← Quay lại trang sách

TƯ TƯỞNG TRUNG TÂM CỦA THAM ĐỒNG KHẾ--

Tham Đồng Khế toàn văn 310 chữ, là tác phẩm viết theo thể kệ tụng ngũ ngôn của Thạch Đầu Hi Thiên, được chép trong phần phụ lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục. Mục đích chính của Tham Đồng Khế là hội thông Thiền tông nam bắc, nhưng mối quan hệ giữa Lý và Sự được luận thuật trong tác phẩm này là một vấn đề lớn của Phật học, tạo ảnh hưởng thâm viễn trong lịch sử Thiền tông.

Nam tông chịu ảnh hưởng Không quán Bát-nhã phương nam khá sâu sắc, chú trọng ở ngộ giải Lý nên đề cao đốn ngộ, còn Bắc tông thì chịu ảnh hưởng truyền thống thiền học Lăng-già, nghiêng nặng về chấp trước sự tướng, nên chủ trương tiệm tu. Tham Đồng Khế viết:

Linh nguyên minh giáo khiết

Chi phái ám lưu chú

Chấp sự nguyên thị mê

Khế lý diệc phi ngộ.

(Linh nguyên sáng trong veo

Chi phái ngầm lưu chảy

Chấp Sự vốn là mê

Khế Lý chưa là ngộ.)

"Linh nguyên" trong câu trên chỉ Chân như Phật tính, "Sự" là vật phái sinh của "Linh nguyên", "lưu chú" nghĩa là không gián đoạn, trôi chảy biến hóa vô thường. Đại ý đoạn trên nói rằng quan hệ Lý và Sự tuy không biểu hiện rõ ràng, nhưng xác thực tồn tại, chấp trước vào ngoại vật đương nhiên là sai lầm, nhưng nếu như không hiểu được quan hệ "hồi hỗ" (tương hỗ xoắn xít lẫn nhau), thì cho dù có khế Lý cũng không thể nói là đã đạt ngộ.

Tư tưởng trung tâm của Tham Đồng Khế biểu hiện ở quan hệ "hồi hỗ" giữa Sự và Lý, tâm và vật, nội và ngoại. Lý tồn tại trong tất cả sự vật, tất cả mỗi sự vật đều có Lý riêng, tất cả sự vật trên cơ sở Lý bản thể vừa thống nhất lại vừa khu biệt, vì thế mà dung hội thâm nhập lẫn nhau, đó chính là "hồi hỗ". Tất cả sự vật lại trụ ở vị trí riêng, tương đối độc lập, và không bộc lộ sự tạp loạn, đó là "bất hồi hỗ". Giữa Sự và Lý, giữa Sự và Sự vừa có quan hệ hồi hỗ lại vừa có quan hệ không "hồi hỗ". Nói"hồi hỗ" thì cũng bao hàm "bất hồi hỗ" bên trong. Do đó Tham Đồng Khế lại nói:

Môn môn nhất thiết cảnh

Hồi hỗ bất hồi hỗ

Hồi nhi cánh tương thiệp

Bất nhĩ y vị trụ.

(Cửa cửa tất cả cảnh

Hồi hỗ không hồi hỗ

Hồi mà lại dính nhau

Không thế, lại y chỗ).

Phật Nhiên Đăng thọ ký Thích-ca.

Để tiến thêm một bước nói rõ mối quan hệ Lý Sự này, Thạch Đầu Hi Thiên dùng cặp sáng và tối (minh ám) để ví dụ:

Đương minh trung hữu ám

Vật dĩ ám tương ngộ

Đương ám trung hữu minh

Vật dĩ minh tương đổ

Minh ám các tương đối

Tỉ như tiền hậu bộ.

(Ngay trong sáng có tối

Đừng để tối gặp gỡ

Ngay trong tối có sáng

Đừng để sáng thấy nhau

Sáng và tối đối nhau

Như bước chân trước sau.)

Đây rất có thể là sự phát dương cặp "minh ám" trong "tam thập lục đối" của Lục tổ Huệ Năng trong Đàn Kinh (xem Đàn Kinh bản Đôn Hoàng, tiết 46). Trước Thạch Đầu Hi Thiên, học giả Hoa Nghiêm tông cũng đã luận một cách cụ thể và thâm sâu đối với quan hệ giữa Lý và Sự. Có thể thấy tư tưởng của Tham Đồng Khế được sản sinh dưới sự ảnh hưởng của thuyết "Tứ pháp giới", "Thập huyền môn" của Hoa Nghiêm. Điều này phản ánh Thiền tông về phương diện giáo lý đã kết hợp với tư tưởng Hoa Nghiêm. Do Thạch Đầu Hi Thiên chọn học thuyết Hoa Nghiêm để nhập thiền, còn Mã Tổ Đạo Nhất thì lấy tư tưởng Lão Trang để nhập thiền nên phong cách hai phái đi theo hai hướng khác biệt nhau. Sự phân chia hai phái dần trở nên rõ ràng, sau này xuất hiện sự phân nhánh tiếp tục của nhiều chi phái là điều không khó lý giải. Chịu sự ảnh hưởng mạnh nhất của Tham Đồng Khế chính là Tào Động tông do Động Sơn Lương Giới và đệ tử là Tào Sơn Bản Tịch sáng lập. Thuyết "Ngũ vị quân thần" do Tào Động tông đề xướng chính là sự diễn hóa từ thiên kệ tụng này. Tư tưởng "tức sự nhi chân" - Sự và Lý chẳng phải là hai, ở trong sự tướng nông cạn cũng tự có đủ cái chân lý thâm diệu - của Tào Động tông chính là sự vận dụng cụ thể lý luận "hồi hỗ".

Sau này, lý học Tống, Minh thích đàm luận vấn đề Lý Sự, dùng thuyết "Lý nhất phân thù" (Lý chỉ có một mà chia ra khác) quy nạp vấn đề Lý Sự, cho rằng Lý là chỉnh thể, là một, trong mỗi một Sự đều thể hiện, đồng thời thừa nhận sự sai biệt của Sự là đa chủng đa dạng. Nguồn gốc uyên nguyên của tư tưởng này cũng chính là Tham Đồng Khế.

CƠ PHONG VẤN ĐÁP

"Cơ phong" hay "đấu cơ phong" là một phương pháp giáo học kiểu chủ nghĩa thần bí tôn giáo của Thiền tông được áp dụng tùy người, tùy lúc, tùy cảnh. Có khi cùng một câu hỏi lại đưa ra nhiều câu trả lời khác nhau hoặc trả lời cùng một kiểu đối với những câu hỏi khác nhau, có lúc lại không trả lời trực tiếp xác đáng mà dùng đủ các kiểu hình thức phản lý tính để biểu lộ quan điểm. Đây cũng chính là "tùy bệnh mà cho thuốc".

Thiền tông tự xưng cội nguồn từ Thích Ca Mâu Ni "giáo ngoại biệt truyền", "dĩ tâm truyền tâm", do đó Thiền tông xem sự tương hỗ mặc khế trong động tác hành vi hoặc ngôn ngữ giữa thầy trò là cứu cánh của tham học. Khởi sơ Thiền tông dùng các phương thức như ẩn ngữ, so sánh, ám thị, cố ý làm cho hư huyễn, dùng kiểu lòng vòng mập mờ để diễn tả thiền lý, như Hoài Hải "mài gạch làm gương soi" để khai ngộ Mã Tổ vứt bỏ tọa thiền, về sau Mã Tổ cũng dùng thuyết giáo tương tự để tiếp dẫn Huệ Hải phát hiện Phật tính tự tâm. Sau này Thiền tông phát triển đến các phương thức phóng túng, mãnh liệt hơn như đấm đá, gậy hét. Vài công án sau đây cho thấy phong cách cơ phong vấn đáp của Thiền tông.

Tăng hỏi: "Thế nào là xuy mao kiếm?" Sư đáp: "Lạc" (xương). Người hỏi cho rằng trí tuệ Bát-nhã có thể cắt đứt mọi phiền não (đây là quan điểm căn bản của Phật giáo Đại thừa truyền thống) giống như thanh kiếm sắc bén nhất, chỉ cần thổi sợi lông vào thì lập tức bị cắt đứt. Nhưng xương thì không có lông, do đó dù có thanh xuy mao kiếm thì cũng chẳng có chỗ dùng. Điều này nói lên rằng, từ góc độ Thiền tông, bản lai không có Bồ-đề để chứng, không có Niết-bàn để đắc, tất cả mọi chấp trước đều hữu hại vô ích.

Tăng hỏi: "Không khởi lên một niệm, sai hay không sai?" Sư đáp: "Núi tu-di". Thiền tông phản đối bất kỳ mọi nhận thức cố định, khẳng định, nếu như có người lấy "bất khởi nhất niệm" làm nguyên tắc của giải thoát tinh thần, chấp trước vào nó, thì bản thân cái ý nghĩ "bất khởi nhất niệm" cũng là sai lầm. Núi Tu-di là ngọn núi lớn nhất trong kinh Phật thường nói đến, cao tám vạn bốn ngàn Do-tuần (yojana, đơn vị đo khoảng cách của Ấn-Độ cổ, 1 yojana bằng khoảng 30 dặm). Câu trả lời có nghĩa là, dù không khởi một niệm thì cái sai lầm cũng to lớn như ngọn núi Tu-di. Con đường thành Phật đúng đắn phải là thuần nhiệm tự nhiên, không hề suy tính, "đói thì ăn cơm, mệt thì nằm ngủ".

Tăng hỏi: "Thế nào là đại ý Phật pháp?" Sư đáp: "Hướng về phương nam nhìn Bắc đẩu". Bắc đẩu ở phương bắc, nhìn về phương nam thì không thể thấy, nhưng một khi quay đầu lại thì Bắc đẩu hiện ngay phía trước. Thiền tông chủ trương công phu phản tỉnh nội tâm, "hướng về phương nam nhìn Bắc đẩu" chính là ý này. Đối với Thiền tông thì cái "Phật pháp đại ý" về căn bản không hề tồn tại, Thích-ca Mâu-ni một đời không thuyết một chữ nào, do đó nếu chấp trước vào "Phật pháp" thì tất nhiên rời bỏ phản tỉnh nội tâm, quên mất tự tâm Phật tính.

Lò hương bằng đồng đời Thanh.

Điện Ti-lư chùa Ngũ tổ.

Tăng hỏi: "Thế nào là Phật? Sư đáp: "Ba cân gai". Câu đáp nghe có vẻ đáp trật chỗ hỏi, chẳng ăn nhập gì, nhưng kỳ thực ý nghĩa hết sức rõ ràng. Mục đích của câu trả lời chính là chặn đứng suy nghĩ thông thường của thiền tăng, làm cho ông phải tự thân phản chiếu, phản chiếu cái bản nguyên tự thân thành Phật của mình. Mỗi một người bản lai là Phật, chỉ có điều là không phát hiện được mà thôi. Có những "cơ phong" khác cũng tương tự như hỏi: "Vạn pháp quy về một, một quy về đâu?" Đáp: "Ta ở Thanh Châu may một cái áo nặng bảy cân"; Hỏi: "Thế nào là Phật tâm?" Đáp: "Củ cải ở Trấn Châu nặng ba cân"; Hỏi: "Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?" Đáp: "Ngồi lâu thấm mệt", hoặc "Răng mọc lông", hoặc "Một tấc lông nặng chín cân", hoặc "Đợi nước khe trong động chảy ngược, ta sẽ nói cho ông". Những kiểu đáp như vậy trong Thiền tông không phải là ít.

Theo như Thiền tông nói, vận dụng cơ phong phải tự nhiên, tùy người mà khác nhau, mục đích tối chung là phải trực giác được thâm ý của thiền thì người nào cũng đều có thể thành Phật, thành Tổ. Là một phương thức giáo học tiếp dẫn người học, bản thân câu hỏi của đệ tử cũng là một loại cơ phong, nó có thể mang tính triết lý, kiểu đánh đố hay chỉ là loại câu hỏi nhạt nhẽo hay vớ vẩn. Thiền sư trả lời sắc bén có thể khiến đệ tử phản chiếu tỉnh ngộ. Cũng có trường hợp trình độ thầy không bằng đệ tử nhưng không muốn mất mặt nên cố ý làm bộ nói bừa, vì vậy không phải toàn bộ cơ phong đều có thể phân tích lý giải.