá nhân của họ.
Nhà thờ lớn Hà-Nội
Nhà thờ Đức Bà Sài-Gòn
Năm 1939, tài sản của Nhà Chung thừa sai Pháp trị giá trên 5 triệu đồng, tức là trên 50 triệu quan tiền Pháp. Trị giá đó là chính thức, nhưng theo các luật gia thuộc địa Caratini và Gơranggiăng (Grandjean) thì thấp hơn giá trị thực tế và không bao gồm tất cả các tài sản của Giáo Hội, vì đã bỏ ra ngoài của của cải các xứ đạo và nhiều pháp nhân giáo hội khác vốn có quyền sở hữu. Tài sản các Nhà Dòng Đaminh Tây Ban Nha cũng rất quan trọng. Nói cho đúng thì một phần các tài sản của Dòng, nhất là đất đai và ruộng vườn thường là của trối, hoặc của dâng cúng từ phía giáo dân. Nhưng các Nhà Chung được liệt vào hạng địa chủ lớn nhất thời ấy.
Cũng có thể nhắc thêm một số đặc ân quan trọng, Nhờ một nghị định ngày 8-2-1868, giám mục Sài Gòn được miễn cước phí về toàn bộ thư tín chính thức gửi cho nhà cầm quyền và cho các thừa sai. Năm 1877, người ta cũng cho tòa giám mục Sài Gòn được miễn phí khi đánh điện tín theo nhu cầu công việc của Nhà Chung. Ngày 22-8-1867, một quyết định của Nhà nước thuộc địa ra lệnh cấp cho tòa giám mục Sài Gòn 4000 quan. Sau cùng, theo nghị định ngày 14-12-1868, «các phần tử giáo sĩ tại thuộc địa, khi đi dưỡng sức thì được Nhà nước trả cho 50% phí tổn trong 5 tháng nghỉ đầu». Năm 1872, chính quyền Nam kỳ ban cho Nhà chung Sài Gòn một khoản trợ cấp hàng năm là 170.000 tiền Pháp. Số ngày đã bị cắt từ năm 1882 theo sau việc khiếu nại của những người ngoài công giáo. Năm 1887, nhà nước Nam kỳ đã cấp cho các Nhà Chung ở Bắc và Trung Việt Nam số tiền 50.000 quan Pháp.
Nói cho đúng thì với các tài sản và đặc ân kể trên, Giáo hội đã lo mở mang một hệ thống trường tư thục khác nổi tiếng, tạo dựng các nhả thương (nơi đó các nữ tu người Tây lãnh lương tháng 75 đồng, còn các chị người bản xứ chỉ được 30 đồng, theo nghị định ra ngày 9-7-1921) và các trại chăm sóc bệnh cùi, cũng như thiết lập nhiều cơ sở từ thiện lớn.
Xét về dân số, thì người công giáo đã tăng gấp 3 lần trong vòng một thế kỷ (từ 600 ngàn vào thời đầu đô hộ lên tới một triệu 700.000 năm 1945). Nhưng giáo dân hầu hết là nông dân, thường thì khi theo đạo để được chở che khỏi bị các quan chức thối nát quấy nhiễu và đôi khi còn được đảm bảo chén cơm độ nhất.
Hồi đầu, Giáo hội tỏ ra rất dè dặt đối với Văn Thân. Năm 1887, toàn quyền Lanetxăng (Lanessan) chính thức đến thăm giám mục Hà Nội là đức cha Puyginiê. Sau đó Lanetxăng thuật lại rằng: «Bởi thấy đức cha cứ nói đi nói lại về vấn đề Văn Thân, tôi mới đặt ra cho đức cha câu hỏi: Đức cha nghĩ nước Pháp phải đối xử với họ thế nào? Đức cha trả lời dứt khoát ngắn gọn rằng: «Phải tiêu diệt bọ họ đi», vừa nói vừa đưa tay ra dấu, cho thấy rỏ thái độ dứt khoái của Đức Cha. Tôi mới hỏi: Tại sao thế? Đức Cha trả lời: Tại vì bọn Văn Thân rất co ảnh hưởng, họ có uy tín lớn và một khi được làm quan là thiên hạ kính trọng họ, vì vậy nhất thiết phải thanh toán bọn họ đi. Bao lâu còn Văn Thân, chúng ta sẽ phải lo lắng đủ thứ, bởi vì bọn họ quá yêu nước, không thể nào chấp nhận sự cai trị của chúng ta. Hơn nữa, chẳng bao giờ một người Văn Thân chịu theo đạo Kitô».
Mặc dầu ngành giáo dục Kitô giáo có phát triển, hạn trí thức người Việt nói chung vẫn không đón nhận đức tin Kitô giáo. Phần lớn họ cho rằng công giáo phải chịu trách nhiệm về việc đất nước mất độc lập (cứ đọc các tác phẩm lịch sử, hoặc tiểu thuyết lịch sử thì đủ rõ điều này). Một số người khác nghĩ rằng, mặc dầu Giáo hội có cơ cấu rất mạnh, nhưng vẫn hoàn toàn nằm bên ngoài nền văn hóa Việt Nam.