ĐÔNG SƠN PHÁP MÔN -
Tứ tổ Đạo Tín tu ở núi Phá Đầu sơn (Song Phong sơn), cách huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc hơn ba chục dặm về phía tây bắc, đệ tử của Đạo Tín là Ngũ tổ Hoẵng Nhẫn ở ngọn Phùng Mậu sơn cách đó không xa, kế thừa và phát dương thiền pháp Đạo Tín. Do Phùng Mậu sơn ở phía đông Song Phong sơn nên thiền pháp của Hoằng Nhẫn được người đương thời gọi là "Đông Sơn pháp môn"
Đông Sơn pháp môn lấy thiền học của Đạo Tín làm cơ sở, thực chất bao gồm thiền học của hai đời Tổ sư Đạo Tín và Hoằng Nhẫn. Hoằng Nhẫn 30 năm không rời Đạo Tín, tận đắc tinh hoa tư tưởng thiền pháp của Đạo Tín. Theo sử chép, Võ Tắt Thiên thường hỏi Thần Tú là đệ tử của Hoằng Nhẫn: "Thiền pháp mà sư truyền có gốc từ tông chỉ của nhà nào?" thì Thần Tú đáp rõ là "Đông Sơn pháp môn". Có thể thấy Đông Sơn pháp môn vào thời đó có ảnh hưởng khá lớn.
Bản Kinh Kim-Cương viết bằng máu tàng trữ ở chùa Nam Hoa tự, Tào Khê, Quảng Đông. Kinh Kim Cương là quyển kinh lưu truyền rộng nhất và được chú sớ nhiều nhất ở Trung Quốc, là một trong những cội nguồn của tư tưởng Thiền tông.
Về đặc điểm của Đông Sơn pháp môn, theo Lăng-già Sư Tư Ký, Đông Sơn pháp môn có hai đặc điểm chính: "Y theo Kinh Lăng-già, chư Phật tâm đệ nhất" và "Y theo Kinh Văn Thù Thuyết Bát-nhã, nhất hạnh tam muội". Như vậy Đông Sơn pháp môn vẫn trì phụng Kinh Lăng-già, nhấn mạnh phải dựa vào kinh này mà chú trọng "tâm". Đạo Tín lại hấp thu tư tưởng các kinh điển lưu hành đương thời, luận giải "niệm tâm" thành "niệm Phật", đưa pháp môn niệm Phật vào trong thể hệ tư tưởng của Đông Sơn pháp môn, từ đó đề xướng "nhất hạnh tam muội".
"Nhất hạnh tam muội" là điểm trọng yếu của Đông Sơn pháp môn. "Nhất hạnh" tức là "nhất tướng", chỉ pháp giới nhất tướng, không có sai biệt; "Tam-muội" tức tam-ma-địa, là định. Lấy nhất tướng làm cảnh giới tam-muội, tức lấy pháp giới làm đối tượng sở duyên. Pháp giới thì bao la chưa đủ tất cả, bình đẳng bất nhị, không tướng sai biệt. Làm sao có thể nhập vào tam-muội này? Căn cứ Kinh Văn Thù Thuyết Bát-nhã, cho rằng trước khi hành tam-muội, cần phải học Bát-nhã ba-la-mật. Theo kinh mà tu tập, lãnh ngộ đạo lý pháp giới vô ngại vô tướng, sau đó đoan thân chính hướng, cột tâm vào một vị Phật, chuyên niệm danh hiệu Ngài, niệm niệm tương tục, thì có thể trong niệm nhìn thấy toàn bộ tam thế chư Phật. Do đó, "Nhất hạnh tam muội" thực tế là sự kết hợp duy tâm niệm Phật và thực tướng niệm Phật. Niệm Phật là phương tiện an tâm, nhập đạo. Thông qua duy tâm niệm Phật, biết được "lìa tâm không có Phật nào khác" cho đến thân tâm phương thốn, tất cả cử động thi vi đều là đạo trường Bồ-đề. Thông qua thực tướng niệm Phật có thể chứng đắc cái lý của thực tướng pháp giới, đạt đến cảnh giới cùng Phật nhất như.
Tượng Lực sĩ đời Đường. Trong thành Câu-thi-na (thành Lực-sĩ) ở Ấn Độ có một dòng họ Lực sĩ. Khi Phật nhập diệt có dặn A-Nan để cho Lực sĩ khiêng quan tài. Thần hộ pháp, Kim cương mật tích trong Phật giáo cũng được gọi là Kim cương Lực sĩ.
Thuyết "Nhất hạnh tam muội" của Đạo Tín, đồng thời với sự dung hợp duy tâm niệm Phật và thực tướng niệm Phật, nhấn mạnh cái tâm minh tịnh và chứng ngộ thực tướng, dung thông tư tưởng Phật tính Như Lai tạng của Kinh Lăng-già và học thuyết Bát-nhã của Kinh Bát-nhã. Đạo Tín được sự khải phát của học thuyết Bát-nhã, đổi phép "an tâm" của thiền Đạt-ma thành "không bắt tâm, cũng không khán tâm", đưa ra phương pháp tu thiền tự do khoáng đạt. Tư tưởng nhiệm vận tự nhiên tuy có thể tìm thấy nguồn gốc trong Kinh Lăng-già, nhưng tư tưởng này chỉ sau khi kết hợp với học thuyết Bát-nhã mới được giới thiền học xem trọng. Sau này hệ thiền Hồng Châu đặc biệt nhấn mạnh điểm này.
Từ Huệ Năng về sau, địa vị Kinh Lăng-già về mặt hình thức suy giảm dần và địa vị Kinh Kim Cương liên tục được nâng lên. Xu thế lịch sử này có nguồn gốc từ Đông Sơn pháp môn. Đông Sơn pháp môn là hình thái quá độ của thiền Huệ Năng.
Sự hình thành Đông Sơn pháp môn làm cho thiền Đạt-ma từ đặc điểm tọa thiền nghiêm cách và đầu đà thủ giới phát triển hướng đến hình thức tự do phóng khoáng, tăng thêm sức lôi cuốn đối với thiền tăng, báo hiệu sự xuất hiện một cực diện thiền học mới. Đạo Tín từng ở Song Phong sơn quy tụ tăng tục hơn 500 người tụ tập thiền, quy mô này trước đây chưa từng có. Hoằng Nhẫn kế tục Đạo Tín, ở núi Phùng Mẫu sơn hơn 40 năm "tiếp dẫn đạo tục, cao tăng bốn phương kéo đến qui theo" (Lịch Đại Pháp Bảo Ký). Danh tiếng thiền Đạt-ma vang dội, dần dần áp đảo học các biệt phái khác và được sự trọng vọng của triều đình.