Một thời đại trong thi ca
Một xã hội suốt mấy ngàn năm kéo dài một cuộc sống gần như không thay đổi, về hình thức cũng như về tinh thần. Triều đại tuy bao lần hưng vong, giang sơn tuy bao lần đổi chủ, song mọi cuộc biến cố về chính trị ít khi ba động đến sự sống nhân dân. Từ đời này sang đời khác, đại khái chỉ có bấy nhiêu tập tục, bấy nhiêu ý nghĩ, bấy nhiêu tin tưởng, cho đến những nỗi yêu, ghét, vui, buồn, cơ hồ cũng nằm yên trong những khuôn khổ nhất định. Thời gian ở đây đã ngừng lại và người ta chỉ sống trong không gian.
Nhưng, nhất đán, một cơn gió mạnh bỗng từ xa thổi đến. Cả nền tảng xưa bị một phen điên đảo, lung lay. Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt nam từ mấy mươi thế kỷ.
Phải trở lại cái thời tổ tiên ta mới tiếp xúc với người Trung-hoa, hơn nữa, phải trở lại cái thời giống, người Anh-đô-nê-diêng (Indonésien)[I] lần thứ nhất để chân vào lưu vực sông Hồng hà mới hòng tìm được một cuộc biến thiên quan trọng như vậy.
Trước mắt chúng ta bỗng bày ra những cảnh lạ lùng chưa bao giờ từng thấy. Lúc đầu, ai nấy đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao. Nhưng rồi chúng ta cũng quen dần.
Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giầy tây, mặc áo tây. Chúng ta dùng đèn điện, đồng hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp,... còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết những điều thay đổi về vật chất, phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi hang cùng ngõ hẻm, cuộc sống không còn giữ nguyên hình ngày trước, Nào dâu tây, diêm tây, nào vải tây, chỉ tây, kim tây, đinh tây. Đừng tưởng tôi ngụy biện. Một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ, và có ngày ta sẽ thấy thay đổi cả quan niệm của phương Đông.
Những đồ dùng kiểu mới ấy chính đã dẫn đường cho tư tưỏmg mới. Trong công cuộc duy tân, ảnh hưởng của nó ít ra cũng ngang với ảnh hưởng những sách nghị luận của hiền triết Âu Mỹ, cùng những sách cổ động của Khang, Lương. Sĩ phu nước ta từ xưa vốn chỉ biết có Khổng tử, bắt đầu dẫn Mạnh đức tư-cưu với Lư thoa, Họ bắt đầu viết quốc ngữ, một thứ chữ mượn của người phương Tây. Câu văn của họ cũng bắt đầu có cái rõ ràng, cái sáng sủa của văn tây. Những tư - tưởng phương Tây đầy dẫy trên Đông dương tập-chí, trên Narn-phong tạp chí, và từ hai cơ quan ấy thấm dần vào các hạng người có học.
Người ta đua nhau cho con em đến trường Pháp-Việt, người ta gửi con em sang tận bên Pháp. Thế rồi có những người Việt nam đậu kỷ sư, đậu bác sỹ, đậu thạc sĩ; có những người Việt nam nghiên cứu khoa học, triết học và có những người Việt-nam nghĩ chuyện xây dựng một nền học riêng cho nước Việt-nam.
Bấy nhiêu sự thay đổi trong khoảng năm sáu mươi năm! Năm sáu mươi năm mà như năm sáu mươi thế kỷ! Nhưng cuộc Âu hóa không phải chỉ có thế. Nó đã đi qua hai giai đoạn: hình thức và tư-tưởng ; nó còn phải đi qua một giai đoạn nữa. Nó đã thay đổi những tập quán sinh hoạt hằng ngày, nó đã thay đổi cách ta vận động tư tưởng, tất nó sẽ thay đổi cả cái nhịp rung cảm của ta nữa. Những hình thức mới của cuộc đời, những tư tưởng mới và nhất là ảnh hưởng văn học Pháp ngày một thấm thía, ấy là những lợi khí Âu hóa trong giai đoạn thứ ba này.
Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu, ghét, giận hờn nhất nhất như ngày trước. Đã đành ta chỉ có chừng ấy mối tình như con người muôn nơi và muôn thuở. Nhưng sống trên đất Việt nam ở đầu thế kỷ hai mươi, những mối tình của ta không khỏi có cái màu sắc riêng, cái dáng dấp riêng của thời đại. ‘‘... Các cụ ta ưa những màu đỏ choét ; ta lại ưa những màu xanh nhạt... Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya ; ta nao nao vì tiếng gà lúc đứng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì ta cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi,... cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu,...’’. Mấy câu nói xô bồ, liều lĩnh mà tha thiết của Ô. Lưu trọng Lư ở nhà Học- hội Qui nhơn hồi Juin 1934 đã vạch rõ tâm lý cả lớp thanh niên chúng ta.
Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành thực. Một nỗi khát vọng khẩn thiết đến đau đớn. Chính Ô. Lưu trọng Lư cũng đã viết trong quyển Người sơn nhân hồi Mai 1933: ‘‘Người thanh niên Việt nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình như người con đi tìm mẹ.’’
Đã thế, không thể xem phong trào thơ mới là một chuyện lập dị do một bọn dốt nát bày ra để kiếm chỗ ngồi trong làng thơ. Nó là kết quả không thể không có của một cuộc biến thiên vĩ đại bắt đầu từ hồi nước ta sáp nhập đế quốc Pháp và, xa hơn nữa, từ hồi Nguyễn Trịnh phân tranh, lúc người Âu mới đến.
Cái ngày người lái buôn phương Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, người ấy đã đem theo cùng với hàng hóa phương Tây, cái mầm sau này sẽ nẫy thành thơ mới.
Nhưng tìm nguồn gốc thơ mới mà chỉ nói xa xôi thế, công việc nhà viết sử cũng khí dễ dàng. Ta hãy tìm những nguyên nhân gần gụi hơn cùng những triệu chứng của phong trào thơ mới.
Đã lâu, người mình làm thơ hầu hết chỉ làm những bài tám câu, mỗi câu bảy chữ. Theo ông Phan Khôi [2], lỗi ấy phải quy cho khoa cử. Phép thi ngày xưa bắt học trò vào trường nhì làm một bài thơ theo thể thất ngôn luật. Thể thất ngôn luật vốn mượn của thi nhân đời Đường, nhưng khi người ta đưa nó vào khoa cử, nó còn bó buộc gấp mấy luật Đường. Theo luật Đường, trong một bài thơ tám câu, bốn câu giữa gọi là câu tam tứ, câu ngũ lục và muốn nói gì thì nói. Phép khoa cử bắt phải gọi câu tam tứ là câu thực nghĩa là phải giải thích đầu đề cho rõ ràng, hai câu ngũ lục là câu luận nghĩa là phải đem ý đầu bài mà bàn rộng ra. Thí-sinh làm thơ nhất định phải theo quy mô ấy. Không theo, hỏng.
Nhưng chính phủ Bảo hộ lần lượt bỏ chế độ khoa cử, ở Nam kỳ (1864?), ở Bắc kỳ (1915), ở Trung kỳ (1918). Khoa cử bỏ, thể thất ngôn luật cũng theo đó mà mất địa vị độc tôn. Năm 1917 nó bị Ô. Phạm Thượng chi công kích trong một bài bàn về tâm lý lối thơ ấy [3], Ông bảo: ‘‘ Người ta thường nói thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho nghề làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy, cho nó hay hơn, trúng vần trúng điệu hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi vậy.’’ Tiếp đó ông phê bình bài thơ qua đèo Ngang của bà huyện Thanh quan:
‘‘ Rằng hay thì thực là hay.
Nhưng hay quá, khéo quá, phần nhân công nhiều mà vẻ tự nhiên ít, quả là một bức tranh cảnh vậy.’’
Thời oanh liệt của thất ngôn luật đã đến lúc tàn. Năm 1928, nó bị ông Phan Khôi công kích trên Đông pháp thời báo, Ông Phan trách thể thơ ‘‘ bó buộc quá mà mất cả sanh thú [4].
Năm 1929, trên báo Phụ nữ tân văn, Ô. Trịnh đình Rư lại công kích nó một lần nữa và hô hào người ta lưu tâm đến lỗi lục bát và song thất Iục bát là những lối thơ đặc-biệt của ta [5].
Thực ra, từ trước, trên sách vở báo chương thỉnh thoảng thất ngôn-luật cũng đã phải nhường chỗ cho lục bát, song thất lục bát, cổ phong, từ khúc, v..v... Lác đác người ta còn thấy xuất hiện những bài không niêm, không luật, không hạn chữ, hạn câu. Ấy là bài dịch thơ ngũ ngôn La Cigale et la Fourmi của Nguyễn-văn-Vĩnh [6]
Con ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối…
Ấy là những bài gọi là thơ buông [7] của một sinh viên trường cao đẳng. Ô. Lê khánh Đồng, đã làm một trò cười cho chúng ta hồi nhỏ.
Những bài như thế mà dám mạo danh là thơ, cứ thời bấy giờ thực đáng khép vào tội phạm thượng. Một sự biến cố dường ấy mà xảy ra được, đâu không được công nhận, cũng đủ chứng rằng cái thời vận luật Đường đã cực kỳ suy-vi.
Khuôn khổ bài thơ bắt đầu rạn nứt. Một sức mạnh đương ngấm ngầm hoạt động trong tâm linh giống nòi. Nói cho đúng, chúng ta cũng chỉ phỏng đoán chứ thực ra chưa thấy gì. Thi thể có ít nhiều thay đổi mà thi tứ vẫn như xưa. Chỉ trong đôi bài thơ của Tản Đà mới thấy phảng phất chút bâng khuâng, chút phóng túng của thời sau. Ngoài ra, người ta vẫn ca đi hát lại bấy nhiêu đề thơ bằng bấy nhiêu giọng thơ không di dịch. Cừa hé mở từ lâu nhưng ngọn gió xa đón hoài không thấy tới. Xã hội Việt Nam chưa đến tuần thành thục. Chưa có thể nhóm dậy một cuộc cách mệnh về thi ca.
Nhưng một ngày kia cuộc cách mệnh về thi ca đã nhóm dậy. Ngày ấy là ngày 10 Mars 1932 [8] Lần đầu tiên trong thành trì thơ cũ hiện ra một lỗ thủng. Ô. Phan Khôi hăng hái như một vị tướng-quân, dõng dạc bước ra trận. Ông tự giới thiệu: ‘‘Trước kia... ít ra trong một năm tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Nôm ; mà năm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được.’’ Ấy thế đó mà ông kết án thơ cũ! Thơ cốt chơn. Thơ cũ bị câu thúc quá nên mất chơn. Bởi vậy ông bày ra một lối thơ ‘‘đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết’’ và tạm mệnh danh là thơ mới.
Hồi bấy giờ Phụ-nữ tân văn đương thời cực-thịnh. Những lời nói của ông Phan được truyền-bá đi khắp nơi. Cái bài thơ mới ‘’Tình già’’ (9) ông dẫn ra làm thí dụ, không rõ có được ai thích không. Nhưng một số đông thanh niên trong nước bỗng thấy mở ra một góc trời vì cái táo bạo dấu diếm của mình đã được một bực đàn anh trong văn giới công nhiên thừa nhận.
Lần lượt những bài thơ mới, vốn làm từ trước, được đưa lên mặt báo. Người hưởng ứng thứ nhất là Ô. Lưu trọng Lư. Sau khi đăng bài của Ô. Phan Khôi chẳng bao lâu, Phụ nữ tân văn nhận được một bức thư hoan nghênh ký cô Liên hương (Faifo), một bài thơ mới ‘‘Trên đường đời’’ ký Lưu trọng Lư, và một bài nữa ‘‘Vắng khách thơ’’ ký Thanh Tâm. Ký nhiều tên cho rộn thế thôi chứ đi lại cũng chỉ một người. ‘‘ Tình già’’, ‘‘Trên đường đời’’, và ‘‘Vắng khách thơ’’ là ba bài mang tên thơ mới được đăng báo trước nhất. Trong ba bài ấy thì bài thứ ba đã là một bài có giá trị (1). Kế đó, Phụ nữ tân văn còn đăng thơ mới của Nguyễn thị Manh Manh (tức Nguyễn thị Kiêm), của Hồ văn Hảo và nhiều người nữa.
Nhưng rồi phong trào thơ mới chuyển ra đất Bắc và được một cơ quan ngôn luận khác ủng hộ một cách đắc lực hơn.
Báo Phong hóa tập mới ra đời ngày 22 Septembre- 1932. Ngay số đầu đã có bài công kích thơ Đường luật và kết luận rằng: ‘‘ Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng’’. Từ đó cho đến cuối năm 1932, Phong hóa không đăng thơ mới nhưng cũng không đăng thơ cũ. Phong hóa lại còn diễu thơ cũ bằng cách diễu Tản Đà, người đại biểu chính thức cho nền thơ cũ. Bài ‘‘Cảm thu tiễn thu’’ của Tản Đà đã làm đầu đề cho một bức tranh khôi hài của Đông sơn và một bài hát nói khôi hài của Tú Mỡ. Họ so sánh cảnh thực với cảnh mộng trong trí tưởng thi nhân. Tú Mỡ viết:
... Cây tươi tốt, lá còn xanh ngắt,
Bói đâu ra lác đác lá ngô vàng.
Trên đường đi nóng dẫy như rang,
Cảnh tuyết phủ mơ màng thêm quái lạ,
vân vân....
Phá hoại rồi họ kiến thiết. Nhận được của Ô. Lưu trọng Lư bức thư gửi cho ông Phan Khôi mấy tháng trước, họ trịnh trọng đăng lại trên Phong hóa số Tết ra ngày 24 Janvier 1933 cùng với ít bài thơ mới của Lưu trọng Lư, Tân Việt, Thế Lữ. Tiếp theo đó, Phong hóa luôn luôn đăng thơ mới của Tứ Ly, Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn văn Kiện, Vũ đình Liên, Đoàn phú Tứ, Huy Thông.
Các báo chí khác cũng đua nhau đăng thơ mới ở Huế, Ngân sơn tùng thư ra đời ngày 15 Septembre 1933, liền xuất bản với ít chuyện ngắn, một tập thơ mới của Lưu trọng Lư (Người sơn nhân).
Thơ mới đã bắt đầu có cơ sở. Trong làng thơ mới người ta càng sốt sắng thêm. Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội Khuyến học Sài gòn hết sức tán dương thơ mới. Hội Khuyến học Sài gòn thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế.
Nối gót cô Nguyễn thị Kiêm, còn nhiều diễn giả cũng theo một mục-đích: dành lấy phần thắng cho thơ mới
Juin 1934: Ông Lưu trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Qui nhơn.
Janvier 1935: Ông Đỗ đình Vượng diễn thuyết tại hội Trí tri Hà nội.
Janvier 1935: Cô Nguyễn thị Kiêm lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài-gòn để tranh luận với Ông Nguyễn văn Hanh.
Novembre 1935: Ông Vũ đình Liên diễn thuyết tại hội Trí tri Nam-định.
Février 1936: Ông Trương Tửu diễn thuyết về thư Bạch nga tại hội Khai trí tiến đức Hà nội.
Trên báo chương cũng luôn luôn có những bài bênh vực, khích lệ thơ mới. Ô. Lưu trọng Lư gửi hai bức thư lên Khê thượng nói chuyện thơ mới với Tản Đà [10]. Ô. Lê tràng Kiều viết tám bài ca tụng các nhà thơ mới để trả lời Ô. Tùng Lâm và Ô. Thái Phỉ [11]. Ngoài ra còn bao nhiêu bài nữa.
Ở cái xứ vô sự này, câu chuyện văn thơ cơ hồ là câu chuyện độc nhất của một số đông thanh niên nam nữ. Nhưng đã đến lúc những lời hùng biện trở nên vô dụng. Những thi sĩ có danh đã ra đời: Thế Lữ, Lưu trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, J. Leiba, Thái Can. Trong khoảng bốn năm, đã sản xuất rất nhiều bài thơ có giá trị. Và những bài thơ ấy, nhất là những bài thơ của Thế Lữ, không trống không kèn, đã bênh vực một cách vững vàng cho thơ mới.
1935, cái năm đại náo trong làng thơ, đi qua. Bước sang 1936 sự toàn thắng của thơ mới đã rõ rệt. Đề tựa tập Những áng thơ hay, Ô. Lê tràng Kiều bàn nên xóa bỏ hai chữ thơ mới. Vì ‘‘hai chữ thơ mới là biểu hiệu một cuộc cách mạng đương bồng bột’’ mà ‘‘cuộc cách mệnh về thi ca ngày nay đã yên lặng như mặt nước hồ thu’’. Ô. Lưu trọng Lư nở một nụ cười kiêu hãnh, đăng trên Hanoi báo (19-2-36) một bài thơ thất ngôn sách họa kết bằng hai câu:
Nắn nót miễn sao nên bốn vế,
Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ.
Cái cười khinh mạn của người chiến thắng kể không có gì đáng ưa. Thế Lữ, khôn hơn, chỉ lẳng lặng nói chuyện với người đồng hương - những người trong làng thơ mới. Từ mục ‘‘Lá thắm’’ của Tinh hoa đến mục ‘‘Tin thơ’’ của Ngày nay, từ Mai 1937 đến Octobre 1938, Thế Lữ chăm chú dạy nghề thơ cho những ai nuôi mộng một ngày kia trở nên thi sĩ.
Thơ mới ra đời ngày một nhiều, cái danh hiệu thơ mới mất dần trên sách báo. Thi đàn đã vắng tiếng cãi nhau. Cho đến hồi Juin năm nay, vì chuyện thơ mới, Ô. Huỳnh Thúc Kháng và Ô. Phan Khôi bắt bẻ lẫn nhau [1] làng thơ Việt nam không mấy ai để ý đến những lời qua tiếng lại giữa hai ông già ấy.
Tấn-kịch mới cũ trong phạm vi thi ca đã kết liễu. Thơ mới đã dành được quyền sống, đã chiếm hầu hết báo chí sách vở, đã len vào đến học đường? Mà đã vào học đường, nhất là ở nước ta, tức là thanh thế đã to lắm.
Trước sự bành trướng mãnh liệt của thơ mới trước mọi sự hô hào rầm rộ của những người trong phái mới, làng thơ cũ đã phản động như thế nào?
Août 1933: Một tuần sau cuộc diễn thuyết thứ nhất của cô Nguyễn thị Kiêm, Ô. Tân Việt, bỉnh bút báo Công-luận [14], bênh vực thơ cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Sài gòn.
Octobre 1933: Văn học tạp chí Hà-nội, chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
Novembre-Décembre 1934: Tản-Đà nói chuyện thơ mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
Décembrc 1934: Trên Văn học tạp chí, Ô. Hoàng Duy Từ phản đối bài diễn thuyết của Ô. Lưu-trọng-Lư tại nhà Học hội Qui-nhơn.
9 Janvier 1935: Ông Nguyễn văn Hanh diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài gòn.
16 Janvier 1935: Ô. Nguyễn văn Hanh lại diễn thuyết tại hội Khuyến học Sài gòn cùng một hôm với cô Nguyễn thị Kiêm (diễn thuyết tranh luận).
Avril 1935: Hai Ô. Tường Vân và Phi Vân xuất bản tập thơ cũ, Những bông hoa trái mùa ở Vinh.
Juin 1935: Ô. Tùng Lâm Lê cương Phụng công kích thơ mới trên Văn nhọc tuần san, Sài gòn.
Avril 1936: Ô. Thái Phỉ công kích thơ mới trên báo Tin văn, Hà-nội.
Août 1937: Ô. Nguyễn văn Hanh diễn thuyết ở hội Quảng trị Huế.
Juin 1941: Ô. Huỳnh Thúc Kháng, sau nhiều lần chỉ trích và mạt sát, nói cả quyết rằng thơ mới đã đến ngày mạt vận.
Cũng rộn đấy chứ! Cái cảnh thơ cũ lúc tàn không đến nỗi buồn tẻ, thảm hại như cái cảnh suy vi của nền Khổng học. Năm 1930, Ô. Phan Khôi viết trên báo Thần chung ở Sài gòn một thôi hai mươi mốt bài chỉ trích Khổng giáo. Thế mà những môn đồ đạo Khổng còn sống sót nguội lạnh như không. Tinh thần Khổng giáo ở nước ta đã bạc nhược lắm vậy. Tinh thần thơ cũ [15], có phần tráng-kiện hơn. Gặp cơn nguy biến, còn có người ta tay chống chọi. Nhưng rồi cũng không sao cứu vãn được tình thế. Chỉ có một người hoặc có thể làm nên chuyện. Người ấy là Tản Đà vì Tản Đà là một nhà thơ có tài. Nhưng đối với phong trào thơ mới, Tản Đà lại hết sức dè dặt. Một người nữa, Ô. Hoàng Duy Từ, trên Văn học tạp chí cũng nói nhiều câu có lý, nhưng ông lại chủ trương cái thuyết của A, Chénier: tứ mới lời xưa. Và như thế ý kiến ông giống hệt nhiều nhà thơ mới,
Còn các người khác họ lập luận đại khái bất ngoại mấy lối này:
Hoặc họ cho những nhà thơ mới là một bọn mù:
Chẳng khác anh mù lại nói mơ.
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ [16].
Ý họ nghĩ rằng người ta làm thơ mới là chỉ vì luật thơ Đường khó. Nhưng từ août 1933, thuật lại cuộc diễn thuyết của Ô. Tân Việt, Phụ nữ tân văn đã trả lời trước cho họ: ‘‘Thơ tám câu cũng không phải khó gì. Nhiều người chỉ học trong nửa tiếng đồng hồ là thuộc và có thể làm đúng niêm luật. Các báo hằng ngày vẫn đăng luôn bao nhiêu là thơ bát cú của nhiều thi sĩ chỉ học trong có mấy ngày là ‘‘thành tài’’... Chúng tôi dám quả quyết như vậy là vì từ khi có báo quốc ngữ đến nay, đã vài mươi năm, ở mục văn uyển các báo, thơ tám câu bốn câu mọc ra không phải như hoa lan, hoa huệ, hoa hồng, mà như nấm’’ [17].
Hoặc họ dẫn ra ít bài thơ mới lủng củng lủng ca để công kích cho tiện rồi kết luận theo lối cái nhà thơ cũ nào đó đã gửi cho Ô. Lam Giang một bài bát cú chê thơ mới:
Nghĩa lý vơ vơ rồi vẩn vẩn,
Thanh âm ngần ngần lại ngơ ngơ.
So với Á học như dưa đắng,
Sánh với Âu văn tựa mít xơ.... [18]
Họ quên rằng chính những nhà thơ mới đã công kích thơ mới tàn nhẫn nghĩa là công kích những bài thơ mới bất thành thơ. Phong trào thơ mới xuất hiện được hơn một năm thì trên báo Phong hóa đã thấy những bài thơ nhại của Thế Lữ và của Khái-Hưng [19].
Công kích những bài thơ mới lủng củng là một chuyện thừa vậy. Công kích được những bài có giá trị mới mong tiệt được măm thơ mới. Nhưng đã có giá trị thì còn biết công kích thế nào!
Đó là chưa nói đến những người như Ô. Nguyễn văn Hanh. Ba lần Ô. Hanh lên diễn đàn công kích thơ mới là ba lần tai hại cho nền thơ cũ. Con gấu của La Fontaine cũng không thể vụng về hơn.
Như thế thì làm sao hòng đối phó với một bọn vừa khôn vừa ranh. Họ làm lỗi, họ tự phê bình lấy, không đợi người khác chỉ trích. Mà khi họ đã chỉ trích ai thì khó mà cất đầu lên được. Cô Bích Ngọc đề tựa tập thơ cũ Những bông hoa trái mùa khuyên làng thơ nên bỏ ‘‘ao ngoài’’ về tắm ‘‘ao nhà’’. Lê Ta thuật lời khuyên của cô chỉ thêm vào mấy chữ: ‘‘... dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn. Tôi buồn rằng người thục nữ có duyên đến thế lại kém vệ sinh!’’
Nhưng nguy nhất cho những người bênh vực thơ cũ là trong tám chín năm luôn thơ mới sản xuất ra nhiều nhà thơ có danh, nhiều bài thơ có giá trị, mà họ gần như không sáng tạo ra được một chút gì có thể gọi là thơ [20].
Cuộc tranh đấu đã đến hồi không ngang sức. Cả thanh thế Ô. Huỳnh Thúc Kháng, một nhà chí sĩ lão thành, cũng chịu không làm gì được. Thực ra thơ cũ rút quân ra khỏi mặt trận, nhưng không hề cởi giáp lai hàng. Nó lui về các thị xã, ẫn mình trong những thi tập chỉ trao tay trong năm bảy anh em và lưu truyền về sau cho con cháu. Đừng có ai xâm phạm đến những nơi nó đương an nhàn dưỡng lão. Kẻ viết mấy dòng này đã có lần đụng phải nanh vuốt của nó. Hồi 1937, vì vô ý lạm dự vào một cuộc bàn cãi về văn chương, tôi đã bị một ông tiến sĩ nói thẳng vào mặt: ‘‘ Khoa học xin nhường các người ; nhưng thơ văn các người phải để đó cho chúng tôi’. Chính ông nghè ấy đã có lần lên án chém Lưu trọng Lư. Cũng may ông nghè chúng ta không làm tể tướng nên họ Lưu vẫn làm thơ mới như thường.
Dầu sao, chút oai thừa cũng không đủ khiến người ta quên cái cảnh tiêu điều của một đám tàn quân thất thế. Thơ cũ trên sách báo ngày một thưa dần. Trừ một đôi tờ không chuyên về văn chương, còn hễ đăng thơ cũ là báo chết. Tình cảnh ấy liên lụy đến cả Ô. Phan Khôi, người đã khởi xướng ra thơ mới. Những bài nói chuyện thơ của ông đăng trên Nam phong tạp chí, Đông pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập, khoảng 1918-1932, đã được hoan nghênh biết bao. Thế mà hồi 1936 ông góp lại thành tập xuất bản lấy tên là Chương dân thi thoại thì chẳng mấy ai để ý đến. Mà quyền thi thoại của ông nào có dở cho cam! Nó chỉ có cái tội là nói chuyện thơ cũ.
Đồng thời trên báo thấy đăng một cái quảng-cáo ‘‘Nhận làm thuê các thứ văn vui, buồn, thường dùng trong xã hội’’.
Dưới quảng cáo một tên ký mà lịch sử văn học Việt nam sẽ lưu truyền mãi mãi: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu!
Đã hết đâu. Sau đó còn một cái quảng cáo nữa bằng thơ nhận đoán lý số Hà Lạc:
Còn như tiền đặt quẻ,
Nhiều năm (5 $), ít có ba (3 $) ;
Nhiều ít tùy ở khách,
Hậu bạc kể chi mà. [21]
Và dưới quảng cáo này vẫn cái tên ký: Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu.
Thực là thương tâm! Chúng ta, bọn thanh niên, đọc quảng cáo ấy khác gì đọc những lời buộc tội. Cái vui chiến thắng đi qua, chúng ta bắt đầu hối hận.
10 Octobre 1937, Ngày nay đăng một bài dịch thơ Đường của Tản Đà với những lời hết sức khen ngợi. Thơ Tản Đà còn được Ngày nay đăng nhiều lần nữa; nhóm Tự lực còn tính cả việc xuất bản thi phẩm của người mà hồi trước họ đã chế diễu [22].
Nhưng phá đi dễ mà dựng lên khó. Làng thơ mới đã tàn phá thanh danh của Tản Đà. Dầu sau cũng không thể sớm chiều khôi phục lại được. Phải chờ đến ngày 7 Juin 1939 là ngày Tản Đà mất mới tìm lại được cái không khí hơn mười năm trước. Những bài diễn văn khi hạ huyệt, những bài ca tụng trên báo, những bài diễn thuyết tại hội Trí tri Hà-nội, đã kêu to lòng ái mộ của toàn thể làng thơ. Yêu Tản Đà ta chạnh nghĩ đến người bạn tình của thi sĩ. Trong bộ đồ tang phục trông nàng cũng xinh xinh....
Thế rồi một hôm nàng đến tìm ta và ta thấy nàng khác hẳn. Vẫn khuôn mặt cân ối ấy, vẫn cái dáng đi nghiêm chỉnh ấy, vẫn giọng nói nhỏ nhẹ ấy, nhưng mặn mà, nhưng đằm thắm y như mấy trăm năm trước, hồi nàng còn thơ. Nàng theo sau một người bạn mới. Người bạn trân trọng giới thiệu nàng. Ta vồn vã đón tiếp cả hai: nhà thơ mới Chế Lan Viên đề tựa Mùa cổ điển một tập thơ cũ, đã khép lại một thời đại trong thi ca.
Một thời đại vừa chẵn mười năm.
Chú thích:
[1] Tôi không tin rằng người Việt nam vốn quê hương trên sông Dương tử.
[2] Chương dân thi thoại (nhà in Đắc Lập, Huế, 1936) tr. 45-46.
[3] Nam-phong tạp chí số 5.
[4] Chương dân thi thoại (nhà in Đắc Lập, Huế, 1936, tr. 46.
[5] Phụ nữ tân văn ra ngày 24-10-29.
[6] Thơ ngũ ngôn của La Fontaine tiên sinh (Trung bắc tân văn, Hà-nội, 1928).
[7] Thơ buông (Chân phương, Hà nội, 1918).
[7] Tức là ngày xuất bản tờ Phụ nữ tân văn số 122 trong ấy có bài ‘‘Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ’’.
[8] TÌNH GIÀ
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau than thở:
- ‘‘Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng;
‘‘Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!’’
‘‘Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?
‘‘ Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
‘‘ Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?’’
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rối! con mắt còn có đuôi.
[9] Có trích trong quyển này với nhan đề ‘‘Xuân về’’
[10] Đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy số 29 ra ngày 15-12-34 và số 34 ra ngày 19-1-35.
[11] Đăng ở Văn học tạp chí 1935 và Hanoi báo 1936
[12] Ông Huỳnh viết Tiếng dân, Ông Phan viết Dân báo.
(13) Thơ mới có ở trong chương trình quốc văn ban cao đẳng tiểu học và ban trung học.
[14] Không phải Ô. Tân-Việt, báo Phong hóa.
[15] Hai chữ thơ cũ ở đây xin hiểu theo nghĩa hẹp như các nhà thơ mới hồi bây giờ vẫn hiểu (xem đoạn định nghĩa thơ mới, thơ cũ sau này).
[16] Trích trong tập Những bông hoa trái mùa của Tường Vân và Phi Vân xuất bản ở Vinh, 1935.
[17] Phụ nữ tăn văn số 211 ra ngày 10-8-33.
[18] Thảo luận luật thơ mới của Lam giang, xuất bản ở Huế, 1939.
[19] Thế Lữ diễu Nguyễn Vỹ. Khái Hưng diễu chung những kẻ bất tài nhân phong trào thơ mới thừa cơ muốn nhảy vào, làng thơ.
[20] Quyển Trời xanh thẳm của Nguyễn Giang xuất-bản năm 1935, quyển Một tấm lòng của Quách Tấn xuất bản năm 1939, không đủ cho người ta hoan nghênh. Tập thơ cũ rất có giá trị, Mùa cổ điển, của Quách Tấn mới xuất bản hồi Mai năm nay.
[21] Ngày nay số 140 ra ngày 10-12-38.