Phan Khắc Khoan
Sinh nào khoảng Juin 1916 ở làng Yên Lăng, huyện Yên Thành (Nghệ an). Mồ côi mẹ thuở bé. Năm 15 tuổi cha bị mù. Học trường huyện, trường Vinh. Có bằng thành chung.
Đã đăng thơ: Phong Hoá (ký chàng Chương), Thế giới, Mới (ký Hồng Chương), Hà Nội tân văn, Tri tân.
Hai năm trước tôi đã nói đến ‘‘Xa xa’’, tập thơ đầu của Phan Khắc Khoan. Nhưng ngoài tập Xa xa, Phan Khắc Khoan [1] còn làm một số thơ. Nhân hỏi xem, tôi dã nhận được một lần mười một tập [2] kèm với một lá thư đại khái nói: "Đây chỉ chừng một nửa thi phẩm của tôi, nhưng tôi không muốn anh phải mệt vì thơ tôi hơn nữa". Dầu thế, tôi đã mệt vì thơ Phan Khắc Khoan nhiều lắm. Không phải đây đó tôi không lượm được những vần thơ dễ thương. Nhắc lại một mối tình hờ hững, Phan Khắc Khoan có những câu:
Đã chót tương phùng trong một quán
Dẫu trà ôi, chuyện nhạt cũng là duyên.
Có khi lòng bâng khuâng, người muốn:
Hạ mái tình xưa: sương về gió tạt
Nghiêng nghiêng hồn cho trút nhẹ chua cay
Có khi thấy lẻ loi, người than:
Thô vụng quá, sắm vai gì trên sâm khấu?
Hồn đơn cô, trông ngơ ngác chợ đời!...
......
Ồ! Những lúc bốn bên tường hiu quạnh
Thời gian không ngừng thoát một ly nào
Mà trong phòng hồn tôi cứ nao nao!
Bình yên lại, sao mà non yếu thế?
Lòng mơ khát gì đây chăng? Có lẽ,
Kìa mang ý lạ tự đâu về
Ngập hồn tôi như nước chảy tràn đê,
Rồi bút mực tình tự cùng giấy trắng.
Còn có thể tìm được nhiều lời khả ái như thế, nhất là trong những bài tả sự thờ ơ, sự phản trắc trong tình bạn. Nhưng cái tính dễ dãi của Phan Khắc Khoan thực sự dễ sợ! Ai lại đi xe lửa hạng tư chật không một chỗ đứng, từ Huế ra Thanh, mà làm luôn một thôi năm bài thơ dài! Cho nên Phan Khắc Khoan, thường không hay đi sâu vào hồn mình để tìm thấy những điều riêng biệt.
Đi lại, tập Xa xa vẫn là tập thơ trội hơn cả. Hình như một cuộc tình duyên không toại đã vì tác giả khơi nguồn thơ. Người ta lắm khi cần phải có một mối thất vọng lớn mới sáng mắt mà nhìn rõ mình và tạo vật. Có lẽ Phan Khắc Khoan đã nhờ thế mà cảm được cái phong vị đặc biệt của cảnh trời biển miền Nam. Cả tập Xa xa đượm một nỗi buồn vô hạn, một nỗi nhớ không nguôi. Tuy chỉ là nỗi buồn riêng, nhưng lời thơ nhân đó có cái buồn bát ngát, cái nhớ nhung khó hiểu của những nơi trời nước mênh mông. Người đọc thơ tưởng nghe điệu buồn dìu dìu muôn năm vẫn thì thầm trên bãi biển.
Những bức tranh nho nhỏ, xinh xinh, thu gọn trong bốn câu bảy chữ, đều buồn lây cái buồn kín đáo và man mác của thi nhân. Vì nói tình hay nói cảnh, người cũng chỉ nói lòng mình, nói cho một mình mình nghe. Hình ảnh người yêu luôn luôn theo dõi người trong lúc người muốn quên, muốn xa, đã đưa người về cuộc đời bên trong đầy ý nhị.
Juillet- 1941
I
Nón ngả sau lưng trước gió chiều,
Áo hồng nô gió cũng bay theo;
Tay nâng tà áo, tay vin nón,
Khi tóc huyền tuôn những nét yêu.
II
Lá rung như vẩy người xa tới
Viếng cảnh vườn im dưới bóng mây
Thì ra thu đã về đây với
Én liệng từng không gió lất lay
III
Tiếng đâu chiêm-chiếp? Trời u-ám
Trong bóng nào đâu thấy cánh chim?
Buồn chưa! Trên nước chiều đen xám
Bóng chiếc thuyền con, đứng lặng im!
IV
Nước chiều đã cạn, sông bày cát,
Nhưng chiếc đò ngang vẫn đợi chờ.
Người thưa, khách vắng... buồn man mác ;
Cô lái buồn trông dãy núi mờ.
V
Ai đứng trông buồn mong mỏi bạn
Trở về với những khúc ca hoan?
- Tổ chim bỏ vắng trên cành nhạn
Đã kể cho người nỗi hợp tan.
VI
Cây vươn trên nước rủ bơ phờ.
Gió nhẹ vờn sương thổi vật vờ;
Chiều đuối, chiều tàn, chiều lặng-lẽ
Đò qua sông vắng lướt như mơ.
VII
Chỉ thấy cành rung ngọn lắt lay
Xạc xào vang rộn tiếng heo may.
Ngoài kia có lẽ mông mênh quá,.
Gió lạnh len vào núp dưới cây.
VIII
Ngoài kia chân vẫn tìm ra lối,
Sao dưới hàng keo bóng phủ dày?
Hình như tất cả đêm khuya tối
Tất cả chui vào dưới rặng cây.
IX
Buồm ai thấp thoáng ngoài xa mịt?
Ta chẳng quen người cũng ngó theo....
Ai người chẳng biết buồn ly biệt
Lúc cánh buồm giương ai nhổ neo?
X
Tôi vừa ra đó quên cầm sách,
Gió đã lòn vào dở đếm trang.
- À mà trong vắng trong xa cách
Có lẽ bao nhiêu nỗi phụ phàng!
(Xa xa)