TỔ CHỨC CƠ BẢN CỦA TÙNG LÂM
Tùng lâm" còn được gọi là "Thiền lâm" vì Tùng lâm thông thường chỉ tự viện của Thiền tông. Nhưng về sau, tự viện các tông Giáo, Luật cũng mô phỏng quy chế Thiền lâm gọi là Tùng lâm. Chữ "Tùng lâm" ý nói là tăng chúng hòa hợp lại một nơi như rừng cây mọc quần tụ hoặc có nghĩa là thảo mộc sinh trưởng tề chỉnh để biểu thị có pháp độ quy củ.
Trong thời kỳ Thiền tông mới thành lập, tăng chúng đa số cư trú trong hang động hoặc ở chung trong chùa luật. Về sau, đồ chúng ngày càng ngày nhiều nên thường tụ tập lại một nơi để tu thiền vấn đạo. Bách Trượng Hoài Hải thấy tình hình này không hợp với chế độ lễ pháp truyền thống, trật tự trên dưới khó phân, đối với việc trụ trì thuyết pháp có nhiều bất tiện, nên kết hợp với quan niệm luân lý của Nho gia để lập ra "Thiền cư" riêng. Đây là hình thức tối sơ của Tùng lâm.
Theo sự phát triển phồn thịnh của Thiền tông, đến thời Đường Mạt, Ngũ Đại, quy mô Tùng lâm lớn lên không ngừng, thiền viện quy mô lớn bắt đầu hình thành. Bước vào đời Tống, việc xây dựng tổ chức Tùng lâm ngày càng hoàn thiện, thiền tăng cũng thường cư trú tập trung. Tùng lâm có thiền sư danh tiếng trụ trì thường có tăng chúng tụ tập nhiều đến vài trăm người. Thời kỳ Nam Tống, bộ phận chủ yếu của Phật giáo dần dần chuyển xuống phương nam, Tùng lâm do thiền sư danh tiếng trụ trì có số lượng tăng chúng nhiều trên ngàn người, chẳng hạn như chùa Vân Cư ở Giang Tây do Viên Ngộ Khắc Cần trụ trì, núi Kính Sơn ở Chiết Giang của Đại Huệ Tông Cảo, chùa Phổ Chiếu ở Tứ Châu và chùa Thiên Đồng ở Minh Châu do Thiên Đồng Chính Giác trụ trì, chùa Trường Lô Sùng Phúc ở Chân Châu do Trường Lô Thanh Liễu trụ trì.
Chế độ Tùng lâm lúc đầu chỉ lập ra Pháp đường, Phương trượng, Tăng đường và Liêu xá. Phương trượng là nơi ở của trụ trì (lấy ý từ phòng ngủ của Bồ-tát Duy-ma-cật chỉ một trường vuông mà dung lượng vô hạn), Pháp đường là nơi thuyết pháp, Tăng đường, tức Thiền đường là nơi thiền tăng ngày đêm tham thiền hành đạo; Liêu xá lập ra "thập vụ" (mười chức), chia ra phụ trách các vụ việc. Bách Trượng thanh quy lập ra "thập vụ" chủ yếu để quản lý toàn bỏ sự vụ việc làm trong thiền viện. Theo sự cải thiện của kinh tế thiền viện và sự thay đổi hình thức sinh hoạt của thiền tăng, chức năng của Tùng lâm cũng thay đổi. Kể từ sau bộ "Thiền viện thanh quy" soạn vào đời Tống, chức thập vụ về đại thể đã cố định, các chức này là: "Tứ tri sự" gồm Giám viện (chủ quản kinh tế tự viện), Duy na (chủ quản nhân sự, hòa hợp tăng chúng), Điển tọa (chủ quản ăn ở), Trực tuế (chủ quản hầu hết tạp vụ, tu sửa xây dựng...); "Lục đầu thủ" gồm Thủ tọa (vị đức hạnh cao nhất trong thiền tăng), Thư trạng (chủ quản văn thư), Tàng chủ (chủ quản Phật kinh điển tịch), Tri khách (chủ quản tiếp đãi thăm hỏi), Dục chủ (chủ quản nhà tắm), Khố đầu (chủ quản tài sản kho tàng). Do quy mô Tùng lâm về sau càng lớn, gia phong các tông cũng khác nhau nên vị trụ trì cũng tùy trường hợp tự lập ra các chức vụ khác, vì vậy danh mục chức vụ trong Tùng lâm rất nhiều, cấp bậc phân chia cũng rõ ràng hơn, sắc thái tông pháp cũng càng đậm nét. Đây là kết quả của quá trình tiến thêm một bước thế tục hóa và thích ứng với xã hội của Thiền tông.
.
Tượng đồng Phổ Hiền cỡi voi ở chùa Vạn Niên, núi Nga Mi. Tổng chiều cao 7m4. Bồ-tát mặc áo cà-sa, đầu đội kim quán hai tầng, thần thái trang nghiêm từ bi.
Trong tự viện Phật giáo, với danh nghĩa là chủ tự viện, mỗi vị trụ trì truyền dạy giáo nghĩa tông phái mà mình được truyền thụ cho người học, vì vậy tự viện vào thời kỳ đầu không có vấn đề truyền thừa tông phái một cách nghiêm cách. Sau thời Đường mạt, do vấn đề truyền y bát của Thiền tông, trụ trì tự viện cũng dần có cách gọi rõ theo từng đời (như Thiên Đồng Chính Giác thuộc Tào Động tông là trụ trì đời thứ 16 của chùa Thiên Đồng). Tuy nhiên, đặc điểm của tự viện về cơ bản vẫn thay đổi theo tông phái khác nhau của vị trụ trì trước và sau, và tông phái của vị trụ trì không liên quan đến thế đại của tự viện. Từ đời Nguyên, Minh về sau, tất cả tự viện đều chia thành ba loại là Thiền, Giáo, Luật, các tự viện phải theo đúng không được chuyển đổi, sự liên quan giữa tông phái và tự viện dần dần cố định. Với phương thức truyền thừa trụ trì khác nhau, Tùng lâm thời cận đại chia thành hai loại là "Thập phương" và "Tử tôn". Loại Thập phương là thiền viện thỉnh mời (thông qua tuyển cử) thiền sư danh tiếng ở các nơi về trụ trì, còn gọi là Thập phương tùng lâm. Loại Tử tôn là tự viện được truyền theo chế độ sư tư tưởng thừa (thầy truyền đệ tử), còn gởi là Giáp ất đồ đệ viện. Thông qua sự đồng ý của tăng chúng, loại Tử tôn có thể đổi thành loại Thập phương, nhưng ngược lại, về nguyên tắc thì không thể đổi từ loại Thập phương thành Tử tôn. Nói chung, tự viện không được mua bán nhưng tự viện loại Tử tôn qua sự đồng ý của hai bên, trong thực tế cũng có thể chuyển nhượng mua bán. Để khống chế Tùng lâm không thuộc tông phái gốc hoặc để dành chức trụ trì, trong lịch sử (cho đến thời cận đại) cũng có lúc xảy ra phân tranh.
THANH QUY TÙNG LÂM THỜI CẬN ĐẠIThanh quy là qui tắc tổ chức Tùng lâm (tự viện Thiền tông) và chương trình hành sự của thiền tăng. Từ sau khi Bách Trượng Hoài Hải lập ra, Thanh quy trải qua các đời được bổ sung thêm để thích ứng với nhu cầu thực tế đương thời. Từ đời Minh, Thanh về sau, Thiền tông và Tịnh độ tông trở thành hai tông phái chủ yếu của Phật giáo, Thanh quy của Tùng lâm trên thực tế đã trở thành quy tắc để tự viện Phật giáo tham chiếu tuân theo.
Tùng lâm thời cận đại tuân theo quy tắc hành sự của "Bách Trượng Thanh Quy" bản thông hành (Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy do Đức Huy đời Nguyên biên soạn có chín chương: 1. Chúc Hi, 2. Báo Ân, 3. Báo bản, 4. Tôn Tổ, 5. Trụ trì, 6. Lưỡng tự, 7. Đại chúng, 8. Tiết lạp, 9. Pháp khí), đồng thời qui định tường tận hơn một số nội dung trong đó, như ở bộ phận chủ yếu là chương 7 Đại chúng, trong phần hành sự có "Cộng trú quy ước" để thiền chúng Tùng lâm tuân theo.
Tùng lâm cận đại có rất nhiều quy định để thiền chúng cũng chấp hành, ở đây chỉ nêu một số điểm cơ bản như sau:
1. Kết hạ và Kết đông: Kết hạ có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ, tăng đồ Phật giáo Ấn Độ cổ vào ba tháng mùa mưa không được ra ngoài khất thực để tránh làm hại thảo mộc ấu trùng, chỉ ở trong chùa tọa thiền tu học, goi là "Hạ an cư" hoặc "Vũ an cư". Phật giáo Trung Quốc tiếp tục truyền thống này, gọi là "Hạ tọa" hoặc "Tọa hạ". Lúc bắt đầu gọi là "Kết hạ", khi kết thúc gọi là "Giải hạ" hoặc "An cư cánh" (An cư xong). Thời gian bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 Âm lịch.
Kết đông phỏng theo Kết hạ, tập hợp thiền chúng khắp nơi trong giang hồ đến để chuyên tu thiền pháp, nên gọi là "Giang hồ hội". Đây là hình thức do Phật giáo Trung Quốc lập ra, thời gian từ ngày 16 tháng 10 đến ngày 15 tháng giêng năm sau. Tùng lâm đời Thanh từng có một lần chỉ xem trọng Kết đông mà bỏ Kết hạ, về sau cũng không kiên trì, nên Tùng lâm cận đại vẫn thực hành Thanh quy "Đông tham Hạ giảng" (tức trong kỳ Kết đông chú trọng tọa thiền, Kết hạ chú trọng giảng thuyết). Trong kỳ Kết đông có một hoạt động tôn giáo quan trọng, gọi là "Đả thiền thất" hoặc "Đả thất" như thường gọi. "Đả thiền thất" là phương thức tu hành đặc thù của Trung Quốc, tập trung tọa thiền kéo dài trong một kỳ hạn, và cứ 7 ngày làm một kỳ cử hành thiền hội, từ một thất (bảy ngày) đến mười thất (mười đợt, mỗi đợt bảy ngày) không cố định, mục đích là để thiền tăng tăng nhanh sự lãnh ngộ trong môi trường và kỳ hạn đặc định.
Tượng Phật bằng đá đời Tùy.
2. Quải đơn: Còn gọi là "quải tích", "quải đáp". "Đơn" chỉ danh đơn của "lưỡng tự" hai bên đông tây của tăng đường. ("Lưỡng tự" còn gọi là "lưỡng ban", đây là thiền viện mô phỏng hai ban văn võ trong triều đình, dưới trụ trì lập ra hai ban đông và tây. Ban đông do người thông việc thế sự đảm nhiệm, gọi là "Tri sự", ban tây chọn người đức hạnh tri thức đều cao đảm nhiệm, gọi là "Đầu thủ". "Tích" là cây tích trượng, trượng cao ngang lông mày, đầu bộc thiếc là một trong các pháp khí. "Quải đơn" hay "quải tích" có nghĩa là treo y bát hoặc tích trượng lên tường dưới danh đơn ở hai ban đông tây. Thiền tăng do nhu cầu đi tham học nhiều nơi nên rất trọng việc vân du tứ phương. Thanh quy quy định, du phương tăng (vân thủy tăng, hành cước tăng) khi đến bất kỳ Tùng lâm nào đều có thể "quải đơn", nhưng do hai ban chưa liệt kê tên nên phải tạm trú ở Vân thủy đường, đợi treo đơn, khảo sát xong mới có thể tiến nhập vào Thiền đường, gọi là "an thiền", cùng Kết hạ với thành viên Tùng lâm (thường gọi là thanh chúng).
Tàng kinh các ở chùa Quy Nguyên, Vô Hán.
3. Phổ thỉnh: "Phổ thỉnh" thỉnh mời đại chúng tập hợp lại cùng tham gia làm việc. Đời Đường có không ít thiền sư đề xướng phương thức kết hợp nông thiền. Thông thường các công việc như canh tác, hái trà đều được tiến hành theo phương thức phổ thỉnh. Từ đời Tống về sau, hình thức tụng kinh sám hối, cầu phúc siêu sinh dần dần thịnh hành, kinh tế Tùng lâm rẽ sang hướng khác, phép phổ thỉnh trong thực tế chỉ giới hạn ở một số công việc nhẹ nhàng. Phật giáo cận đại đề xướng cách tân, kiến lập "Phật giáo nhân gian", phép phổ thỉnh lại được xem trọng trở lại. Tùng lâm cận đại quan niệm tu hành cũng có thể tham gia sản xuất, xem lao động sản xuất là một trong những Phật sự, từ canh tác ruộng vườn, khai khẩn trồng cây cho đến cứu chữa bệnh tật, Thiền lâm đều mang lại nhiều cống hiến.