Phần Thứ Nhất TẬP TỄNH VÀO NGHỀ
Vào một buổi sáng thứ hai, tôi đi tới trường, có Don Conway đi bên cạnh. Đó là một chàng trai hai mươi tuổi, trước đây không hề nghĩ đến việc trở lại ghế nhà trường. Tôi mới được bổ nhiệm về làm giáo viên tại trường thung lũng Lonesome và tôi không biết rõ khả năng của cậu học trò tương lai của tôi. Hắn đang học chương trình tiểu học thì bỏ ngang. Nhưng tôi biết hắn có hai quả đấm thôi sơn mạnh mẽ và sẵn sàng bênh vực tôi. Tôi đã có mặt ở trường học suốt ngày chủ nhật. Vừa làm việc, tôi vừa nghĩ cách khiến người địa phương không thể coi thường mình được. Tôi biết rằng đó là điều tất yếu.
Tôi đã mất khá nhiều công phu để thuyết phục Don Conway đi học trở lại. Hắn có dự định sẽ cưới vợ sau khi bán xong số thuốc lá thu hoạch được trong vụ này. Với những con số cụ thể, tôi đã chứng minh cho hắn thấy rõ lợi ích của một căn bản học vấn vững vàng. Tôi hứa sẽ dạy hắn cách đo đạc và tính ra diện tích một thửa ruộng, cách tính dung lượng một chiếc xe bò hay một thùng đựng ngũ cốc. Cũng như có thể dự trù phải chuyển vận đi bao nhiêu thước khối đất khi đào một hầm chứa rượu hay một cái giếng sâu. Don Conway rất thích những kiến thức loại đó. Tôi cũng bảo hắn, người ta không thể lấy vợ hoặc khai thác một trang trại mà không biết những điều sơ đẳng ấy. Trong trường hợp ấy, rất có thể người ta sẽ bị lợi dụng suốt đời. Tôi sẽ cố gắng làm cho hắn biết rõ những điều cần thiết, tuy nhiên trong đầu tôi còn có ý nghĩ khác.
Hôm ấy, ngoài Don còn hai em trai và Vaida, em gái hắn cùng đi tới trường với tôi. Tôi khen ngợi ông già John Conway đã cho hầu hết con cái đi học, nêu một gương tốt cho các trại chủ khác trong thung lũng. Ông John chắc là khó mà trông coi được bốn mẫu thuốc lá và những hoa màu khác, nếu Flossie, con gái lớn của ông, không tình nguyện ở nhà giúp cha. Thêm vào đó, bà Bertha, vợ ông, cũng hứa sẽ chia thì giờ để lo việc nhà và việc đồng áng.
Flossie đã mười tám tuổi và bỏ học sáu năm rồi. Chắc rằng cô ta cũng vui vẻ đi học lại, nếu tôi có lời năn nỉ sơ sơ thôi; nhưng tôi nghĩ rằng cần phải có người ở nhà đỡ đần cho ông bà John. Trong khi đó, một buổi chiều chủ nhật, tôi ngồi khá lâu với Don ngoài hàng hiên, năn nỉ hắn hết lời, gần như van xin hắn để hắn trở lại học hành. Giữa lúc ấy hai tên Ova Salyers và Guy Hawkins cưỡi ngựa đi qua. Chúng liếc nhìn về phía hàng hiên để thấy mặt thầy giáo mới rồi im lặng bỏ đi.
Don Conway nhìn theo hút hai tên ấy rồi lại nhìn tôi. Hắn không hỏi tuổi tôi, và tôi cũng không cho hắn biết rằng phải mười tám ngày nữa, tôi mới đầy mười bảy tuổi. Thời đó phải đúng mười tám tuổi mới được hành nghề. Nhưng Don biết rõ câu chuyện xảy đến với chị tôi, khi chị ấy tới dạy trường Lonesome trước đây. Hắn biết rằng thằng Guy Hawkins đã ngược đãi chị tôi trước mặt các học sinh khác và đã đấm chị tôi bầm cả mắt. Ngày mới đến thung lũng Lonesome, chị tôi là một thiếu nữ mười chín tuổi xinh đẹp, với mớ tóc vàng và đôi mắt xanh. Thế mà chị tôi phải trở về nhà, người rũ rượi, trước khi niên học chấm dứt. Thấy chị tôi trong tình trạng đó, tôi nằng nặc đòi đi Lonesome ngay. Cha mẹ tôi không chịu cho đi. Ông bà nghĩ rằng làm như thế chỉ chuốc thêm phiền não và riêng tôi sẽ lãnh đủ.
Nhưng lúc lên trường trung học Landsburgh, tôi đã vào lầm phòng học. Tôi quên mất hôm ấy các thầy giáo làng của quận Greenwood đang dự cuộc khảo sát khả năng trong lớp văn chương Hoa Kỳ của trường chúng tôi. Đến khi ông thanh tra Harley Staggers lầm tưởng tôi cũng là một thí sinh (vì ông đâu nhớ được mặt tất cả các ứng viên), tôi bỗng nảy ra ý kiến. Tôi biết rõ cái nhiệm sở mà tôi sẽ xin bổ nhậm tới, một khi tôi qua lọt cuộc sát hạch. Tôi thi đậu. Và sau đó, nhờ người bạn John Hampton cũng là một thầy giáo làng, vận động với ông John Conway để cho tôi về dạy ở thung lũng Lonesome.
Lúc tôi và Don Conway tới trường, đã có trên ba mươi lăm đứa học trò đứng đợi. Guy Hawkins và Ova Salyers đều có mặt. Chúng đứng gần kho chứa than, tay cầm những cuốn sách rách tả tơi. Hai đứa ấy là cả một sự trái ngược với tất cả các học sinh khác. Chúng nó lớn xác hơn cả Don và tôi.
Hai đứa nhìn tôi chăm bẳm khi tôi ngỏ lời chào chúng nó. Trong khi phần lớn các học trò khác, hơi bối rối, quay mặt đi, không nói ra lời. Tất cả đang đợi tôi mở cửa trường để ùa vào chọn lấy chỗ ngồi. Chúng đều mang theo một cái giỏ hay một cái túi đựng bữa ăn trưa và sách của đa số đều gãy góc mất bìa.
Tôi đã tưởng là mình tới sớm. Lúc ấy chưa đến tám giờ, mà tám giờ rưỡi mới vào học. Mặt trời tháng bảy chưa kịp làm tan sương sớm đang bốc lên thành những đám mây mờ đó đây trên thung lũng. Nhưng ở Lonesome người ta có thói quen ngủ sớm và dậy sớm, và học trò ở đây đều là con cái nhà nông. Học trò gái tóc kết thành bím, buông thõng sau lưng, cột bằng những băng vải màu sặc sỡ. Chúng đều mặc áo dài hoa in, sạch sẽ, và đi chân đất. Không có trò nào mang giày, dù lớn hay nhỏ, là trai hay gái. Cho đến bây giờ tôi chưa hề thấy nhiều người đi chân không như vậy, cả trẻ con, người lớn và các cụ già. Đối với họ, đi giày có lẽ cũng kỳ cục như đeo bao tay giữa mùa hè. Có lẽ chẳng bao giờ họ nghĩ tới vấn đề giày dép.
Cửa lớp vừa mở, chúng reo cười hò hét và ào tới. Cái e lệ ban nãy biến đâu mất. Chúng chen lấn nhau như điên để vào trước và chọn chỗ. Nhiều vụ cãi cọ xảy ra để giành chỗ ngồi kế anh này, chị kia. Rất nhiều trường hợp có hai trò cùng muốn ngồi gần người thứ ba. Đối với Guy và Ova thì chẳng có gì rắc rối. Chúng miễn cưỡng vào lớp và tới ngồi ở ghế cuối cùng, phía học trò nam. Sau khi ngồi vào bàn giấy, tôi nói với học trò:
- Để mở đầu, tôi cho các em hay, kể từ hôm nay, không có bên nam bên nữ nữa. Các trò muốn ngồi đâu thì ngồi. Chúng nó nhìn nhau với vẻ kinh ngạc. Không một trò trai nào dám qua ngồi bên phía nữ, không một trò gái nào qua Ở bên phía nam. Ở đây, khó mà đả phá một truyền thống học đường lâu cả trăm năm. Tại trường Trung học cũ của chúng tôi không có phân biệt bên nam bên nữ. Tôi nghĩ rằng phương thức ấy cũng có thể áp dụng tại đây một cách tốt đẹp như vậy. Tôi không dè câu nói đó lại là đề tài bình luận của đồng bào địa phương. Tất cả mọi người đều nhắc lại lời ấy và nhiều người chỉ trích tôi và bảo rằng: Tại trường tôi “người ta học khoa tán gái”. Cho học sinh nam nữ ngồi lẫn lộn với nhau à? Có ai nghe nói đến việc ấy bao giờ không? Ngày đầu, tôi chỉ có thể ghi tên họ học sinh vào sổ theo cấp học của chúng, kế đó gọi chúng lên đọc bài làm theo mấy cuốn sách lèo tèo chúng đem theo. Thời ấy, Tiểu Bang chưa cung cấp sách học và mỗi học sinh phải mua lấy sách mà dùng. Đối với những học sinh nghèo, cha mẹ không đủ tiền mua sách, Uỷ ban Giáo dục quận Greenwood trợ cấp cho một số tiền cỏn con. Tôi biết rằng đa số học sinh của tôi đang chờ đợi nhà bán được thuốc lá hay mật mía để xin tiền mua sách. Hai ngành trồng trọt ấy là hai nguồn lợi chính của các trại chủ ở Lonesome.
Lúc ghi tên vào sổ, tôi tạm dời chỗ ngồi của năm bảy trò. Khi nào có thể làm được, tôi cho một trò không có sách ngồi kế bên người có sách nếu cả hai cùng học chung một cấp. Vừa ghi sổ, tôi vừa cố ghi nhớ họ tên chúng và gợi chuyện làm quen. Chính vì muốn làm quen với chúng mà tôi thấy học trò của tôi hết sức rụt rè. Đối với chúng, tôi là kẻ xa lạ, mặc dầu tôi đã lớn lên trong những điều kiện và khung cảnh tương tự như chúng nó. Ngôi làng W. Hollow của tôi chỉ cách xa Lonesome không đầy năm mươi cây số. Vậy mà ở đây tôi được coi như một ngoại kiều.
Khi tôi ra hiệu cho chúng ra chơi lần đầu, tạm nghỉ mười lăm phút vào giữa buổi học ban mai, tôi hết sức kinh ngạc. Cùng lúc chúng đứng phắt lên, chạy nhầu ra cửa để tìm cách ra sân trước bạn bè. Những đứa lớn xô đẩy, chen lấn những đứa nhỏ. Sự huyên náo và hỗn loạn thật khó tả. Tôi tự thề với mình không bao giờ cho việc ấy xảy ra nữa. Tôi tự hỏi tại sao chúng lại vội vàng quá vậy? Tôi còn mắc bận thêm vài phút trước khi ra sân với học trò. Ra tới nơi, tôi thấy chúng đang tham dự một trò chơi rất sống động. Tôi nhận thấy một khắc nghỉ học quả thật quá ngắn ngủi để chúng chơi cho xong trò chơi “luồn kim” mà chúng đang chơi dở dang. Tôi đành cho chúng nghỉ thêm năm phút để chơi nốt phần thứ hai của trò chơi này. Thời kỳ mà chính tôi cũng chơi trò ấy tại Plum Grove đã khá xa rồi. Những kỷ niệm vui sướng trào dâng trong lòng tôi. Bọn học trò của tôi đã đem hết nghị lực và sự hăng hái vào trò chơi này. Tất cả đều nhập cuộc. Không một ai đứng ngoài đóng vai khán giả. Tôi nhận chân rằng khoảnh khắc ấy là thời gian tốt đẹp nhất trong ngày đối với chúng. Vì vậy, tôi không khỏi băn khoăn khi rung chuông cho chúng vào học. Tôi bắt chúng sắp hàng, nhỏ đứng trước, lớn đứng sau, tuần tự vào lớp. Guy Hawkins và Ova Salyers đi sau cùng. Vào lớp rồi, Guy xin phép tôi để đi lấy một thùng nước cùng với Ova. Trường không có giếng, cũng không có bồn chứa nên phải đi xin nước ở một trang trại gần đó. Tôi chấp thuận và căn dặn chúng phải rảo bước vì bạn học của chúng sau khi chạy nhảy đùa nghịch thảy đều khát nước. Nắng tháng bảy nung nấu mái tôn tráng kẽm, trong lớp nóng đến nỗi nhựa thông từ những vách ván nhỉ ra. Tôi cho mở toang tất cả các cửa sổ thế mà vẫn nóng hầm như căn phòng của tôi tại nhà ông Conway. Nơi đó, căn phòng nhỏ áp mái của tôi, với cái cửa sổ duy nhất không có cánh lá kéo, nhiệt độ chỉ giảm sút vào nửa đêm. Và cũng kể từ lúc ấy tôi mới ngủ được. Tôi hiểu tại sao tất cả các ngôi trường làng bắt buộc phải mở cửa vào tháng bảy, bất kể các lời bác bẻ của các nông gia, vì họ đang cần có con cái giúp việc đồng áng. Sở dĩ phải tựu trường sớm như vậy vì than củi là một phụ phí vào mùa đông. Những trường làng khắp Tiểu Bang làm gì có đủ tiền trợ cấp mà không phải đóng cửa; vì vậy, khai trường giữa mùa hạ, các trường ấy giảm thiểu đi rất nhiều các phí khoản. Nhưng làm như thế rất mệt cho trẻ con cũng như cho giáo viên.
Thùng nước đầu tiên do Guy và Ova đem về chưa đầy năm phút đã hết. Đa số học sinh còn khát. Tôi sai Guy và Ova đi lấy thùng nữa, và bảo chúng mượn thêm một thùng thứ hai và đi cho mau chóng. Tôi phải tìm phương giải quyết vụ uống chung trong một cốc vại. Ở trường Plum Grove, chúng tôi cũng uống chung trong một cái ly như vậy. Nhưng ở trường trung học Landsburgh người ta đã dạy tôi làm khác đi. Tôi yêu cầu học sinh “một phút im lặng” và bảo chúng hôm sau phải đem theo một cái gì để uống nước. Có thể là cái ly, cái chén hay cái ca, miễn là một thứ đồ dùng riêng của mình và không cho ai dùng chung cả. Chúng nó nhìn nhau rồi cười rộ như thể tôi vừa nói điều gì kỳ lạ lắm. Tôi đã thấy những giọt mồ hôi chảy dài trên mặt chúng rớt xuống miệng ca và đứa khác đặt môi vào đúng nơi giọt mồ hôi vừa rơi xuống. Tôi để ý có nhiều đứa để miệng vào nơi gần cái quai ca hơn hết và luận rằng những em ấy không thích uống chung một chén với người khác.
Ngày thứ ba, chúng tôi tới trường với những ca, những chén thiếc hay ly riêng. Những người quên đem theo rất ít. Mặc dầu chương trình trong ngày rất nặng, tôi cũng bớt thì giờ bày cho bọn này tự làm lấy cái chén giấy với một trang vở sạch gấp lại. Tôi cho luôn một bài học về nước uống và khuyên chúng đừng bao giờ uống nước sông. Tôi kể cho chúng nghe chính tôi đã hai lần mắc bệnh thương hàn chỉ vì khát và uống nước một giòng suối, lần sau uống nước một giòng sông. Tôi bày cho chúng cách múc nước trong thùng với cái ca rồi mới trút vào chén riêng.
Cũng ngày hôm ấy, lúc tôi đến bên Guy, bày cho hắn khi đọc phải cầm cuốn sách như thế nào, bọn học trò cười ồ lên, buộc tôi phải bắt chúng giữ im lặng. Khi tôi dạy hắn đọc, trong cuốn tập đọc sơ cấp, những chữ rất dễ hắn đọc cũng vấp váp. Bọn học trò cười vì Guy cao hơn tôi đến năm phân và khoẻ hơn nhiều. Cổ hắn to như cổ bò mộng, lớn ngang với đầu hắn và cằm hắn thì bạnh ra. Râu hắn rậm đến nỗi phải cạo hàng ngày. Bàn tay hắn rất lớn. Nguyên bàn tay phải của hắn đã che khuất cả cuốn sách hắn cầm nơi tay. Cánh tay hắn cũng rất rắn chắc. Những bắp thịt cuồn cuộn nổi lên dưới lớp vải sơ mi màu xanh bạc phếch nhưng sạch sẽ. Đứng kế bên, tôi đánh giá hắn. Tôi biết rằng nếu phải đánh lộn với hắn thì cuộc ẩu đả phải là kịch liệt. Nhưng tôi nghĩ rằng mình sẽ không làm gì để đưa đến sự việc ấy, trừ phi chính hắn bắt buộc tôi. Hắn khoẻ hơn tôi quá nhiều. Kẻ thắng phải là người tìm được cách giáng vào cằm người kia một quả đấm móc đúng chỗ và rất mạnh. Tôi nhìn về phía Ova Salyers đang ngồi kế bên bục gỗ, trên chiếc ghế dài dành riêng cho bọn học trò lên trả bài. Ngoài hai tên ấy, tôi không còn phải băn khoăn về kỷ luật với một trò nào khác. Chúng vui chơi hăng hái và tỏ ra ngoan ngoãn. Chúng có thể là những học trò giỏi nếu được học hành đầy đủ. Nhưng có đứa mười tuổi mới đến trường lần đầu, những đứa khác mười chín tuổi còn ở cấp một, nhiều trò khác mười bốn tuổi học cấp hai và một trò gái mười lăm tuổi ở cấp tám. Chúng ở mãi lớp này vì có bao giờ chúng theo đuổi học hành trọn một kỳ đâu. Chúng học đi học lại mãi ở một lớp nên có thể đọc thuộc lòng mấy bài đầu. Tôi hỏi Guy:
- Guy, em học cấp một bao lâu rồi?
- Ồ! Có lẽ tám năm.
Hắn vừa nói vừa cười.
- Vậy thì phải chấm dứt.
- Tại sao vậy?
- Tại vì kể từ ngày mai, em sẽ lên cấp cao hơn. Kế đó tôi bắt Ova đọc bài. Ova cũng vậy, hắn học cấp một tám năm rồi. Tôi cũng cho hắn lên lớp.
*Bên kia giòng suối Lonesome, ngay ở đầu cầu gỗ có một tiệm buôn nho nhỏ, chưa lớn bằng nửa cái kho than của trường tôi. Chủ tiệm là Nancy Cochran, một thiếu nữ mảnh mai, nước da sáng sủa, đôi mắt xanh lơ với mớ tóc huyền. Cô ta bán cho học trò trường tôi những thứ bút chì, giấy, cán viết, ngòi viết, bánh ngọt, bánh bích quy và kẹo. Trong giờ học, ngồi tại bàn giấy, tôi nhìn thấy cô ta qua cửa sổ mé trái. Cô ngồi dưới mái hiên hẹp trước tiệm, dạo đàn ghi-ta và hát những bài “Cánh chim hồng”, “Thung lũng giòng sông đỏ”. “Bên giòng suối của cái cối xay cổ kính” và “Luồn kim”.
Mỗi lần cô ta đàn và hát bài “Luồn kim” tôi gần như phải ngừng dạy. Mỗi lần như vậy là tôi phải yêu cầu học sinh không được dùng chân đánh nhịp nữa. Chúng vô tình làm như vậy, và không có bài nào khác gây nên phản ứng như thế.
Tôi rất mê âm nhạc, trong số đó có đàn ghi-ta, mê không kém gì bọn học trò của tôi. Nhưng đang lúc dạy học, giọng hát nho nhỏ của Nancy với những bài quen thuộc ấy khiến tôi không thể tập trung tư tưởng được. Và mỗi lần nhìn qua cửa sổ về phía cô ta, tôi vẫn thấy cô quay mặt về trường học, dường như cô chỉ đàn và hát cho mình tôi nghe. Ngoài bọn học trò tôi, ít khi có người khách nào bước chân vào tiệm cô ta. Tôi ngần ngại không muốn nói gì với cô ta hết, nhưng biết rằng rồi cũng phải nói nếu muốn tiếp tục dạy ở trường này. Suốt cả tuần đầu, từ thứ hai tới thứ sáu, cô ta chơi đàn trong giờ học. Hết giờ, trở về nhà ông Conway thì cô Flossie cũng hát những bài cổ xưa ấy. Cô ta cũng dùng một cây đàn ghi-ta căng dây thép để hoà âm cho tới giờ đi ngủ. Như thế, phải chăng có quá nhiều bài hát và quá nhiều đàn ghi-ta?
Chiều thứ sáu, dạy xong, tôi ghé vào tiệm của Nancy. Cô ta đang ngồi thoải mái trong chiếc ghế bành rộng, đàn ghi-ta để trên đùi. Thấy tôi bước vào, cô đứng dậy, đặt cây đàn lên cái quầy nhỏ đựng bánh kẹo và lễ phép hỏi tôi cần mua gì? Cô ta nói năng rất dịu dàng và gương mặt thật ưa nhìn. Bấy giờ tôi thấy ân hận vì đã nhiều lần ném về phía cô những tia mắt giận dữ từ cửa sổ nhà trường. Tôi tự hỏi không biết cô này có trông thấy không và tôi mong rằng không.
- Thưa cô, tôi muốn mua một bình mực.
Tôi mua mực, mua giấy, viết chì và quyết định giao công việc kia cho ban quản trị nhà trường. Tôi nghĩ rằng không phải việc tôi tới nói với một thiếu nữ là cô ta phá rầy tôi trong lúc dạy học. Tôi sẽ nhờ già John để ông nói xa xa cho cô ta hiểu mà không chạm tự ái, vì tôi biết rằng cô ta có mỹ cảm đối với tôi. Nancy cũng trạc mười tám tuổi như Flossie Conway. Già John sẽ lo liệu việc này và mọi việc sẽ êm xuôi.
*Thứ hai tuần kế đó, tôi ở lại trường để chấm bài cho học trò. Don Conway đã trở về nhà với ba đứa em trai và gái. Đây là lần đầu tiên tôi ở lại trường, sau khi học trò đã ra về hết. Phòng học hoàn toàn im lặng. Tôi đang chăm chú làm việc bỗng nghe có tiếng chân dón dén đi quanh phía ngoài. Nhìn qua cửa sổ bên trái, tôi thấy cái đầu của Hawkins. Ngọn gió núi thổi bay tung mớ tóc bờm xờm của nó.
Tôi tự hỏi nó trở lại làm gì hay nó bỏ quên vật gì chăng. Và tôi chợt hiểu, đây cũng là lần thứ nhất hắn có dịp bắt gặp tôi ở lại một mình. Tôi sực nhớ tới nhiều việc bất ngờ đã xảy ra tại các trường làng trong quận: một thằng học trò trở lại trường, sau khi mọi người đã ra về, và nện thầy giáo một trận tơi bời. Ba bốn việc như vậy lướt nhanh qua ký ức tôi. Nhưng tôi không còn thì giờ để nghĩ vẩn vơ nữa. Thằng Guy bước vào, tay cầm cái mũ lưỡi trai. Tôi không muốn hắn biết tôi theo dõi hắn, nhưng tôi vẫn thấy hắn tiến lại theo lối đi giữa lớp. Hắn bước những bước dài, hai vai rộng lớn của hắn day đi, day lại theo nhịp bước. Tôi chưa hề thấy người nào hay một con vật nào có cái vẻ đầy sát khí như hắn. Hắn lại bên bàn giấy, đứng dang chân trước mặt tôi, không nói một lời.
- Trò bỏ quên gì đấy hở Guy?
- Không – Tôi ấy à, chẳng bao giờ tôi bỏ quên cái gì cả.
- Thế trò muốn gì?
- Nện ông một trận.
- Tại sao trò lại muốn đánh tôi?
- Trước đây tôi đã ghét cay ghét đắng bà chị của ông. Ông đã biết tôi đã đối xử với bà như thế nào rồi chớ? - Có. Tao biết mày đã đối xử với chị tao như thế nào rồi. - Tôi sắp xử sự với ông như thế đó.
- Ồ! Hay nhỉ. Mày lại muốn đánh lộn với tao à?
Tôi bỏ cây viết xuống, thong thả đứng lên và nhìn thẳng vào mắt nó. Nó hằn học trả lời:
- Tôi cũng không ưa ông được. Tôi rất ghét bọn giáo viên. Tôi đã thề rằng, khi tôi còn có mặt nơi đây thì không có một người nào thuộc giòng họ nhà ông tới đây làm thầy được. - Rất tiếc là tao và giòng họ nhà tao không được mày ưa. Nói vậy, nhưng tôi đã thấy giận sôi gan.
- Có đánh ông một trận tôi mới yên lòng.
- Tại sao mày không đi học trường khác? Trường Lonesome Thượng có quá xa nhà mày đâu?
- Không và không! Nó hét lên. Nếu có người nào phải đi khỏi làng này, người ấy chính là ông. Tôi ở đây lâu đời hơn ông. Không phải mặt ông buộc tôi đi nơi khác được! - Vậy thì chỉ còn nước đánh lộn thôi. Tao đến đây để dạy học và tao có ý định không đi đâu cả.
- Ông dám tin như vậy hả? Tôi tóm được ông đây rồi. Ông ở lại trường cu ky một mình như tôi mong muốn. Bây giờ muốn tháo thân cũng không kịp nữa! Tôi sẽ đập ông nhừ tử tại đây như đã đập chị ông vậy!
Nhìn thẳng, tôi thấy mặt nó đỏ như gấc chín. Một tia sáng như nhảy múa trong cặp mắt xếch màu xanh lợt của nó. Tôi biết là Guy Hawkins không nói rỡn đâu và nhất định phải đối đầu với nó. Vô phương dàn xếp, vậy phải tìm ngay một chiến thuật có lợi cho mình. Tôi chợt nhớ có lần tôi suýt chết ngộp vì cái cà-vạt, trong một cuộc đánh lộn với người bạn học, liền bảo nó:
- Mày hãy để tao tháo cái cà vạt này ra đã.
- Phải đấy. Hãy tháo nó ra. Nó có thể bị hư hỏng trước khi tôi thanh toán xong với ông.
Tôi chậm rãi tháo bỏ cà vạt.
- Sắn luôn cả tay áo lên. Lát nữa nó không còn trắng như bây giờ đâu khi tôi cho ông gậm đất!
- Gậm đất à?
Tôi nói chưa dứt thì cánh tay hộ pháp của nó đã phóng tới. Tôi vội né, nắm tay nó lướt qua tai tôi. Tôi biết rằng nếu để nó đánh trúng thì tôi tiêu luôn. Hắn tấn công tiếp bằng cú đấm thẳng mãnh liệt. Tôi cũng tránh khỏi và phản công bằng một cú đấm tay mặt vào cằm nó. Một cú đấm không mạnh lắm, vừa đủ cho hắn giật mình và thêm hung hãn. Hắn nhào tới. Tôi bước hẳn qua một bên. Hắn lại đánh hụt. Khi hắn vừa quay lại, tôi cung tay giáng cho hắn một đấm nên thân vào giữa cằm, khiến hắn loạng choạng. Tôi bồi thêm một cú nữa. Trong đời tôi, chưa bao giờ tôi đánh ai mạnh tay như thế. Tuy vậy vẫn chưa đánh ngã được hắn. Hắn lại xông tới đánh tôi, nhưng lại hụt nữa. Hắn nói đúng. Áo sơ mi của tôi bây giờ đâu còn trắng như ban nãy. Tôi lao tới, ngã người, ghì chặt và quật ngay phía dưới đầu gối hắn, y như kiểu tôi chơi túc cầu trước đây. Ở trường, tôi đã nổi tiếng về lối chơi này. Nhưng tôi chưa hề tận dụng sức lực với ai như vậy. Guy mất thăng bằng và tôi lăn mình trên sàn gỗ thông để tránh xa hắn. Hắn cứ yên trí tôi sẽ dùng hai quả đấm thôi sơn để trả đòn. Bất ngờ tôi tấn công vào hạ bàn của hắn quá nhanh, nên khi té xuống hắn không kịp giơ tay chống đỡ. Hắn té vập mặt xuống sàn nhà và dập lỗ mũi. Khi hắn gượng dậy, máu chảy ròng ròng.
Tôi cho hắn đủ thời giờ để đứng lên và nghĩ thầm làm như vậy có phải là dại không, vì giữa hai người phải có người bại kia mà. Sau khi hắn đứng vững, tôi lại nhào tới, tấn công hắn bằng những cú đấm nhanh và gọn. Hắn quật lại tôi một cái hết sức ác liệt, móng tay hắn quào một vệt dài trên cổ tôi và móc đi một miếng thịt, máu rỉ ra thành giọt. Tôi đấm vào cằm, vào hai bên má lởm chởm những râu của hắn. Hắn núng thế, lùi lại. Nhưng tôi đâu có chịu buông tha. Tôi tống cho hắn một quả đấm thẳng vào mạng mỡ và bồi thêm một cú đấm móc ngay vào giữa miệng. Máu lại trào ra. Hắn vẫn chưa chịu thua, nhưng tôi biết mình đã thắng. Mệt gần đứt hơi, tôi hỏi:
- Thế nào? Như vậy đủ chưa mày?
Hắn không trả lời. Chẳng cần lập lại câu hỏi ấy lần thứ hai, tôi bồi cho hắn một cú mà tôi tưởng có thể hạ nổi hai người một lúc. Dồn nó vào một cái ghế dài, tôi dùng hết sức bình sinh, tống cho nó một cú đấm móc vào dưới cằm. Hắn bật ngửa trên bàn rồi lăn kềnh ra dưới sàn nhà, nằm im như khúc gỗ, hai mắt trợn trừng, máu trào ra từ mũi, từ miệng. Riêng tôi, gần như không thở được nữa, hai bàn tay đau nhức, tim đập liên hồi như muốn vỡ tung… Như vậy mà là nghề nghiệp giáo viên ư?
Phải chăng đó cũng là một khía cạnh bắt buộc của nghề gõ đầu trẻ? Và như trong đám mây mù, tôi nhớ mang máng là tôi đã tự nguyện theo đuổi nghề này và tôi đã làm đủ mọi cách để được về dạy ở đây.
Guy Hawkins nằm thẳng cẳng trên sàn nhà đầy bụi bậm. Máu nó hoà với thứ đất vàng vàng mà bảy mươi cái chân không đã đem vào lớp. Tôi đi xách thùng nước tới, lấy cái mùi xoa sạch chùi máu ở mũi và miệng nó và lấy nước đổ lên trán nó.
Tên học trò mà tôi đang săn sóc và tìm cách làm cho hồi tỉnh chính là một nam sinh chập chiều tôi vừa dạy cho biết đọc cho đúng cách. Tôi đã dùng một ngôn ngữ mà nó có thể hiểu được “Đừng có vấp váp với chữ nghĩa như con ngựa xẩy chân trên băng giá chứ?”. Tôi đã cho nó lên cấp, đã cho nó đi lấy nước với Ova trong khi nhiều đứa khác cũng xin làm việc ấy. Tôi thừa hiểu là đi như thế chúng mới có dịp nhai thuốc và chúng tưởng rằng tôi chẳng biết gì. Tôi biết từ lâu là phải cấm đoán việc dùng thuốc lá trong lớp học, nhưng tôi đã nhắm mắt làm ngơ, lâu chừng nào hay chừng đó. Bây giờ tôi đã thanh toán xong với hắn. Thấy hắn nằm dài dưới sàn, tôi tự hỏi mình làm cách nào mà hạ được hắn. Đúng là hắn đã bị đánh bất tỉnh. Những dấu vết của cuộc tranh hùng này sẽ còn lưu lại mãi mãi. Làm cho mất dấu máu đọng trên ván thông chẳng phải là chuyện dễ. Kỷ niệm này sẽ còn sống hoài cho tới ngày tôi rời khỏi trường Lonesome.
Khi tỉnh lại, Guy nhìn tôi. Tôi đang lau trán nó với một chiếc mùi xoa nhúng nước lạnh. Hắn cố gắng ngồi dậy và tôi giúp hắn đứng lên.
- Ông Stuart, ông đã cho tôi một trận đòn nên thân. Ông là một võ sĩ khá kỳ khôi.
Lần đầu tiên hắn gọi tôi là “Ông Stuart”, nhưng tôi lờ đi như không nghe thấy. Tôi biết rằng, trước đây, sau lưng tôi, bao giờ hắn cũng dùng ba tiếng “thằng cha Jess” để nói về tôi. Và những khi nói thẳng với tôi, hắn không hề dùng ngôn từ lễ phép nào.
- Mày biết không, tao đâu có ưa đánh lộn, trừ trường hợp bị bắt buộc. Mày thì muốn đánh tao. Tao không có lối rút lui, đành phải lo tự vệ chứ sao.
- Tôi biết rồi. Tôi đã có ý định đánh ông một trận từ ngày có tin ông sẽ về dạy chúng tôi. Nhưng ông đã thắng. Tôi phải thẳng thắn thừa nhận điều ấy. Chẳng bao giờ tôi nghĩ rằng ông có thể đấm mạnh đến thế.
Guy còn yếu lắm. Mũi và miệng hắn vẫn còn rỉ máu. Tôi cho hắn mượn một khăn tay mới, vì hắn không có.
- Guy tính xem có thể đi về nhà một mình được chăng?
- Tôi tin rằng có thể đi được.
Hắn đi ra khỏi lớp với dáng đi kém hùng dũng như lúc đi vào. Tôi cũng mất bình tĩnh, không thể tiếp tục được nữa. Tôi ra cửa sổ nhìn hắn đi qua sân trường, vượt qua cây cầu gỗ nhỏ, đi ra con đường men theo bờ suối rồi đi khuất sau khúc quẹo. Tôi thoáng nghi ngờ:" Có thể tới lượt Ova trở lại tấn công". Tôi đợi thêm mấy phút, nhưng chẳng thấy gì. Guy đã hành động riêng rẽ một mình nó.
*Tôi nghĩ rằng, có lẽ Guy sẽ không tới trường nữa và việc học của nó đành dở dang như vậy. Nhưng lúc ra về, hắn còn để lại sách vở trong lớp. Không biết hắn có trở lại để lấy về không. Trường hợp ấy, chẳng biết hắn có đi tới trường với cha hay một người anh đã thành lập gia đình hay không? Rồi hắn có gây ra một cuộc ẩu đả mới nữa không? Dường như ông John Conway cũng có những ý nghĩ như tôi và điều này còn làm ông bực bội hơn cái vụ tôi than phiền về vấn đề đàn hát của cô Nancy. Sáng hôm sau, ông đích thân theo tôi tới trường.
Lần này là lần thứ nhất ông tới trường, ông bận rộn suốt ngày vì công việc trong trang trại kể từ ngày tất cả các con ông, ngoại trừ Flossie, đều đi học. Chúng tôi vừa tới nơi đã thấy thằng Guy to xác đang chạy chơi với chúng bạn, mặc dầu mặt mày thâm tím và hai môi sưng vù. Tất cả chúng nó đã quây thành vòng tròn và đồng ca bài “luồn kim”. Riêng Guy vui vẻ thưởng tôi một câu “Xin chào ông Stuart”. Già John mỉm cười rồi quay về. Tôi nhìn theo thấy ông qua cầu và đi vào tiệm tạp hoá. Tôi liền nhập bọn với đám học trò và tham dự trò chơi “luồn kim” với chúng. Tôi và Guy là hai thủ lãnh của hai toán. Tôi là phe “trứng luộc chín”, Guy là phe “trứng la coóc”. Khi chúng tôi hỏi bọn học sinh đã đứng thành hàng muốn là loại trứng gì, đa số trả lời: “trứng la coóc”. Vì vậy thằng Guy có tới ba phần tư nhân số về phe nó. Đến khi chúng tôi đứng nối đuôi và khởi sự kéo phe bên kia về phía mình, thì nhóm thằng Guy làm chúng tôi mất thăng bằng và lôi phe tôi tới tận cuối sân bên kia. Tất cả đều reo cười vang lừng và Guy còn cười to hơn ai hết. Không có người nào, kể cả Guy, đả động xa gần đến cuộc xung đột vừa qua. Nếu chúng nó nói lén với nhau, cũng chẳng bao giờ tôi biết được. Tôi thấy chúng nó nhìn dấu máu trên sàn nhà. Tôi chẳng còn nghe phong thanh rằng Guy nói xấu tôi với bạn bè nó nữa. Đây là lần đầu tiên hắn trở thành một học sinh như những học sinh khác và bây giờ cũng là lần đầu hắn thực sự hoà mình với sinh hoạt học đường.
*Cùng ngày hôm ấy lại xảy ra một chuyện khác. Vào giờ ăn trưa một người đàn ông béo tròn, mặt đỏ gay, khoảng năm mươi tuổi đi qua Lonesome với cái xe bò lớn đựng đầy than, do hai con la kéo. Ông ta dừng xe dưới bóng cây bạch phong, xuống xe rồi đi lại phía tôi. Từ khi tôi tới Lonesome, ngày nào tôi cũng thấy ông đánh xe than đi xuống miền xuôi. Hôm nay mới thấy ông dừng xe lại.
- Chắc ông đây là ông Stuart? Tôi là Burt Eastham.
- Thưa vâng, chính tôi. Hân hạnh được biết ông. Vừa nói, tôi vừa đưa tay bắt lấy bàn tay đen ngòm những bụi than.
- Chẳng hay ở đây ông có nước uống không? Tôi hơi khát. - Có chứ, chúng tôi có nước để trong lớp học, nhưng e rằng không được mát lắm.
- Không hại gì. Dù là nước hâm hẩm nó vẫn làm dịu cuống họng.
- Vậy, mời ông theo tôi.
Ông theo tôi vào lớp. Nhìn thùng nước thấy nó còn non nửa, ông cầm lấy cái ca và sắp đưa lên uống.
- Đừng uống vào ca ấy!
Tôi nói vội quá, ông hơi hoảng vội vàng vứt xuống.
- Tại sao thế? Nó bị tẩm độc à?
Ông kinh ngạc hỏi lại.
- Không phải vậy, nhưng ở đây không ai uống nước bằng ca này hết.
Ông nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên.
- Thế thì cái ca này dùng vào việc gì?
- Dùng để múc nước trong thùng để rót vào chén riêng của chúng tôi. Ông đợi tôi một lát, tôi làm ngay cho ông một cái để uống.
Tôi xé một trang vở, làm cho ông một chén giấy và chỉ cách sử dụng cho ông.
- À, tôi hiểu rồi. Như thế này, không có ai phải uống nước miếng người khác phải không?
Ông vừa cười vừa nói, sau khi uống hết chén nước.
- Sự thực, tôi không khát lắm, tôi chỉ muốn nhìn rõ cái người đã sửa trị được Guy Hawkins!
Ông nhìn tôi ra vẻ thán phục lắm. Rồi nói tiếp:
- Một buổi tối trước đây, tên vô loại ấy đã đến nhà thờ Lonesome Thượng và chẳng có nguyên cớ gì, hắn đã gây sự với con trai tôi và đánh thằng bé rất đau. Thì ra hắn ngứa tay, tìm cớ đánh lộn. Nó khởi sự bằng thằng bé nhà tôi, kế đó nó đánh luôn hai thằng con ông Lee Brown và Booten Tolliver. Tôi mong muốn được thấy tận mắt con người đã đánh bại hắn nhục nhã như vậy.
Quan sát tôi từ đầu đến chân, ông nói tiếp:
- Thực ra ông không to lớn khoẻ mạnh như tôi tưởng. Trước đây tôi cứ nghĩ rằng phải là người khổng lồ mới thanh toán nổi thằng quỉ ấy.
Ra tới cửa trường, ông dừng lại ít phút nhìn thằng Guy đang nô đùa với chúng bạn. Trong khi đó tôi ngắm nghía chiếc xe than và hỏi ông:
- Ông có bao nhiêu đấu than trong chiếc xe này?
- Hai mươi lăm đấu.
- Ông có cân than của ông không?
- Chắc chắn là không.
- Vậy thì làm sao biết được ông có bao nhiêu than? Thấy chúng tôi nói chuyện, Don Conway mon men lại gần.
- Vậy, theo ông, ông ước đoán tôi có bao nhiêu?
- Số than của ông, phải nhiều hơn hai mươi lăm đấu.
- Ông có cách để biết được điều ấy à?
- Ông có biết chiều ngang, chiều dài và bề sâu của chiếc xe này không?
- Làm sao mà biết được.
- Don, chạy nhanh vào lấy cái mét ở trên bàn của tôi ra đây. Don chạy ra với cái mét và đo ba chiều trong khi tôi ghi các con số. Mấy phép tính của tôi có vẻ làm cậu ta say mê vô cùng.
- Theo các con số này, ông có trên ba mươi chín đấu trong xe. Vì đống than có ngọn nên, nếu ông có tới bốn mươi đấu, tôi cũng không cho là lạ.
- Thế nào? Vậy mà từ bảy năm nay tôi vẫn bán xe than này theo giá hai mươi lăm đấu. Nhưng làm sao chứng minh được?
- Thì ông cứ cân than ngay ở Lonesome. Dưới làng họ có cân bàn đó.
Với vẻ nóng nảy, ông leo lên xe và giục hai con la cất vó. Buổi chiều hôm ấy, lúc gần mãn giờ học, tôi nghe có tiếng gõ lên tường bên cạnh cái cửa lớn mở rộng. Tôi ra xem. Thì ra ông Burt, mặt tươi roi rói. Mặt ông than bám đen đến nỗi hàm răng ông, thật ra có trắng đâu, cũng sáng ngời lên như hoa sơn-thù-du giữa tiết xuân. Ông cười nhe cả hai hàm răng và thay lời chào, ông nói:
- Cám ơn ông ngàn lần. Tôi không biết bằng cách nào và tới bao giờ mới trả lễ ông về vụ này. Tôi có vừa đúng bốn mươi đấu than trong xe. Ông nhìn đây nè!
Ông cười lớn và chìa về phía tôi một tờ ghi số than cân được.
Tôi gọi Don lại cho nó xem. Ông Burt tiếp:
- Có cái gì nó xui khiến tôi ngừng xe lại vào thăm ông sáng nay và bây giờ tôi rất bằng lòng đã làm việc ấy, bảo rằng suốt bảy năm nay tôi cứ để cho họ phỉnh gạt mình! - Thì ông cứ tự an ủi là mình đã tỏ ra rộng rãi. Ít ra ông cũng không có gì phải ân hận vì ông có lừa dối ai đâu. - Nhưng từ giờ họ không còn gạt gẫm tôi được nữa. À, nếu mà tôi còn có thể cắp sách đến trường! Đến cả tên tôi, tôi cũng không biết viết nữa…
- Ông có thể đến lắm chứ, ông biết mà.
Vẻ mặt thoáng buồn, ông tiếp:
- Bây giờ thì tôi quá già rồi. Không còn học được nữa khi người ta đã tới tuổi năm mươi, có vợ và bầy con chín đứa. Đối với thằng Don, những lời mộc mạc ấy còn thống thiết hơn bất cứ điều gì tôi đã nói với nó, hoặc bất cứ điều nào thốt ra cửa miệng của bất cứ thầy giáo nào. Bây giờ nó hiểu rõ giá trị của một căn bản học vấn sơ đẳng nhưng đầy đủ. Bỗng dưng, ông Burt nói như reo:
- À, tôi nghĩ ra rồi. Ông Stuart ơi, ông đã có vợ chưa? Tôi tưởng rằng ông đã khá lớn tuổi mới đi dạy học, nếu không ông đã chẳng có mặt nơi đây. Và, một khi người ta đã trộng tuổi để làm thầy giáo thì người ta cũng đủ già để lấy vợ. Tôi thấy ông ta ngộ nghĩnh nên trả lời:
- Không, tôi chưa có vợ và hiện giờ cũng không có dự định gì.
- Vậy thì tôi có đám này cho ông.
Ông hớn hở ra mặt.
- Đến lượt tôi muốn giúp ông một việc. May Woods, cô giáo trường Lonesome Thượng thật đẹp và xinh như một con chó con. Người con gái ấy mới xứng với ông. Cô ta có mớ tóc dài đen mượt, cặp mắt màu hạt dẻ rất lớn với hàng mi dài và rậm. Nếu tôi còn trẻ và chưa vợ, chắc tôi đã lân la tán tỉnh cô ta rồi.
Nghe tới đây, bọn học trò cười ầm lên và tôi phải gõ lên tường để tái lập trật tự. Guy và Ova hai đứa cười lăn lộn. Chúng thì thào với nhau cái gì đó, rồi lại phá lên cười. Từ lúc ông John Conway tới thăm cô Nancy thì không còn tiếng đàn giọng hát khiến chúng lo ra nữa. Vì vậy, tuy ông Burt đã ráng nói nhỏ với tôi, chúng vẫn nghe được đầu đuôi câu chuyện. Trước lúc ra về, ông còn cam đoan với tôi là sẽ tìm gặp cô May Woods trong một buổi hẹn trước. Ông nói: - Ông biết không, ngay tối qua, tôi đến tìm cô ta tại nhà ông Oscar Pennix, nơi cô ở trọ. Tôi nói với cô về ông. Tôi kể lại bằng cách nào ông đã tái lập trật tự tại trường này, một ngôi trường mà trước đây không một giáo viên nào có thể ở lâu được. Kể lại việc ông đã giúp tôi và ông biết tìm ra số đấu chính xác của xe than. Cô ra vẻ thích thú lắm, nên tôi đi thẳng vào vấn đề. Tôi không giấu giếm, nói thẳng rằng cô cần có tấm chồng như ông và ông cũng cần một người vợ như cô. Tôi nói rằng không quen làm mai mối, nhưng nếu hai người kết thành phu phụ thì đây là cặp vợ chồng đẹp đôi nhất từ xưa tới nay tại vùng này. Chúng tôi sẽ vui mừng được thấy hai người chung sống với chúng tôi tại đây. Kế đó tôi bảo là tối mai, khoảng tám giờ, ông sẽ tới thăm cô tại nhà Oscar Pennix. Từ đây tới đó chưa đầy năm cây số và ông tìm nhà dễ lắm. Đó là ngôi nhà đầu tiên, mé tay mặt sau khi đi khỏi ngôi trường.
- Được rồi. Tôi xin y hẹn.
Thế là tôi chỉ còn có nước cúi đầu chấp nhận. Tôi có uỷ nhiệm cho ông làm gì cho tôi đâu và đây là lần đầu tôi đi tới chỗ hẹn hò có sắp đặt. Vả lại cho đến nay, suốt đời tôi, tôi có hẹn hò bất cứ về vấn đề gì với ai đâu. Bây giờ tôi chỉ còn cách đóng cho đúng vai trò được chỉ định. Tôi chẳng hay biết gì về cô Woods. Nhưng nghĩ rằng nếu cô là nữ giáo viên mà lại đẹp nữa, như ông Burt đoan xác với tôi, thì cô phải là người lương hảo.
Khoảng bảy giờ tối hôm đó, tôi lên đường đi Lonesome Thượng. Tôi đợi cho sương chiều làm cho bụi bậm trở hết về mặt đất rồi mới ra đi. Tôi không muốn bụi bậm làm dơ bẩn bộ quần áo trắng và đôi giày trắng. Tôi muốn cô May Woods nhìn thấy tôi y như ông Burt đã mô tả hoặc còn hơn thế nữa. Tôi muốn cô có cảm tưởng tốt về tôi ngay buổi đầu. Đối với hai chúng tôi, quả thật là một canh bạc. Nhưng tôi lại nghĩ, đôi khi một mối tình chân thật hay một mối lương duyên đã bắt nguồn từ những cơ hội như thế này đây. Những ý nghĩ ấy liên tiếp thoáng qua tâm trí tôi trong khi tôi lẹ bước theo con đường núi ngoằn ngoèo, nhưng chú ý không làm cho cát bụi lầm lên.
Tôi đi qua nhà thờ “Khỏi bệnh do cầu nguyện”. Nhiều nhóm nhỏ đàn ông, đàn bà và trẻ nít đã tụ tập nơi đây. Đàn ông cầm những chiếc đèn lồng chưa châm lửa và đàn bà bế con. Chập nữa, khi trở về nhà trong đêm tối, họ cần có ánh đèn để soi sáng lối đi. Gần ngay đó, phía bên kia đường là thánh đường “Baptiste của ý chí tự do”, nơi ông John Conway hàng ngày lui tới. Tôi gặp những tín đồ của môn phái này kéo nhau tới dự lễ. Đàn ông cũng xách đèn, đàn bà cũng bồng con. Được biết dân vùng này chia thành hai phe kình địch, thường biến thành căm thù vì tín ngưỡng khác biệt nhau. Đường đi băng qua suối nhỏ. Khi tôi nhảy qua suối cho khỏi ướt giầy, tôi có cảm tưởng như vọt qua một giòng vàng nấu chảy thành nước; ánh trăng rọi xuống tô điểm cho nó thật huy hoàng. Trời đêm nay sao đẹp thế! Thật là một cuộc du ngoạn tuyệt vời và cũng là cuộc du ngoạn diễm tình. Cái tên May Woods đã khiến tôi mơ tưởng viển vông. Cô ta ra sao? Có thật xinh đẹp như ông Burt miêu tả chăng? Với đêm trăng đẹp đẽ dường này, với tâm trạng này, tôi dám trồng cây si vì cô ta lắm. Dẫu sao chúng tôi cũng có thể nối liền những điều hữu ích với niềm thú vị trong cuộc gặp gỡ ban đầu. Chúng tôi có thể tổ chức những cuộc thi liên trường về chính tả, toán pháp, những cuộc đấu bóng. Và cả một cuộc du ngoạn học đường vào một ngày thứ sáu nào đó, rồi nhìn học trò chúng tôi chơi trò “luồn kim”. Hai chúng tôi đều hân hoan như người cha và người mẹ sung sướng nhìn bầy con đông đúc vui đùa. Đó là những ý nghĩ của tôi trước khi rời khỏi vùng trăng sáng để theo con đường đi vào khoảng tối tăm.
Giòng suối và con đường song hành bắt đầu chia ly từ chốn này. Giòng suối đi vào khu rừng âm u phảng phất mùi cỏ và hoa thơm ngát. Con đường thì bị cây rừng bóp nghẹt cả hai bên. Tôi cẩn thận dè bước tìm đường trong bóng tối đầy lo ngại. Hết nhìn bên phải lại nhìn bên trái với hy vọng được thấy một khoảng trống có ánh trăng vàng rọi xuống đồng lúa mì, lúa mạch sắp chín hay những tàu lá xanh lớn và dày dặn của những cây thuốc lá. Tôi yên trí là chỉ còn mấy bước nữa tôi sẽ đạt tới đích, bất ngờ có nhiều thứ từ dưới vòm lá ném về phía tôi như mưa bấc. Một quả đạn ấy trúng ngay cằm tôi và chất nước bắn tung lên miệng tôi. Với mùi vị ấy, tôi biết ngay đó là cà chua thối.
Tôi đứng khựng giữa đường, chưa kịp suy nghĩ. Bộ y phục trắng của tôi là một cái đích quá dễ dàng có khác gì một con gà trắng đậu trên cành trụi lá về mùa đông dưới mắt cú mèo. Tôi không thấy bọn ném tôi chúng có bao nhiêu đứa? Tôi chỉ có thể ước định được qua số cà chua, trứng thối, táo và bầu bí ném vào người tôi như mưa. Một quả trứng thối dính đầy tóc tôi, một quả khác còn tốt rơi đúng chỗ quả cà chua lúc nãy. Một quả bầu hay bí ngô đập trúng đầu gối tôi và vỡ tan từng mảnh. Tôi lấy tay che mặt và cắm đầu chạy hy vọng vượt qua những làn đạn bắn chận đầu ấy, nhưng không được. Những tiếng cười, tiếng hét vang dậy khắp nơi dưới bóng cây, xung quanh tôi. Bọn chúng lối mấy chục người, gồm đàn ông và thanh niên gây náo loạn cả khu rừng.
Tôi vội chạy trở lại. Người tôi từ đầu tới chân dính đầy những chất dơ bẩn bầy nhầy rất thối tha. Hai chân tôi lúc ấy chạy bay chạy biến trong bụi bẩn như ngựa phi nước đại. Những trái cây, trứng thối vẫn bay tới vù vù và bọn kia, rời khỏi nơi ẩn núp, hè nhau đuổi theo, hét to những khẩu hiệu chiến tranh. Nhiều tiếng súng nổ đạn trổ qua tàn lá khá cao trên đầu tôi. Tôi nghe rõ tiếng đạn xé lá, đập mạnh vào cành cây, thân cây hay xé gió vèo vèo.
Chạy ra vùng ánh sáng, tôi thấy con suối vàng rực tôi vọt qua ban nãy giờ đây xám xịt như chì. Tôi phóng qua giòng nước như chim bay. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh như vậy, khi cả lũ ấy đuổi theo bén gót. Cà chua và trứng vẫn thi nhau bay tới, đó là những thứ có thể ném đi xa mà vẫn còn hiệu lực. Tôi không dám ngoái cổ lại và ráng sức bứt xa cái bầy quỉ vừa chạy đuổi vừa sủa vang rân.
Giữa lúc tôi chạy tới thánh đường Baptiste, thì một quả trứng thối, do một cánh tay khoẻ mạnh, bay tới đỉnh đầu tôi và vỡ tan. Thoáng có ý định vào lánh nạn trong ngôi thánh đường này, nhưng rồi không biết cái gì nó ngăn tôi lại. Tuy đã quá mệt, tôi vẫn thu hết nghị lực, tiếp tục chạy thục mạng. Tôi nghĩ rằng nếu bọn kia vẫn còn đuổi rát, tôi sẽ vào trốn trong nhà thờ thứ hai. Nhưng rồi chúng đã ngừng bước. Những tiếng la hét, cười cợt của chúng vẫn được làn gió núi nhẹ nhàng đưa đến tai tôi.
Tới trước nhà thờ “Lành bệnh do cầu nguyện”, tôi đi hết nổi. Quần áo tôi ướt đẫm một thứ nước lầy nhầy gồm cà chua, trứng thối và bầu bí trộn lẫn với mồ hôi. Bộ quần áo trắng của tôi không ra màu gì nữa và dính sát vào người như chiếc áo thun dài đườn đượt. Vì trời nóng nực nên cửa chính nhà thờ mở rộng, bên trong đầy ứ tín đồ. Họ dùng đủ mọi thứ có sẵn dưới tay để phe phẩy quạt, từ miếng bìa sách cho tới cành lá liễu. Tôi thoáng thấy Nancy Cochran đứng ở hàng đầu. Cô ta đang đàn và hát một bài ca: “Tôi có một thông hành để lên trời”. Những tiếng A men râm ran nổi lên từ khắp các nơi trong đám tín đồ.
Tôi không dám nấn ná lâu hơn và đi ngược lại những đoạn đường đã qua khi nãy, nhưng bây giờ đâu còn gì gợi cảm nữa. Về gần nhà ông Conway, tôi biết rằng không thể vào nhà với người ngợm như thế. Từ nay chẳng bao giờ mặc quần áo trắng vào ban đêm ở Lonesome nữa. Tôi lấy miếng xà bông dựng trong cái thùng để dưới hiên sau nhà, rồi tìm một nơi bên bờ suối có những cây liễu che khuất. Tôi trút bỏ hết quần áo và giày ra. Quần áo lót mình và đôi vớ của tôi cũng ướt mèm trứng thối. Tôi lấy xà bông kỳ cọ từ đầu đến chân, giặt rũ quần áo và phơi lên mấy bụi cây kế đó để phơi nắng ngày mai luôn. Xong xuôi, tôi lật đật vô nhà trước khi gia đình Conway trở về. …