Chương 9 Những Con Cá Chình Điện Nói Gì Về Sự Tiến Hóa Của Tôn Giáo.
Câu hỏi về tôn giáo
- Định nghĩa về tôn giáo
- Chức năng và cá chình điện.
- Việc tìm kiếm lời giải thích cho nguyên nhân.
- Niềm tin siêu nhiên.
- Chức năng giải thích của tôn giáo.
- Xoa dịu lo lắng.
- Đem lại sự thoải mái.
- Tổ chức và sự tuân thủ.
- Quy chuẩn hành vi đối với người lạ.
- Biện minh cho chiến tranh.
- Phù hiệu cam kết.
- Các biện pháp đo lường sự thành công của tôn giáo
- Thay đổi trong chức năng của tôn giáo
Câu hỏi về tôn giáo
"Ban đầu, mọi người đều sống xung quanh một cây gỗ lim lớn trong rừng, nói cùng một thứ tiếng. Một người đàn ông có cặp tinh hoàn bị sưng vù do nhiễm một con sâu ký sinh đã phải leo lên một nhánh cây để cặp tinh hoàn nặng nề của ông có thể nằm "thoải mái" trên mặt đất. Tò mò, động vật trong rừng đến ngửi cặp tinh hoàn của ông. Thợ săn từ đó nhận ra rằng động vật rất dễ săn bắn, từ đó tất cả mọi người đều có thật nhiều thức ăn và sống vui vẻ.
Rồi một ngày, một người đàn ông xấu giết chết chồng của một người phụ nữ xinh đẹp, để cướp người phụ nữ đó. Người thân của người chồng quá cố tấn công kẻ giết người, nhưng hắn lại được những người thân của mình bảo vệ, cho đến khi kẻ giết người và thân nhân của hắn leo lên cây gỗ lim để trốn. Những kẻ tấn công đu lên một sợi dây leo ở một bên của thân cây, kéo ngọn cây xuống mặt đất và bắt kẻ thù của họ.
Cuối cùng, sợi dây leo bị đứt, khiến thân cây bung ngược trở lại với một lực mạnh khủng khiếp. Kẻ giết người và người thân của hắn bị văng tứ phía khỏi thân cây. Họ rơi xuống ở rất xa, ở nhiều nơi khác nhau và không bao giờ tìm thấy nhau nữa. Thời gian trôi qua, ngôn ngữ của họ ngày càng trở nên khác nhau. Đó là lý do con người ngày nay nói nhiều thứ tiếng và không thể hiểu được nhau nữa và đó cũng là lý do những người thợ săn rất vất vả khi kiếm ăn bằng cách săn bắt động vật."
Câu chuyện này được lưu truyền trong một bộ lạc ở miền bắc New Guinea. Nó minh họa cho một chuỗi các huyền thoại truyền bá rộng rãi được gọi là huyền thoại khởi đầu, tương tự như những câu chuyện quen thuộc với chúng ta như Vườn Địa Đàng và Tháp Ba-ben trong Sách Kinh Sáng Thế. Mặc dù có những điểm tương đồng với Do Thái-Kitô giáo, nhưng xã hội New Guinea truyền thống và các xã hội quy mô nhỏ khác, đều không có nhà thờ, linh mục và sách kinh. Tại sao hệ thống tín ngưỡng của các bộ lạc này có những huyền thoại khởi đầu gần giống như các tôn giáo Do Thái-Kitô, nhưng lại quá khác biệt ở những khía cạnh khác?
Hầu hết các xã hội loài người đều đã có "tôn giáo", hay một hình thức tương tự. Điều này cho thấy rằng tôn giáo đáp ứng một số nhu cầu chung của con người, hoặc ít nhất cũng xuất phát từ một số điểm chung của bản chất con người trong chúng ta. Nếu vậy, nhu cầu đó là gì, hay những điểm chung của bản chất con người là gì? Và định nghĩa thực sự của "tôn giáo" là gì? Các học giả đã tranh luận vấn đề này và những câu hỏi có liên quan trong nhiều thế kỷ. Để hệ thống tín ngưỡng tạo thành một tôn giáo, nó có cần phải bao gồm niềm tin vào Thượng Đế hay các thánh thần hoặc một số các thế lực siêu nhiên hay không và nó có nhất thiết phải bao gồm điều gì khác không? Tôn giáo đã xuất hiện từ khi nào trong lịch sử tiến hóa của con người? Tổ tiên loài người tách ra từ tổ tiên vượn từ khoảng 6 triệu năm trước. Dù là tôn giáo nào đi nữa, chúng ta có thể đồng ý rằng loài vượn không hề có, nhưng liệu tôn giáo có tồn tại giữa các tổ tiên Cro-Magnon và họ hàng người Neanderthal của chúng ta từ 40.000 năm trước? Sự phát triển của các tôn giáo có trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau không, như việc Kitô giáo và Phật giáo đại diện cho một giai đoạn cận đại hơn hệ thống tín ngưỡng của các bộ lạc? Chúng ta thường có xu hướng liên kết tôn giáo với sự cao quý của nhân loại, mà không phải là mặt xấu của loài người: vậy tại sao tôn giáo lại có khi rao giảng về việc giết người và tự tử?
Những câu hỏi về tôn giáo này đặc biệt thú vị trong bối cảnh của cuốn sách này khi nó được dành để khám phá toàn bộ các mặt của xã hội loài người, từ quy mô nhỏ hoặc cổ xưa đến đông đúc hay hiện đại. Tôn giáo là một lĩnh vực mà các thể chế truyền thống vẫn còn phát triển mạnh trong xã hội hiện đại: các tôn giáo lớn của thế giới ngày nay phát sinh cách đây từ 1.400 đến hơn 3.000 năm trước, trong các xã hội nhỏ hơn và truyền thống hơn nhiều những xã hội vẫn đang ủng hộ các tôn giáo ấy cho đến ngày hôm nay. Nhưng dù sao tôn giáo vẫn thay đổi theo quy mô của xã hội và sự khác nhau này cần được giải thích. Ngoài ra, hầu hết các độc giả của cuốn sách này và trong đó có cả tôi, đều tự hỏi về những quan điểm tín ngưỡng cá nhân của bản thân (hoặc sự thiếu tín ngưỡng) nhiều lần trong cuộc sống. Mỗi khi như thế, sự hiểu biết về những điểm khác nhau về ý nghĩa của tôn giáo đối với những người khác nhau có thể giúp chúng ta tìm ra câu trả lời phù hợp nhất với mỗi cá nhân.
Đối với cá nhân và cả xã hội, tôn giáo thường đòi hỏi sự đầu tư rất lớn cả về thời gian lẫn nguồn lực. Ví dụ, tín đồ đạo Mormon phải đóng góp 10% thu nhập của họ cho nhà thờ. Người ta ước tính những người thổ dân da đỏ Hopi truyền thống trung bình cứ ba ngày sẽ dành một ngày để thực hiện các nghi lễ tôn giáo và 1/4 dân số của xã hội Tây Tạng truyền thống là các nhà sư. Nguồn lực của xã hội Thiên Chúa giáo thời Trung cổ ở châu âu dành cho việc xây dựng, điều hành các nhà thờ và thánh đường, hỗ trợ vô số các hệ thống tu viện và ni viện, thực hiện các cuộc thập tự chinh ắt hẳn phải vô cùng lớn. Mượn một cụm từ kinh tế, tôn giáo vì vậy dẫn đến các "chi phí cơ hội": các khoản đầu tư về thời gian và nguồn lực cho tôn giáo thay vì vậy đã có thể được dành cho các hoạt động sinh lợi nhuận rõ ràng hơn, như trồng trọt, xây đập hay nuôi những đội quân chinh phục lớn hơn. Nếu tôn giáo không mang lại một lợi ích thực sự lớn nào để bù đắp cho các chi phí cơ hội này thì bất kỳ xã hội vô thần nào có cơ hội nảy sinh cũng sẽ có khả năng vượt trội hơn các xã hội có tôn giáo và thống trị thế giới. Vậy tại sao thế giới vẫn không trở nên vô thần và những lợi ích rõ ràng mà tôn giáo mang lại là gì? Các "chức năng" của tôn giáo là gì?
Đối với một người sùng tín, việc đặt câu hỏi về chức năng của tôn giáo có vẻ như vô lý hoặc thậm chí gây khó chịu. Một tín hữu có thể trả lời rằng tôn giáo phổ quát trong xã hội loài người chỉ đơn giản vì Chúa có thật và việc tôn giáo có mặt khắp nơi không đòi hỏi việc xác lập chức năng và lợi ích của nó, cũng giống như sự hiện diện của một hòn đá. Nếu là một tín đồ như vậy, tôi muốn bạn thử tưởng tượng rằng, dù chỉ trong một khoảnh khắc, có một sinh vật tiên tiến đến từ thiên hà Andromeda, đã đi quanh vũ trụ với tốc độ vượt xa tốc độ ánh sáng (dù con người chúng ta xem việc này là bất khả), đến thăm hàng nghìn tỷ các vũ trụ gồm các ngôi sao và hành tinh, để nghiên cứu sự đa dạng của sự sống trong vũ trụ, với sự trao đổi chất được hỗ trợ bởi ánh sáng, hay các hình thức khác của bức xạ điện từ, hay nhiệt độ, gió, phản ứng hạt nhân và các phản ứng hóa học vô cơ hay hữu cơ. Rồi sinh vật Andromeda của chúng ta đến thăm Trái đất, nơi mà sự sống tiến hóa chỉ nhờ vào năng lượng ánh sáng và phản ứng hóa học vô cơ và hữu cơ. Trong một thời gian ngắn giữa năm 11.000 TCN và ngày 11/9/2051 SCN, Trái đất được thống trị bởi một loài sinh vật tự gọi là con người và mang theo một số quan niệm gây tò mò. Một trong số những quan niệm đó là: có một đấng toàn năng, được gọi là Thiên Chúa, quan tâm đặc biệt đến con người so với hàng triệu nghìn tỷ các loài khác trong vũ trụ. Đây cũng là đấng sáng tạo ra vũ trụ và có hình dạng như con người ngoại trừ việc toàn năng hơn. Dĩ nhiên, sinh vật Andromeda sẽ nhìn nhận những tín ngưỡng này là các ảo tưởng đáng được nghiên cứu hơn là một điều đáng tin, bởi Andromeda và nhiều sinh vật khác biết thật sự vũ trụ đã được tạo ra như thế nào. Thật lố bịch khi tưởng tượng rằng có bất kỳ đấng toàn năng nào sẽ đặc biệt quan tâm tới hay có hình dạng giống loài người, một giống loài kém thú vị và kém phát triển hơn so với hàng tỷ các dạng sự sống khác ở những nơi khác trong vũ trụ. Sinh vật Andromeda cũng quan sát thấy rằng có hàng ngàn các tôn giáo khác nhau của con người, hầu hết các tín đồ của mỗi tôn giáo sẽ cho rằng tôn giáo của mình là đúng và các tôn giáo khác là sai lầm và chính điều này khiến sinh vật Andromeda cho rằng tất cả đều là sai lầm.
Tín ngưỡng về thần thánh rất phổ biến trong xã hội loài người. Sinh vật Andromeda hiểu được các nguyên tắc xã hội học tổng quát giúp giải thích sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội loài người bất chấp sự đòi hỏi quá lớn về thời gian và nhân lực của tôn giáo đối với cá nhân và xã hội, thậm chí cả sự thúc đẩy do tôn giáo dẫn đến các hành vi gây đau đớn hoặc tự tử. Rõ ràng, sinh vật Andromeda lý luận rằng tôn giáo phải mang lại một số lợi ích đáng kể; nếu không, xã hội vô thần không bị ảnh hưởng bởi những gánh nặng về thời gian và nguồn lực lẫn xu hướng tự tử chắc hẳn sẽ thay thế xã hội tôn giáo. Do đó, nếu các bạn, những độc giả của tôi, cảm thấy bị xúc phạm khi bị hỏi về chức năng của tôn giáo của bạn, hãy sẵn lòng dành một chút thời gian để lùi lại và đặt câu hỏi về chức năng của các tôn giáo của bộ lạc New Guinea, hoặc để đặt mình vào vị trí của vị khách Andromeda nọ khi tìm hiểu về tôn giáo của con người nói chung.
Định nghĩa về tôn giáo
Hãy bắt đầu bằng cách định nghĩa tôn giáo, để ít nhất chúng ta có thể đồng ý về những hiện tượng sẽ được thảo luận. Những đặc tính nào xuất hiện ở mọi tôn giáo, từ Kitô giáo đến các tôn giáo đa thần cổ điển của Hy Lạp và La Mã và có cần thiết và đầy đủ để phân định một hiện tượng là một tôn giáo thay vì những hiện tượng có liên quan khác (chẳng hạn như ma thuật, lòng yêu nước hay một triết lý sống)?
Bảng 9.1. Một số định nghĩa được đưa ra về tôn giáo
1. "Sự công nhận của con người về một quyền lực kiểm soát siêu nhiên và đặc biệt là của Đấng tạo hóa được mỗi cá nhân tuân phục." (Từ điển Oxford rút gọn)
2. "Bất kỳ hệ thống cụ thể nào của niềm tin và sự thờ phụng, thường có liên quan đến quy tắc đạo đức và triết học." (Từ điển Webster’s New World)
3. "Một hệ thống liên kết trong xã hội dựa trên sự giống nhau về niềm tin hoặc thái độ đối với một sự vật, con người, vật thể không nhìn thấy được, hoặc một hệ thống tư tưởng được coi là siêu nhiên, thiêng liêng, thần thánh hay là chân lý tuyệt đối, những quy chuẩn đạo đức, các giá trị, các tổ chức, truyền thống và nghi lễ có liên quan tới niềm tin hoặc hệ thống tư tưởng đó." (Wikipedia)
4. "Tôn giáo, theo nghĩa rộng và khái quát nhất có thể gồm niềm tin vào một trật tự siêu nhiên và điều đẹp đẽ tối cao nằm trong việc điều chỉnh bản thân chúng ta một cách hài hòa theo đó." (William James)
5. "Những hệ thống xã hội mà người tham gia đặt niềm tin vào một đấng siêu nhiên hoặc trông chờ vào sự chấp thuận từ đó." (Daniel Dennett)
6. "Sự cứu rỗi hay giải thoát của một quyền lực siêu nhiên được cho là kiểm soát thiên nhiên và con người." (Sir James Frazer)
7. "Một tập hợp các hình thức và hành vi có tính biểu tượng liên kết con người với trạng thái tột cùng của sự tồn tại của họ." (Robert Bellah)
8. "Một hệ thống niềm tin và tập tục hướng về - mối quan tâm tột cùng‘ của một xã hội." (William Lessa và Evon Vogt)
9. "Niềm tin vào những đấng siêu nhiên và quyền lực của họ để hỗ trợ hoặc làm tổn hại con người, phổ biến trên toàn cầu, và niềm tin này - tôi xin nhấn mạnh - là biến số cốt lõi cần được nhắc đến trong bất kỳ định nghĩa nào về tôn giáo... Tôi xin định nghĩa - tôn giáo‘ là ‘một tổ chức hội bao gồm sự tương tác theo khuôn mẫu văn hóa với sự mặc nhiên công nhận của văn hóa về những đấng siêu nhiên’".(Melford Spiro)
10. "Yếu tố chung của tôn giáo giữa các nền văn hóa là niềm tin rằng điều tốt đẹp nhất được xác định bởi một trật tự vô hình kết hợp với một loạt các biểu tượng giúp cá nhân và tập thể thiết lập cuộc sống của họ hài hòa với trật tự này và một cam kết về mặt cảm xúc nhằm đạt được sự hài hòa đó." (William Irons)
11. "Tôn giáo là một hệ thống hợp nhất giữa niềm tin và tập tục có liên quan đến những điều thiêng liêng, cụ thể là những thứ được dành riêng, cấm kỵ và tập tục được hợp nhất thành một cộng đồng đạo giáo duy nhất được gọi là Giáo hội, gồm tất cả những người tuân thủ nó." (émile Durkheim)
12. "Một cách đơn giản, tôn giáo là (1) sự cam kết tốn kém và khó giả vờ của cộng đồng (2) vào một thế giới giả thuyết và khác thường về các đấng siêu nhiên (3), những người có quyền quyết định sự tồn tại của con người, chẳng hạn như cái chết và sự lừa dối." (Scott Atran)
13. "Một tôn giáo là: (1) một hệ thống các biểu tượng có tác dụng (2) thiết lập các cảm xúc và động lực mạnh mẽ, rộng rãi và kéo dài của con người bằng cách (3) xây dựng những khái niệm về một trật tự tổng quát của sự tồn tại và (4) khoác lên các quan niệm này hào quang của sự xác thực (5) làm cho những cảm xúc và động lực đó có vẻ đặc biệt thực tế." (Clifford Geertz)
14. "Tôn giáo là một tổ chức xã hội phát triển như một cơ chế không thể tách rời của nền văn hóa nhân loại để tạo ra và thúc đẩy huyền thoại, để khuyến khích lòng vị tha và lòng vị tha đối ứng, khơi dậy sự cam kết hợp tác và đáp lại giữa các thành viên của cộng đồng." (Michael Shermer)
15. "Chúng ta sẽ định nghĩa tôn giáo như một tập hợp các niềm tin, tập tục và các tổ chức của con người đã phát triển qua nhiều xã hội khác nhau, như chúng có thể hiểu được, là những phản ứng lại các khía cạnh của cuộc sống và tình huống được cho là không có tính thực nghiệm cụ thể để có thể thấu hiểu và/hoặc kiểm soát một cách hợp lý, đồng thời được gắn kèm những ý nghĩa bao gồm cả những căn cứ dẫn đến các hành động và sự kiện liên quan đến quan niệm của con người về sự tồn tại của một trật tự "siêu nhiên" được con người cảm nhận và tiếp thu, tác động trực tiếp đến sự xác nhận vị trí của con người trong vũ trụ và các giá trị đem lại ý nghĩa cho số phận của con người như một cá thể và cho các mối quan hệ của con người với những người xung quanh." (Talcott Parsons)
16. "Tôn giáo là tiếng thở dài của một sinh vật bị áp bức, là trái tim của một thế giới tàn nhẫn và là tâm hồn của nơi không có linh hồn. Nó là thuốc phiện của con người." (Karl Marx)
Bảng 9.1 liệt kê 16 định nghĩa khác nhau được đề xuất bởi các học giả về tôn giáo. Định nghĩa số 11 và 13, của émile Durkheim và Clifford Geertz, được trích dẫn thường xuyên nhất bởi các học giả khác. Rõ ràng, chúng ta thậm chí còn không thống nhất được về định nghĩa. Nhiều định nghĩa còn được viết bằng một phong cách phức tạp tương tự như ngôn ngữ của luật sư khi soạn thảo hợp đồng, điều đó cảnh báo rằng chúng ta đang đặt chân vào một cuộc tranh luận nảy lửa.
Nếu thoái lui, chúng ta có thể né tránh vấn đề về việc định nghĩa tôn giáo giống như chúng ta thường né tránh việc định nghĩa sự khiêu dâm, bằng cách nói, "Tôi không thể định nghĩa sự khiêu dâm, nhưng tôi sẽ biết khi tôi nhìn thấy nó?" Thật không may, sự né tránh này là vô ích, các học giả còn không đồng ý về việc công nhận một số phong trào phổ biến và được nhiều người biết đến là tôn giáo hay không. Ví dụ, cuộc tranh luận giữa các học giả tôn giáo về việc có coi Phật giáo, Nho giáo và Thần đạo là tôn giáo hay không đã kéo dài rất lâu; xu hướng hiện nay công nhận Phật giáo nhưng không công nhận Nho giáo, mặc dù Nho giáo vẫn được xem là một tôn giáo trong một hoặc hai thập kỷ trước; thay vào đó, Nho giáo ngày nay thường được xem là một lối sống hay một triết lý thế tục.
Những khó khăn trong việc định nghĩa tôn giáo là một bài học. Chúng cảnh báo chúng ta rằng những hiện tượng mà chúng ta gộp chung là tôn giáo bao hàm nhiều thành phần khác nhau, có thể mạnh, yếu khác nhau, hay hầu như vắng mặt trong các tôn giáo khác nhau, các xã hội khác nhau và các giai đoạn khác nhau của sự tiến hóa của tôn giáo. Tôn giáo, không tách biệt rõ khỏi các hiện tượng khác, cũng mang nhiều, nhưng không phải tất cả, các thuộc tính vốn gắn liền với nó. Đó là lý do tại sao lại xảy ra bất đồng về việc xác định liệu Phật giáo, một trong bốn tôn giáo lớn nhất thế giới, có thực sự là một tôn giáo không hay chỉ một triết lý về cuộc sống. Các thuộc tính căn bản của tôn giáo chia thành 5 nhóm: niềm tin vào đấng siêu nhiên, sự chia sẻ tập thể trong một phong trào xã hội, sự cam kết tốn kém và dễ nhận thấy, các quy tắc thực hiện hành vi (hay là "quy tắc đạo đức"), niềm tin rằng đấng siêu nhiên cùng các thế lực tối cao có thể được tác động (ví dụ, bằng cách cầu nguyện) để can thiệp vào cuộc sống trần tục. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy việc định nghĩa tôn giáo bằng cả 5 thuộc tính là không hợp lý, cũng như không thể xác định ‘không phải là tôn giáo’ vì thiếu một hoặc một vài thuộc tính này, vì như vậy, chúng ta sẽ loại trừ một số nhánh của các phong trào được công nhận rộng rãi là tôn giáo.
Thuộc tính đầu tiên trong 5 thuộc tính là nền tảng căn bản để định nghĩa tôn giáo mà tôi đã khẳng định với các sinh viên của mình khi còn giảng dạy về địa lý văn hóa ở Đại học California. Tôi nêu ra, "Tôn giáo là niềm tin vào một đấng siêu nhiên giả định hoặc người mà sự tồn tại của họ không thể chứng minh được bằng các giác quan của chúng ta, nhưng lại được viện dẫn để giải thích những điều mà chúng ta có thể xác nhận bằng các giác quan." Định nghĩa này có hai ưu điểm: niềm tin vào đấng siêu nhiên thực sự là một trong những đặc điểm phổ biến nhất của tôn giáo; và lời giải thích, như chúng ta sẽ thảo luận sau đây, là một trong những nguồn gốc sơ khai và chức năng ban đầu của các tôn giáo. Hầu hết các tôn giáo giả định sự tồn tại của các vị thần, linh hồn và các thế lực khác mà chúng ta gọi là "siêu nhiên" bởi họ hoặc cơ sở minh chứng cho họ không thể được cảm nhận trực tiếp trong thế giới tự nhiên (Trong suốt chương này, tôi sẽ sử dụng nhiều lần từ "siêu nhiên" với nghĩa trung lập, không có bất kỳ ý nghĩa miệt thị nào mà đôi khi được gắn với từ này). Nhiều tôn giáo đi xa hơn và giả định sự tồn tại của cả một thế giới siêu nhiên song song - thường gặp là thiên đường, địa ngục hoặc một thế giới bên kia mà chính chúng ta sẽ đi đến sau cái chết trong thế giới tự nhiên này. Một số tín đồ hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại của các thế lực siêu nhiên này và khẳng định họ đã nhìn thấy, nghe thấy, hoặc cảm thấy các linh hồn hay bóng ma.
Nhưng tôi sớm nhận ra rằng định nghĩa của tôi là không đầy đủ, vì những lý do đáng được rút kinh nghiệm. Niềm tin vào các đấng siêu nhiên sẽ xác định không chỉ tôn giáo mà còn cả những hiện tượng mà không ai có thể xem là tôn giáo, chẳng hạn như niềm tin vào tiên, ma, yêu tinh, người ngoài hành tinh và UFO. Tại sao niềm tin vào các vị thần được xem là tôn giáo, nhưng tin vào chuyện cổ tích thì không? (Gợi ý: những người tin vào cổ tích không gặp nhau vào một ngày cố định mỗi tuần để thực hiện các nghi lễ nhất định, không tự nhận mình là một cộng đồng các tín đồ tin vào cổ tích và tách biệt khỏi những người không tin, cũng như họ không sẵn sàng chết để bảo vệ niềm tin của mình vào cổ tích.) Ngược lại, một số phong trào mà mọi người xem là tôn giáo không đòi hỏi niềm tin vào các đấng siêu nhiên. Nhiều người Do Thái (bao gồm cả các giáo sĩ Do Thái), người Unitarian (người theo thuyết nhất thể), người Nhật và một số nhóm người theo thuyết bất khả tri hay là người vô thần nhưng vẫn tự coi mình và được người khác xem là thuộc về một tôn giáo. Đức Phật không liên kết mình với bất kỳ một vị thần nào và tuyên bố rằng ông "chỉ đơn thuần" giảng dạy về con đường giác ngộ mà ông đã tìm thấy.
Một thất bại lớn trong định nghĩa của tôi là đã bỏ qua thuộc tính thứ hai của tôn giáo: nó còn là một phong trào xã hội của những người tự nhận mình có chung một niềm tin sâu sắc. Một người tin vào Thượng đế và một danh sách dài các học thuyết chủ nghĩa khác mà anh ta tự sáng tạo ra, dù anh ta dành mỗi ngày Sa-bát ngồi trong phòng một mình, cầu nguyện và đọc một cuốn sách do anh ta tự viết nhưng không cho ai khác xem, thì vẫn không hội đủ điều kiện của một người thực hành tôn giáo. Một ví dụ trong thực tế gần giống với một người như vậy là các ẩn sĩ sống cô lập và cống hiến bản thân cho việc cầu nguyện. Nhưng các ẩn sĩ đó xuất phát từ một cộng đồng tín đồ đã đem đến niềm tin cho họ, những người có thể vẫn tiếp tục hỗ trợ và đến thăm các ẩn sĩ. Tôi chưa từng biết đến một ẩn sĩ nào tự dựng nên tôn giáo của riêng họ từ con số không, đi vào sa mạc để sống một mình, và từ chối thức ăn được những người viếng thăm dâng lên. Nếu ai đó có thể chỉ cho tôi một ẩn sĩ như vậy, tôi sẽ xem ông là một ẩn sĩ không theo tôn giáo nào hoặc như một kẻ yếm thế, trong khi người khác có thể coi ông là một ẩn sĩ theo tôn giáo điển hình, ngoại trừ việc thất bại hoàn toàn trước thử thách mang tính xã hội.
Thuộc tính thứ ba của nhiều tôn giáo là các tín đồ sẵn sàng cống hiến một cách rất tốn kém hoặc hy sinh đau đớn để thuyết phục người khác về sự tận tụy của họ đối với tôn giáo. Có thể là cống hiến về thời gian: ví dụ, tạm ngừng các hoạt động khác để hướng về phía thánh địa Mecca và cầu nguyện 5 lần mỗi ngày, hoặc mỗi Chủ nhật phải đến nhà thờ, hoặc bỏ nhiều năm để ghi nhớ một nghi lễ phức tạp, lời cầu nguyện và các bài hát (có thể cần phải học thêm một ngôn ngữ khác), hoặc dành hai năm để hoạt động truyền giáo khi đến tuổi trưởng thành (yêu cầu đối với người Mormon), hoặc tham gia một cuộc thập tự chinh hay một cuộc hành hương hoặc phải tự bỏ tiền đi thăm Thánh địa. Sự cống hiến cũng có thể dưới dạng tiền hoặc tài sản hiến tặng cho nhà thờ. Tín đồ có thể hiến tặng một vật nuôi có giá trị: tín đồ phải hy sinh con cừu của chính mình cho Chúa, chứ không thể hy sinh một con vật hoang dã bắt được mà không phải tốn công sức hay tiền của. Hoặc có thể hy sinh sự thoải mái của bản thân hoặc sự toàn vẹn của chính cơ thể mình, như bằng cách nhịn ăn, cắt bỏ một đốt ngón tay, cắt mũi hoặc lưỡi, cuống họng hay một phần cơ thể khác. Mọi hy sinh có tính thể hiện trước công chúng hay sự đau đớn là nhằm thuyết phục các tín đồ khác về sự nghiêm túc tận tụy của một người đối với tôn giáo của họ và thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống của họ nếu cần. Chỉ cần hét lên, "Tôi là một người theo Kitô giáo!", tôi có thể đã nói dối vì lợi ích cá nhân (như một số tù nhân thường làm với hy vọng được ân xá), hoặc để cứu chính mình. Trong khi thuộc tính thứ hai và thứ ba (là một phong trào xã hội và sự hy sinh tốn kém) có vẻ là điều kiện cần để một phong trào được gọi là tôn giáo, nhưng chúng không phải là điều kiện đủ. Vẫn có các phong trào xã hội phi tôn giáo khác cũng đòi hỏi sự chia sẻ sâu sắc, một niềm tin trong tổ chức và đòi hỏi sự hy sinh tốn kém từ những người tham gia, chẳng hạn như phong trào yêu nước.
Thuộc tính kế cuối của tôn giáo là niềm tin vào các vị thần và các đấng siêu nhiên khác được mặc nhiên công nhận dẫn đến những kết quả thực tế ảnh hưởng tới cách hành xử của con người. Những quy tắc ứng xử này có thể mang nhiều hình thức khác nhau như pháp luật, chuẩn mực đạo đức, những điều cấm kỵ, hoặc nghĩa vụ, tùy vào loại xã hội. Trong khi hầu như mọi tôn giáo đều có những quy tắc về hành vi, các quy định về hành vi này không chỉ xuất phát từ tôn giáo: các chính quyền nhà nước, các nhóm phi tôn giáo và những người vô thần hay người theo thuyết bất khả tri cũng có những quy định riêng của họ.
Cuối cùng, nhiều tôn giáo truyền dạy rằng các đấng siêu nhiên không chỉ tưởng thưởng những người tuân theo các quy tắc đạo đức và trừng phạt những kẻ ác cũng như những kẻ phá luật, mà còn có thể tác động bằng những lời cầu nguyện, đóng góp, hy sinh để can thiệp theo ý nguyện của những người thành tâm.
Vì vậy, tôn giáo bao gồm tập hợp của cả 5 thuộc tính, mà mức độ của mỗi thuộc tính có thể khác nhau giữa các tôn giáo khác nhau trên thế giới (bao gồm cả các tôn giáo truyền thống). Chúng ta có thể sử dụng tập hợp này để hiểu được sự khác biệt giữa các tôn giáo và một số hiện tượng có liên quan bao hàm một số nhưng không phải tất cả các thuộc tính của tôn giáo. Lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc cũng giống như tôn giáo là một dạng phong trào xã hội phân biệt các tín đồ với những người còn lại, đòi hỏi sự hy sinh (thậm chí cả tính mạng) như một cách thể hiện sự tận tụy của một người, cũng tổ chức các nghi lễ như Ngày Quốc khánh, Ngày Lễ Tạ ơn và Ngày Tưởng niệm (đối với người Mỹ). Nhưng không giống với tôn giáo, lòng yêu nước và tự hào dân tộc không tuyên truyền niềm tin về các đấng siêu nhiên. Người hâm mộ thể thao, cũng như các tín đồ tôn giáo, cũng thành lập các nhóm xã hội (ví dụ, câu lạc bộ người hâm mộ Boston Red Sox) tách biệt với các nhóm khác (ví dụ, câu lạc bộ người hâm mộ Yankee New York) nhưng không tin vào thế lực siêu nhiên, không đòi hỏi sự hy sinh lớn lao để làm bằng chứng và cũng không quy định hành vi đạo đức. Chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội và các phong trào chính trị khác cũng thu hút các nhóm thành viên tận tâm (như tôn giáo), cũng thúc đẩy tín đồ chết cho lý tưởng của họ và có thể có những điều luật đạo đức rõ ràng, nhưng không dựa vào các thế lực siêu nhiên. Ma thuật, phù thủy, mê tín dị đoan, phép định thủy (niềm tin có thể xác định mạch nước ngầm bằng một quẻ bói) có liên quan đến niềm tin vào các thế lực siêu nhiên và cũng ảnh hưởng tới hành vi hằng ngày. Tuy nhiên, ma thuật, mê tín dị đoan và các hiện tượng có liên quan không có chức năng xác định những nhóm xã hội gồm các tín đồ thành viên cùng chung cam kết: không có nhóm tín đồ nào cùng tin vào sự nguy hiểm của mèo đen gặp nhau Chủ nhật hằng tuần để xác nhận sự tách biệt của họ khỏi những người không tin. Và lằn ranh phân định còn rất mập mờ đối với các phong trào như Phật giáo, Nho giáo và Thần đạo, khi khó xác định chắc chắn chúng có phải là tôn giáo hay chỉ là những thuyết khác về cuộc sống.
Chức năng và cá chình điện
Tôn giáo rất phổ biến ở loài người, nhưng không có hiện tượng nào gần giống như vậy được mô tả ở động vật. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm hiểu về nó, nguồn gốc của tôn giáo, cũng như cách chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc của những đặc điểm độc đáo khác của loài người như nghệ thuật và ngôn ngữ nói. 6 triệu năm trước, tổ tiên của chúng ta là loài vượn chắc chắn không có tôn giáo; nhưng đến khi xuất hiện các tài liệu bằng văn bản đầu tiên khoảng 5.000 năm trước thì tôn giáo đã có mặt. Chuyện gì đã xảy ra trong 5.995.000 năm đó? Tiền đề của tôn giáo xuất hiện ở động vật và tổ tiên của con người là gì, khi nào và tại sao nó lại xuất hiện? Một phương pháp được gọi là phương pháp tiếp cận theo chức năng đã được sử dụng rộng rãi bởi các học giả tôn giáo kể từ khi họ bắt đầu nghiên cứu các tôn giáo một cách khoa học gần 150 năm trước đây. Câu hỏi được đặt ra là: chức năng của tôn giáo là gì? Các học giả nhận ra rằng tôn giáo thường áp đặt các chi phí nặng nề lên cá nhân và xã hội, chẳng hạn như dẫn dắt nhiều người vào lối sống độc thân và từ bỏ việc có con, hay bỏ ra nhiều công sức và chi phí để xây dựng các kim tự tháp khổng lồ, cho đến việc giết các vật nuôi có giá trị và thậm chí là chính bản thân và con cái, bỏ ra nhiều thời gian lặp đi lặp lại những cụm từ giống nhau. Tôn giáo phải có chức năng rõ ràng và mang đến lợi ích bù đắp lại được những chi phí nặng nề này; nếu không, nó sẽ không thể xuất hiện và không thể được duy trì. Sự phát minh ra tôn giáo đã giải quyết được những vấn đề gì của con người? Tóm tắt ngắn gọn về cách tiếp cận theo chức năng có thể được diễn đạt như sau: tôn giáo được phát minh ra để thực hiện những chức năng nhất định, để giải quyết những vấn đề nhất định, chẳng hạn như duy trì trật tự xã hội, xoa dịu sự lo lắng của dân chúng và truyền giảng sự tuân phục chính trị.
Một cách tiếp cận khác, đang nổi lên gần đây dựa trên nền tảng tiến hóa tâm lý học, lại phản đối: tôn giáo chắc chắn không phát triển và không được phát minh ra một cách có ý thức vì bất kỳ mục đích cụ thể nào hoặc để giải quyết bất kỳ vấn đề cụ thể nào. Một người đứng đầu nào đó không thể nảy sinh một ý tưởng tuyệt vời trong một ngày đẹp trời rồi tạo ra tôn giáo từ con số 0 và tiên đoán rằng ông ta có thể dễ dàng sai khiến người dân của mình nếu thuyết phục được họ tin vào những lý tưởng tôn giáo để xây nên một kim tự tháp. Cũng như một người săn bắt - hái lượm không thể vì lo lắng về việc những người trong bộ tộc của anh ta trở nên quá đau lòng vì cái chết của một người khác trong cuộc đi săn gần đây, đã dựng nên câu chuyện về thế giới bên kia để an ủi họ và cho họ một niềm hy vọng mới. Tôn giáo thay vì vậy có thể đã xuất hiện như một sản phẩm phụ của một số khả năng nào khác của tổ tiên chúng ta và của chính những động vật tổ tiên của họ, những khả năng này đã đưa đến những hậu quả khó lường và dần dẫn đến các chức năng mới khi chúng phát triển.
Với một nhà sinh học tiến hóa như tôi thì không có mâu thuẫn nào giữa hai cách tiếp cận khác nhau này về nguồn gốc của tôn giáo, mà thực chất chúng định hướng ra hai giai đoạn. Sự tiến hóa sinh học tương tự cũng tiến hóa theo hai giai đoạn. Đầu tiên, sự khác nhau giữa các cá nhân được tạo ra bởi đột biến và sự kết hợp của các gen. Thứ hai, chọn lọc tự nhiên và chọn lọc giới tính dẫn đến sự khác biệt giữa các cá thể trong việc sinh tồn, sinh sản và truyền tiếp gen đến thế hệ sau. Với điều kiện một trong số những biến thể này có khả năng thực hiện các chức năng và giải quyết các vấn đề trong cuộc sống tốt hơn so với các biến thể khác. Những vấn đề về chức năng (ví dụ như sống sót trong khí hậu lạnh) không được giải quyết bằng việc con vật nhận ra nó cần có lông dày hơn, cũng không phải bằng việc khí hậu lạnh kích thích đột biến tạo nên bộ lông dày hơn. Mà thay vào đó, một cơ chế khác (trong trường hợp của tiến hóa sinh học là cơ chế di truyền phân tử) đã dẫn đến một kết quả nào đó (trong trường hợp này là con vật với bộ lông dày hơn hoặc mỏng hơn), và điều kiện sống hoặc các vấn đề môi trường (trong trường hợp này là nhiệt độ lạnh) sẽ ưu đãi một số có chức năng vượt trội trong những dạng biến thể này của động vật. Do đó, đột biến gen và sự kết hợp gen cung cấp nguyên liệu cho sự đa dạng sinh học, trong khi đó chọn lọc tự nhiên và chọn lọc giới tính sẽ sàng lọc lại những nguyên liệu gốc này bằng cách đặt điều kiện về chức năng.
Tương tự như vậy, các nhà tâm lý học tiến hóa khẳng định rằng tôn giáo là một sản phẩm phụ từ các tính năng của bộ não con người sinh ra vì những lý do khác mà không phải để dựng kim tự tháp hay an ủi người thân. Đối với một nhà sinh học tiến hóa, cách lý giải này là chính đáng và không hề gây ngạc nhiên. Lịch sử tiến hóa đầy ắp các sản phẩm phụ và những đột biến ban đầu được lựa chọn cho một chức năng nhưng sau đó tiếp tục phát triển và được lựa chọn để thực hiện một chức năng hoàn toàn khác. Ví dụ, các nhà tiến hóa hoài nghi về quá trình tiến hóa của những con cá chình điện có thể giết chết con mồi với một dòng điện 600V, họ lập luận rằng một con cá chình có thể phóng dòng điện 600V không bao giờ có thể tiến hóa trực tiếp từ một con cá chình bình thường 0V thông qua chọn lọc tự nhiên, bởi giai đoạn trung gian bắt buộc của những con cá chình có điện áp thấp sẽ không thể giật chết bất kỳ con mồi nào. Trong thực tế, những con cá chình 600V phát triển thông qua những thay đổi về chức năng, như một sản phẩm phụ của khả năng phát hiện điện trường và phát điện ở những con cá bình thường.
Nhiều loài cá có các cơ quan thụ cảm trên da nhạy cảm với điện trường trong môi trường xung quanh. Các điện trường này có thể có nguồn gốc vật lý (ví dụ, từ các dòng hải lưu hoặc từ sự pha trộn của các vùng nước có độ mặn khác nhau), hoặc nguồn gốc sinh học (từ sự kích thích điện từ của các hoạt động co cơ ở động vật). Những loài cá có các thụ quan nhạy cảm với điện trường có thể sử dụng chúng cho hai mục đích: để phát hiện con mồi và để định hướng trong môi trường, đặc biệt là trong đầm lầy hoặc trong điều kiện đêm tối khi thị giác ít có khả năng được sử dụng. Con mồi sẽ bị phát hiện bởi cơ quan dò điện trường của động vật vì nó có độ dẫn điện cao hơn nhiều so với nước. Khả năng dò điện trường này được gọi là khả năng dò điện trường thụ động; nó không đòi hỏi bất kỳ cơ quan phát điện chuyên biệt nào.
Nhưng một số loài cá có khả năng tạo ra vùng điện trường thấp của chính nó cho phép chúng phát hiện ra con mồi không chỉ dựa trên điện trường của chính con mồi, mà còn bằng sự thay đổi của điện trường do chúng thiết lập. Các cơ quan phát điện chuyên biệt tiến hóa độc lập trong ít nhất là 6 loài cá. Hầu hết các cơ quan phát điện có nguồn gốc từ màng phát điện của tế bào cơ, nhưng có một loài cá phát triển các cơ quan phát điện này từ các tế bào thần kinh. Nhà động vật học Hans Lissmann đã đưa ra được bằng chứng thuyết phục đầu tiên cho hoạt động dò điện này, sau nhiều suy đoán không thuyết phục của những người khác. Lissmann tập cho những con cá điện, bằng cách thưởng thức ăn, phân biệt những vật thể dẫn điện với những vật thể không dẫn điện có bề ngoài giống hệt nhau, chẳng hạn như một cái đĩa kim loại dẫn điện và đĩa nhựa hay thủy tinh không dẫn điện giống hệt nhau. Khi còn làm việc trong một phòng thí nghiệm của Đại học Cambridge gần với tòa nhà Lissmann đang tiến hành nghiên cứu của mình, một người bạn của Lissmann đã kể cho tôi câu chuyện minh họa cho sự nhạy cảm của các cơ quan dò điện ở những con cá điện này. Lissmann nhận thấy những con cá điện ông nuôi trong phòng thí nghiệm bị kích thích vào một khoảng thời gian nhất định vào cuối buổi chiều của các ngày trong tuần. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra rằng đó là vì một kỹ thuật viên nữ của ông thường chuẩn bị về nhà vào giờ đó và hay bước ra sau một màn hình để chải tóc, tạo nên một điện trường mà những con cá có thể dò được.
Những con cá có điện thế thấp sử dụng các cơ quan phát điện và cơ quan dò điện trên da của chúng để cải thiện hiệu quả của hai chức năng khác nhau cũng xuất hiện ở nhiều loài cá khác có cơ quan dò điện nhưng thiếu cơ quan phát điện: phát hiện con mồi và định hướng. Những con cá có điện thế thấp còn sử dụng xung điện của mình cho chức năng thứ ba, đó là giao tiếp với nhau. Tùy thuộc vào mô hình điện xung, thay đổi theo loài và các cá thể, những con cá này có thể trích xuất thông tin và do đó nhận ra loài, giới tính, kích thước và từng cá thể (lạ hay quen) đã tạo ra xung điện. Một con cá có điện thế thấp có thể truyền thông điệp xã hội đến những con cá khác cùng loài.
Những con cá có thể phát ra những xung điện vài vôn không chỉ phát hiện con mồi mà còn có thể sử dụng những xung điện này cho chức năng thứ tư: giết con mồi nhỏ hơn, như cá tuế. Những xung điện cao thế hơn có thể giết chết con mồi lớn hơn, cho đến lúc một con cá chình 600V dài khoảng hơn 2 mét có thể giật chết một con ngựa trong nước. Những con cá có điện thế cao còn có thể sử dụng những xung điện cao thế của chúng cho hai chức năng khác: tự vệ trước kẻ săn mồi bằng cách chích điện chúng; và săn mồi bằng điện, tức là thu hút con mồi đến cơ quan tích điện dương của chúng (cực dương), một kỹ thuật cũng được sử dụng bởi các ngư dân khi họ tạo ra điện trường bằng pin hoặc máy phát điện thay vì bằng chính cơ thể họ.
Bây giờ, chúng ta hãy trở lại với những học giả phản đối giả thuyết chọn lọc tự nhiên có thể sản sinh ra một con cá 600V từ một con cá bình thường 0V, dựa trên lập luận rằng mọi giai đoạn trung gian cần thiết của cơ quan phát ra điện thế thấp là hoàn toàn vô ích và sẽ không giúp cho cá thể đó tồn tại. Câu trả lời là chức năng giết chết con mồi với một xung điện 600V không phải là chức năng ban đầu của các cơ quan điện này, mà nó là một sản phẩm phụ phát sinh từ một cơ quan ban đầu được lựa chọn để thực hiện một chức năng khác. Chúng ta thấy rằng các cơ quan điện này đã tích lũy 6 chức năng liên tiếp khi quá trình chọn lọc tự nhiên lựa chọn đẩy mạnh khả năng xung điện của chúng từ 0V lên đến 600V. Một con cá 0V có thể dò điện một cách thụ động để phát hiện con mồi và định hướng; một con cá điện thế thấp có thể thực hiện hai chức năng này một cách hiệu quả hơn và còn có thể giao tiếp bằng xung điện; một con cá có điện thế cao có thể giật điện con mồi, tự vệ và săn mồi bằng điện. Chúng ta sẽ thấy rằng tôn giáo của con người cũng trải qua quá trình này nhưng sẽ đi qua 7 thay vì 6 chức năng.
Việc tìm kiếm lời giải thích cho nguyên nhân
Từ thuộc tính nào của con người mà tôn giáo có thể đã xuất hiện như một sản phẩm phụ? Một quan điểm hợp lý cho rằng nó là một sản phẩm phụ của việc bộ não của chúng ta ngày càng phát triển tinh vi để có khả năng suy ra nguyên nhân, lực dẫn động và ý định, để dự đoán trước nguy hiểm, từ đó xây dựng những giải thích cho nguyên nhân của các giá trị dự đoán giúp chúng ta tồn tại. Tất nhiên, động vật cũng có bộ não và do đó cũng có thể suy diễn ra một số ý định. Ví dụ, một con cú trong kho thóc có thể phát hiện một con chuột bằng âm thanh trong bóng tối, có thể nghe thấy tiếng bước chân của con chuột, tính toán hướng đi và tốc độ của con chuột, từ đó suy ra ý định của con chuột là tiếp tục chạy theo hướng đó với tốc độ đó, để phóng xuống vào một thời điểm chính xác và từ một vị trí chính xác để cắt ngang đường chạy và chộp lấy con chuột. Nhưng động vật, thậm chí họ hàng gần nhất của chúng ta, có khả năng suy luận kém hơn con người rất nhiều. Ví dụ, đối với những chú khỉ châu Phi được gọi là khỉ Vervet, những con trăn dưới mặt đất là kẻ săn mồi chính. Những con khỉ này có một tiếng gọi báo động đặc biệt khi chúng nhìn thấy một con trăn và chúng biết nhảy lên cây nếu nghe thấy tiếng gọi cảnh báo này của những con khỉ khác gần đó. Nhưng thật đáng ngạc nhiên, những con khỉ thông minh này lại không liên kết được dấu vết của một con trăn ngay trên thảm cỏ trước mặt với mối nguy rằng một con trăn có thể rình rập gần đó. Ngược lại với khả năng suy luận yếu kém của loài khỉ: con người chúng ta đã được mài giũa qua quá trình chọn lọc tự nhiên để bộ não có khả năng trích xuất thông tin tối đa từ các tín hiệu bình thường và phát triển ngôn ngữ để truyền đạt chính xác thông tin này, thậm chí ngay cả khi có sự tác động của những kết luận sai không thể tránh khỏi thường xuyên xảy ra.
Ví dụ, chúng ta thường xuyên xác lập tính dẫn động cho những người khác. Chúng ta nhận ra rằng mọi người khác đều có những mục đích như bản thân chúng ta và mỗi cá nhân mỗi khác. Do đó, hằng ngày, chúng ta dành nhiều hoạt động của não bộ để hiểu người khác và theo dõi các biểu hiện từ họ (chẳng hạn như biểu hiện trên khuôn mặt, giọng nói của họ và những gì họ làm hoặc nói hay không làm hoặc không nói), để dự đoán những gì một số cá nhân có thể làm tiếp theo, và tìm hiểu cách để chúng ta có thể làm cô ta cư xử theo cách chúng ta muốn. Tương tự, chúng ta cũng gắn tính dẫn động lên động vật: thợ săn người!Kung khi tiếp cận xác một con mồi mà sư tử đã ăn xong sẽ nhìn vào bụng và hành vi của con sư tử để suy luận liệu những con sư tử này đã thỏa mãn và sẽ bỏ đi hay chúng vẫn còn đang đói. Chúng ta còn gắn tính dẫn động lên chính mình: chúng ta nhận ra những hành động của bản thân luôn dẫn đến kết quả, nếu chúng ta thấy hành xử theo cách này sẽ mang lại thành công trong khi những cách khác thì không, chúng ta sẽ học cách lặp lại các hành động có liên quan đến sự thành công. Khả năng phân tích nguyên nhân - của não bộ của chúng ta là lý do chính cho sự thành công của loài người. Đó là lý do, từ 12.000 năm trước đây, trước cả khi chúng ta phát triển nông nghiệp hoặc kim loại hay chữ viết và vẫn còn sống theo quần thể săn bắt - hái lượm, con người đã là loài động vật có vú phân bố rộng nhất, từ Bắc Cực tới xích đạo trên mọi lục địa, chỉ trừ Nam Cực.
Chúng ta vẫn luôn cố gắng tìm ra những lời giải thích bằng nguyên nhân. Một số lời giải thích truyền thống của con người dự đoán đúng với những lý do mà sau này được chứng minh là đúng theo khoa học; một số dự đoán đúng với lý do sai (Ví dụ, "tránh ăn một số loài cá đặc biệt vì đó là điều cấm kỵ", mà không hiểu biết về tác hại của các chất độc trong cá); và một số giải thích đưa ra dự đoán sai. Ví dụ, những người săn bắt - hái lượm khái quát hóa tính dẫn động và mở rộng nó lên những thứ khác có thể di chuyển ngoài con người và động vật, chẳng hạn như các dòng sông, mặt trời và mặt trăng. Con người trong xã hội truyền thống thường tin rằng những vật thể vô tri vô giác di chuyển được, hoặc được đẩy đi, là những vật thể sống. Họ cũng có thể gắn tính dẫn động lên những vật thể không di chuyển được như bông hoa, ngọn núi hay tảng đá. Ngày nay, chúng ta gọi đó là niềm tin vào các thế lực siêu nhiên, tách biệt khỏi thế giới tự nhiên, nhưng những người truyền thống thường không phân định như vậy. Thay vào đó, họ tìm cách giải thích nguyên nhân giá trị dự đoán được mà họ quan sát thấy: họ giả thiết rằng mặt trời (hoặc một vị thần chở mặt trời trên cỗ xe của ông) diễu hành hằng ngày ngang qua bầu trời, phù hợp với những sự kiện quan sát được. Họ không có đủ kiến thức về thiên văn học độc lập để biết rằng niềm tin vào mặt trời như một biểu tượng được thần thánh hóa là ‘lỗi lầm siêu nhiên’. Nhưng đó không phải là suy nghĩ ngớ ngẩn theo quan điểm của họ: mà đó là cách suy luận hợp lý của họ về những điều chắc chắn trong tự nhiên.
Vì vậy, một trong những hình thức mà sự tìm kiếm lời giải thích nguyên nhân của chúng ta bị tổng quát quá mức và dẫn thẳng đến những gì hôm nay chúng ta gọi là niềm tin vào siêu nhiên là việc gắn tính dẫn động vào thực vật và những vật thể không có sự sống. Một hình thức khác là sự tìm kiếm kết quả của những hành vi của chúng ta. Một người nông dân luôn tự hỏi ông đã làm gì sai khiến cánh đồng có năng suất cao trước đây bị thất thu trong năm nay và những người thợ săn Kaulong tự hỏi một người thợ săn nào đó đã làm gì để rơi vào hố trong rừng. Như những người dân tộc truyền thống khác, người nông dân và các thợ săn suy nghĩ rất nhiều để tìm ra lời giải thích. Một số giải thích của họ sau này được chứng minh là chính xác một cách khoa học, trong khi những lời giải thích khác chỉ đơn giản là những điều cấm kỵ không mang tính khoa học. Ví dụ, người nông dân nghèo Andean không có kiến thức về hệ số biến đổi vẫn canh tác phân tán cây trồng của mình ra 8 đến 22 cánh đồng (chương 8); họ sẽ cầu thần mưa theo cách truyền thống; và thợ săn Kaulong cẩn thận để không bao giờ gọi tên loài dơi trong hang động khi đang săn dơi trong khu vực có hố sụt. Ngày nay, chúng ta đã biết được việc phân tán đất trong trồng trọt là một phương pháp khoa học để đảm bảo sản lượng thu được luôn trên giá trị tối thiểu để sống sót và những lời cầu nguyện đến thần mưa hay việc cấm kỵ gọi tên dơi chỉ là mê tín dị đoan không có căn cứ khoa học, nhưng đó chỉ là những hiểu biết sau khi nhìn lại. Đối với bản thân người nông dân và thợ săn, không hề có khác biệt giữa căn cứ khoa học và mê tín dị đoan.
Một điển hình khác về việc theo đuổi công cuộc tìm kiếm lời giải thích bằng nguyên nhân một cách thái quá là những giả thuyết về bệnh tật. Nếu ai đó bị bệnh, nạn nhân và bạn bè hay người thân của họ sẽ cố gắng tìm lời giải thích cho căn bệnh giống như với bất kỳ vấn đề quan trọng nào khác. Có phải do người bệnh đã làm điều gì đó (ví dụ, uống nước từ một nguồn nào đó), hoặc quên làm việc gì (như rửa tay trước khi ăn, hoặc cầu nguyện đến một linh hồn)? Hay do người khác làm một điều gì đó (ví dụ, một người bệnh khác hắt hơi trúng vào bệnh nhân, hoặc một thầy phù thủy trù ếm họ)? Giống như những người truyền thống, chúng ta - công dân của xã hội hiện đại - vẫn tiếp tục tìm kiếm những lời giải thích y học cho các loại bệnh tật. Chúng ta đã chứng minh được rằng uống nước từ một nguồn nào đó hoặc không rửa tay trước khi ăn có thể dẫn đến một số bệnh, nhưng việc không cầu nguyện đến một linh hồn nào đó thì không. Việc được thông báo rằng bạn bị ung thư dạ dày vì bạn thừa hưởng biến thể 211 của gen PX2R không đem lại sự thỏa mãn và thường làm bạn trở nên thất vọng thay vì nói rằng bạn mắc bệnh do chế độ ăn uống của mình. Con người trong xã hội truyền thống tìm kiếm phương pháp chữa bệnh, cũng giống như chúng ta làm ngày nay, khi phương pháp chữa trị của các bác sĩ đều thất bại. Thông thường, những phương pháp chữa trị truyền thống thường có lợi vì nhiều lý do: hầu hết các bệnh đều có khả năng tự lành, nhiều biện pháp chữa trị bằng thảo dược truyền thống đã được chứng minh có giá trị dược lý; sự có mặt của các pháp sư bên cạnh giường người bệnh có thể làm giảm nỗi sợ hãi và trấn an bệnh nhân; việc xác định nguyên nhân của căn bệnh, ngay cả khi nó không đúng, khiến bệnh nhân cảm thấy tốt hơn vì được chữa trị thay vì chờ đợi một cách bất lực; nếu bệnh nhân chết, nó có thể đồng nghĩa với việc anh ta đã phạm phải một điều cấm kỵ, hoặc có thể đổ tội cho một phù thủy quyền lực để mọi người truy chết.
Mặt khác, chúng ta vẫn tìm kiếm những nguyên nhân giải thích cho các sự kiện mà khoa học hiện đại chỉ đưa ra những câu trả lời không thể thỏa mãn như: "Việc này không thể giải thích được, đừng cố gắng để lý giải nó nữa." Ví dụ, một vấn đề trung tâm trong ngay cả các tôn giáo có tổ chức tốt nhất là vấn đề thần học, chủ đề của một cuốn sách của Job: nếu một vị thần tốt và toàn năng tồn tại, thì tại sao cái ác lại xảy ra trên thế giới? Những dân tộc truyền thống sẵn sàng bỏ hàng giờ để thảo luận về một khúc cây trên mặt đất, chắc chắn sẽ không bỏ qua việc tranh cãi tại sao một người tốt luôn tuân theo các quy định của xã hội lại bị thương, bị đánh bại hoặc bị giết. Anh ta có phạm phải một điều cấm kỵ nào không, hay do các linh hồn ma quỷ, hoặc do những vị thần nổi giận? Mọi người chắc chắn cũng sẽ cố gắng giải thích tại sao người mà một tiếng trước vẫn còn thở, di chuyển, giờ đây lại lạnh ngắt, tắt thở và bất động như thể một hòn đá: có phải một phần của con người, được gọi là linh hồn, đã trốn thoát và nhập vào một con chim hay đang sống ở một nơi khác? Bạn có thể phản đối rằng những việc đó chỉ nhằm tìm kiếm "ý nghĩa" thay vì lời giải thích, vì vậy, chúng ta phải hướng đến tôn giáo để tìm ra ý nghĩa, hoặc nếu không, chúng ta phải thừa nhận khát khao tìm kiếm ý nghĩa của mình chỉ là vô nghĩa. Nhưng tất cả mọi người trong quá khứ, và hầu hết mọi người hôm nay, vẫn luôn có nhu cầu tìm ra một câu trả lời có "ý nghĩa".
Tóm lại, những gì chúng ta gọi là tôn giáo ngày nay có thể phát sinh như một sản phẩm phụ của sự phức tạp hóa tăng cao của bộ não con người trong việc xác định nguyên nhân giải thích và đưa ra dự đoán. Trong một thời gian dài, không có sự phân biệt nào được công nhận giữa tự nhiên và siêu nhiên, hoặc giữa tôn giáo và phần còn lại của cuộc sống. Còn về vấn đề "tôn giáo" phát sinh vào lúc nào trong quá trình tiến hóa của con người, tôi đoán rằng: đó là theo quá trình bộ não của chúng ta trở nên tinh vi hơn. Hơn 15.000 năm trước đây, người Cro-Magnon đã bắt đầu may quần áo theo số đo, phát minh ra các công cụ mới và tạo ra những bức tranh tuyệt vời về động vật và con người nhiều màu sắc trên các vách của các hang động ở Lascaux, Altamira và Chauvet, trong những hốc sâu nơi chỉ có thể nhìn thấy bằng ánh nến và làm dấy lên những cảm xúc về tôn giáo ở những du khách hiện đại. Dù việc kích thích những cảm xúc này có phải là chủ đích của những người cổ đại hay không, bộ não của họ chắc chắn đã đủ phức tạp như người hiện đại để có khả năng giữ vững những niềm tin có đầy đủ các thuộc tính như tôn giáo. Còn đối với người Neanderthal, bằng chứng được tìm thấy khẳng định họ trang trí xác chết với các sắc tố màu vàng nâu và có tập tục chôn người chết. Tôi có căn cứ để cho rằng tổ tiên của chúng ta đã có các niềm tin tôn giáo trong ít nhất hơn 60.000 năm lịch sử của loài Homo sapiens có tập tính hiện đại và có lẽ từ trước đó nữa.
Bảng 9.2. Ví dụ về các niềm tin siêu nhiên giới hạn trong một số tôn giáo đặc biệt
1. Thần khỉ có thể vượt hàng ngàn cây số chỉ với một cú lộn nhào (Hindu).
2. Bạn có thể cầu xin các linh hồn bằng cách ở trong một nơi cô lập không có thức ăn, nước uống trong 4 ngày và cắt đứt một đốt ngón tay bên trái của mình (Thổ dân Crow).
3. Một người phụ nữ không quan hệ với bất kỳ người đàn ông nào nhưng mang thai và hạ sinh một cậu bé, cơ thể của cậu sau khi chết đã được mang đến một nơi gọi là thiên đường, thường được miêu tả là ở trên trời (Công giáo).
4. Một pháp sư, người được trả công để làm phép, ngồi trong một căn nhà ánh sáng lập lờ cùng với những người lớn trong làng và tất cả đều nhắm mắt. Pháp sư đi xuống đáy đại dương, nơi ông xoa dịu cơn giận của nữ thần biển - người đã gây ra nhiều bất hạnh (Inuit).
5. Để xác định một người bị buộc tội ngoại tình có tội hay không, ép một con gà ăn thức ăn có độc. Nếu con gà không chết có nghĩa là bị cáo vô tội (Azande).
6. Những người đàn ông hy sinh trong những cuộc chiến vì tôn giáo sẽ được lên thiên đường nơi có đầy những trinh nữ xinh đẹp (Hồi giáo).
7. Trên đồi Tepeyac phía bắc của Mexico vào năm 1531, Đức Mẹ Đồng Trinh Maria hiện ra trước một thổ dân da đỏ theo đạo Chúa, nói chuyệ