NHỮNG THIỀN SƯ TRỨ DANH ĐỜI MINH -
Khi mới kiến lập, triều Minh xem trọng Lý học, tăng cường chuyên chế thống trị tư tưởng, Phật giáo ngày càng bị khống chế mạnh. Chỉ từ giữa đời Minh trở đi, phong trào tham thiền mới nổi lên trở lại, thiền phong khá thịnh, tình hình như được trung hưng. Trong thời kỳ này có các thiền sư danh tiếng là Sở Thạch Phạn Kỳ, Mật Vân Viên Ngộ, Hán Nguyệt Pháp Tạng, Vô Minh Huệ Kinh.
Sở Thạch Phạn Kỳ là thiền sư lừng danh đầu đời Minh, đệ tử của Nguyên Tẩu Hành Đoan, thế tôn năm đời của Đại Huệ Tông Cảo, từng được Chu Hoằng gọi là "tông sư đệ nhất của triều Minh". Trong bài kệ ngộ đạo của Sở Thạch Phạn Kỳ có hai câu: "Thập đắc hồng lô nhất điểm tuyết, Khước thị Hoàng Hà lục nguyệt băng" (Nhặt một điểm tuyết trong lửa đỏ, Lại là băng tháng sáu Hoàng Hà). Phạn Kỳ cũng theo trào lưu thời đại khởi lên từ thời Tống Nguyên, đề xướng Thiền tịnh song tu, xem Tịnh độ là nơi quy túc. Trong bài "Tịnh độ thi" của Phạn Kỳ có câu: "Trần trần sát sát tuy thanh tịnh, Chỉ có Di-đà nguyệt lực thâm", "Chỉ chốn quê nhà bên trời lặn, Một đường quay về thẳng như huyền".
Từ giữa đời Minh về sau, thiền sư trứ danh thuộc Lâm Tế tông có Tiếu Nham Đức Bảo và đệ tử là Huyền Hữu Chính Truyền. Môn hạ Chính Truyền có Mật Vân Viên Ngộ, Thiên Ẩn Viên Tu, Tuyết Kiều Viên Tín, mỗi người hoằng pháp một phương. Đệ tử của Mật Vân Viên Ngộ là Hán Nguyệt Pháp Tạng viết bộ Ngủ Tông Nguyên, Mật Vân Viên Ngộ sau khi đọc liền phản bác, gây ra cuộc tranh luận trường kỳ kéo dài đến đầu đời Thanh.
Tào Động tông từ giữa đời Minh về sau có vài thiền sư trứ danh truyền pháp ở phương nam, đó là Vô Minh Huệ Kinh và đệ tử là Vô Dị Nguyên Lai, Vĩnh Giác Nguyên Hiền. Huệ Kinh trú ở chùa Thọ Xương, Giang Tây, từng học giáo nghĩa Lâm Tế tông nên đề xướng "Khán thoại thiền" do Tông Cảo sáng lập. Huệ Kinh lại theo trào lưu "duy tâm Tịnh độ, tự tính Di-đà" đương thời, chủ trương Thiền Tịnh song tu. Nguyên Lai cũng chủ trương Thiền Tịnh hợp nhất, cho rằng Thiền, Tịnh bản lai là thống nhất, không có phân biệt, "Thiền, Tịnh vốn không phải là hai". Do đó, vô luận thâm nhập từ pháp môn nào cũng đạt được mục đích, vì vậy Nguyên Lai khuyến khích thiền tăng niệm Phật để vãng sinh Tịnh độ. Nguyên Lai chủ trương Giáo Thiền thống nhất, cho rằng nếu nắm được yêu chỉ hợp nhất Tông (Thiền) và Giáo (Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Duy Thức) thì "một lời một chữ đều là cơ tối thượng" (Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục, quyển 21). Nguyên Hiền lúc đầu học Trình Chu, sau khi xuất gia, theo học Lâm Tế rồi chuyển sang tông Tào Động. Nguyên Hiền không chỉ đề xướng dung hợp nội bộ Phật giáo mà còn chủ trương hợp nhất tam giáo Nho, Phật, Đạo. Về nội bộ Phật giáo, Nguyên Hiền nói: "Môn phong phân biệt, trong Thiền tông có năm tông, nhưng kỳ thực là một đạo. Vì vậy, kẻ chân tri tông Lâm Tế, tuyệt không khác tông Tào Động, kẻ chân tri tông Tào Động tuyệt không khác tông Lâm Tế". Từ đó cho rằng Thiền và Giáo, Luật, Tịnh độ đều không khác biệt, "vốn đều cùng một nguồn" (Tục Nghệ Ngôn). Trong Tịnh Từ Yếu Ngữ của Nguyên Hiền có viết: "Hai pháp môn Thiền, Tịnh, tuy ứng cơ bất đồng nhưng dụng công không khác biệt", "Tham thiền cần phải ngộ tự tâm, mà niệm Phật cũng phải ngộ tự tâm. Nhập môn tuy khác nhưng đáo đạt như nhau", lại nói: "Muốn cầu phép tu trì dễ nhất, nhập đạo vững chắc nhất, kết quả nhanh nhất, thì chẳng gì bằng pháp môn Tịnh độ".
Tượng Quan Âm, đời Minh.
.
Diêu Quảng Hiếu, pháp danh Đạo Diễn, thiền sư đời Minh, là mưu sĩ quan trọng của Minh Thành Tổ Chu Lệ.
Như vậy Nguyên Hiền cũng xem Tịnh độ là nội quy túc. Về quan hệ Tâm giáo, Nguyên Hiền cho rằng, tuy chia thành ba giáo nhưng "Lý" chỉ có một, "Lý là một nhưng Giáo không thể không phân, Giáo tuy phân ra nhưng Lý cũng chưa từng chẳng phải là một". Ở đây, Nguyên Hiền trên cơ sở hấp thụ "Lý" - phạm trù tối cao của Lý học Tống Minh, từ góc độ bản thể luận dung hợp thống nhất Tam giáo. Nguyên Hiền quan niệm tất cả mọi thứ trên thế giới đều quy vào bản thể "Lý nhất", "Giáo phân làm ba, kiên quyết bảo như nhau là vọng, kiên quyết bảo khác biệt là mê... Vì ngoài Lý không có Giáo, nên Giáo tất phải quy về Lý". Tư tưởng này hiển nhiên được sự khải phát từ thuyết "Lý nhất phân thù" (Lý chỉ có một nhưng phân ra khác) của Lý học, không phải là sự lặp lại lý luận hợp nhất Phật giáo, thống nhất Tam giáo trong đời Tống mà đã có bối cảnh tư tưởng và xã hội mới.
Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương từng hạ lệnh phân chia chùa viện trong thiên hạ thành ba loại Thiền, Giảng, Giáo, tăng ni thuộc phái nào phải phân biệt nghiêm cách không được lẫn lộn để dễ quản lý, đề phòng mưu đồ nổi loạn. Ông lai dùng đủ các biện pháp để đoạn trừ liên hệ giữa Phật giáo với thế tục, hạn chế kinh tế tự viện, mưu đồ làm cho Phật giáo tự suy tàn. Minh Thành Tổ do nhờ thiền sư Đạo Diễn (Diêu Quảng Hiếu) chủ mưu, phát động "cuộc biến Tĩnh Nạn", đoạt được ngôi vua, nên đối với Phật giáo cũng có phần hỗ trợ, nhưng ông vẫn dùng Lý học làm tư tưởng chỉ đạo căn bản. Phật giáo đời Minh thực sự không còn sức mạnh để phát triển mà chỉ còn khả năng duy trì sinh tồn, vì vậy dù Thiền tông ra sức đề xướng và tiến hành dung hợp nội ngoại Phật giáo nhưng so với đời Tống thì tình hình ngày càng sa sút hẳn.