NHỮNG NHÂN VẬT QUAN TRỌNG TRONG THIỀN TÔNG THỜI CẬN ĐẠI
Chính sách "Hỗn dung Phật giáo" trong thời kỳ Minh, Thanh đã làm cho ranh giới giữa Thiền tông và Tịnh độ tông trong thời này hết sức mơ hồ. Tự viện Phật giáo thời cận đại gần như toàn bộ đều là tùng lâm Thiền tông, nhưng thiền tăng lại hầu như không xa rời với pháp môn niệm Phật.
Thời kỳ Thái Bình Thiên Quốc phản đối sùng bái thần tượng, bài xích Phật giáo, Đạo giáo, phần lớn chùa miếu đều bị quân Thái Bình phá hủy, Phật giáo bị đánh phá nặng nề. Cuối đời Thanh đầu thời Dân quốc, tư trào mới nổi lên, Phật giáo lại bị tấn công. Do những nguyên nhân này, Phật giáo cận đại chuyển trọng tâm sang hướng nghiên cứu Phật học, muốn thông qua nghiên cứu Phật học để "trung hưng Phật giáo", mà thành phần chính trong nghiên cứu Phật học đa số là cư sĩ. Riêng trong Thiền tông đã lần lượt xuất hiện những thiền sư đã thành tựu lớn về phương diện tư tưởng cũng như thực tiễn. Ở đây xin giới thiệu sơ lược vài thiền sư có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo hiện nay.
- Thiền sư Kính An, họ thế tục là Hoàng, tự Ký Thiền, người Tương Đàm, Hồ Nam. Năm 17 tuổi (1867) theo hòa thượng Đông Lâm, chùa Pháp Hoa, Tương Âm xuất gia, sau đến chùa A Dục Vương lễ bái xá lị Phật, đốt hai ngón tay cúng dường, xưng là "Bát chỉ Đầu-đà" (Đầu đà tám ngón tay). Trong đời của mình, Kính An dùng thi văn để kết giao với hào kiệt hiền sĩ, lưu lại nhiều áng thơ, trong đó có những câu nổi tiếng như "Ngã tuy học Phật vị vong thế" (Ta tuy học Phật nhưng chưa quên thế gian), "Quốc cừu vị báo lão tăng tu" (Thù nước chưa báo lão tăng thẹn), thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt, vì vậy được ca ngợi là vị thi tăng ái quốc thời cận đại.
- Thiền sư Ứng Từ, họ thế tục là Dư, tên Đạc, hiệu Chấn Khanh, biệt hiệu Hoa Nghiêm tọa chủ, người huyện Hấp, tỉnh An Huy. Năm 24 tuổi (1896) theo hòa thượng Minh Tính ở núi Phổ Đà sơn xuất gia, sau đến chùa Thiên Đồng ở Ninh Ba thụ giới cụ túc, thầy thụ giới là thiền sư Ký Thiền, đắc pháp nơi thiền sư Dã Khai chùa Thiên Ninh là đời thứ 42 tông Lâm Tế. Về sau đến chùa Hưng Phúc, Thường Thục hiệp trợ Nguyệt Hà sáng lập đại học Hoa Nghiêm.
- Thiền sư Thái Hư, họ thế tục là Lữ, tên Cam Sâm, pháp hiệu Duy Tâm, người Sùng Đức, Chiết Giang. Năm 16 tuổi (1904) xuất gia, cũng trong năm này thụ giới cụ túc với thiền sư Ký Thiền ở chùa Thiên Đồng, Ninh Ba. Sau khi Ký Thiền qua đời, Thái Hư đưa ra khẩu hiệu cải cách giáo lý, giáo chế, giáo sản, cổ xuy "vận động phục hưng Phật giáo", kiến lập chế độ tăng đoàn mới. Thái Hư còn đưa ra nhiều chủ trương mới như "Phật giáo nhân sinh", "Phật giáo nhân gian", "Tịnh độ nhân gian". Từ sau năm 1949, giới Phật giáo thực hành kiêm trọng nông thiền, xem "trang nghiêm quốc độ, lợi lạc hữu tình" là trách nhiệm, đề xướng "Phật giáo nhân gian", ít nhiều đều chịu ảnh hưởng từ tư tưởng cách tân của Thái Hư.
- Thiền sư Viên Anh, họ thế tục là Ngô, tên Hoằng Ngộ, biệt hiệu Thao Quang, người Cổ Điền, Phúc Kiến. Năm 18 tuổi (1895) xuất gia ở chùa Dũng Tuyền, Cổ Sơn, Phúc Châu, thụ giới cụ túc với hòa thượng Diệu Liên. Viên Anh là thiền sư tông thuyết đều thông, hành giải tương ứng. Trước sau đảm nhiệm trụ trì các chùa Thiên Đồng ở Ninh Ba, chùa Tuyết Phong ở Phúc Châu, chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn. Trong thời kỳ kháng chiến, Viên Anh từng tổ chức đội cứu hộ tăng lữ, sở thu nhận dân gặp nạn và đi Nam Dương thu góp kinh phí hỗ trợ kháng chiến.
- Thiền sư Hư Vân, họ thế tục là Tiêu, sơ danh Cổ Nham, tự Đức Thanh, người Tương Hương, Hồ Nam. Năm 1883 đền chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn, Phúc Châu xuất gia, thụ giới cụ túc với hòa thượng Diệu Liên. Từng tham học khắp cắc tùng lâm Kim Sơn, Thiên Đồng, Thiên Ninh. Trụ trì qua các chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn, chùa Vân Môn, chùa Nam Hoa ở Quảng Đông, văn niên trụ trì chùa Chân Như ở Vân Cư sơn, Giang Tây. Công phu thiền pháp và khổ hạnh của thiền sư Hư Vân được giới Phật giáo Trung Quốc và thế giới rất kính trọng, là một trong những nhân vật tiêu biểu của Thiền tông Trung Quốc thời cận đại.
ẢNH HƯỞNG CỦA THIỀN TÔNG VỚI THI TỪ TRUNG QUỐCDưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông và môi trường xã hội, tham thiền ngộ đạo trở thành một phần của đời sống tinh thần giới văn nhân sĩ đại phu bên cạnh cầm kỳ thi họa. Tác phẩm của những thi sĩ như Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên, Liễu Tông Nguyên, Bạch Cư Dị đều mang dấu ấn của thiền, nhiều bài thơ thể hiện tâm cảnh siêu nhiên thoát tục, mang đầy thiền vị.
Thiền và thơ từ đời Đường về sau ảnh hưởng nhau rất sâu sắc. Cả hai đều cần sự cảm thụ và thể nghiệm vi diệu, đều chú trọng ẩn dụ và khải thị sâu xa, truy cầu "ý tại ngôn ngoại". Hòa thượng Trì Không bình thơ Trần Tá Tài có nói: "Nay sơn tãng bình thơ với cư sĩ, cư sĩ luận thiền với sơn tãng, vì sao vậy? Vì từ xưa trong cảnh giới mỹ diệu của thơ đã có thiền, gợi thơ là thiền, hay thiền là thơ, nói thế nào cũng được vậy". Nguyên Hiếu Vấn cũng có câu thơ nói về thiền và thơ: "Thi vị thiền khách thiêm hoa cẩm, thiền thị thi gia thiết ngọc đao" ý là thơ thêm hoa gấm cho thiền khách, thiền là cây "thiết ngọc đao" của thi nhân. Qua sự thể nghiệm thiền, những tao nhân mặc khách dùng thi từ để biểu đạt thiền lý, và thiền sư thông qua thù xướng với văn nhân diễn bày tư tưởng đối với nhân sinh vũ trụ.
Thơ Vương Duy bàng bạc thiền vị. Hai câu thơ của ông: "Đi đến tận nguồn suối, ngồi ngắm áng mây trôi" (Hành đáo thủy cùng xứ, tọa khán vân khởi thời - Chung Nam biệt nghiệp) thể hiện cảnh giới tinh thần siêu nhiên tự tại, không vướng bận trần thế. Ý cảnh này bắt nguồn từ tư tưởng "nhiệm tình", "vô trụ" của Thiền tông. Bài thơ Lộc trại:
Không sơn bất kiến nhân
Đãn văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.
Tạm dịch:
Núi vắng người không thấy
Nhưng lại nghe tiếng ai
Nắng xuyên vào rừng thẳm
Trên rêu xanh sáng ngời.
.
Tùng hác vãn tuyễn đỗ, tranh của Tống Húc (1525 -?) đời Minh. Tống Húc, tự Thạch Môn, người Gia Hưng, Chiết Giang, sau xuất gia, pháp danh Tổ Huyền. Bức họa màu sắc thanh nhã, bố cục thoáng nhưng không bị phân tán rời rạc.
Hay bài Điểu minh giản:
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không
Nguyệt xuất kinh sơn điểu
Thời minh thâm giảng trung.
Tạm dịch:
Nhàn trông hoa quế rụng
Núi xuân lặng đêm thâu
Trăng mọc chim hoảng hốt
Kêu vang giữa khe sâu.
Cũng gợi lên ý cảnh khó có thể ngôn thuyết, chỉ có thể thông qua sự thể nghiệm thiền mới có thể diễn tả được, chỉ trong sự giao hòa nhất thể giữa con người với vũ trụ mới có thể đạt đến. Liễu Tông Nguyên co bài thơ Giang tuyết đầy họa ý và thiền vị:
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kinh nhân tung diệt
Cô chu thoa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết.
Tạm dịch:
Chim bay tuyệt bóng nghìn non
Dấu người vạn nẻo lối mòn mù không
Nón tơi một lão ngư ông
Thuyền đơn lạnh lẽo câu sông tuyết đầy.
Bài Trừ Châu tây giản của Vi Ứng Vật cùng là một bức tranh tả ý tuyệt diệu:
Độc liên u giản thảo biên sinh
Thượng hữu hoàng ly thâm thụ minh
Xuân triêu đải vũ vãng lai cấp
Dã độ vô nhân chu tự hoành.
Tạm dịch:
Thương cho cỏ rũ bên khe
Trên cành cây rậm oanh về kêu vang
Mùa xuân kéo sụp chiều tàn
Thuyền không bỗng tự quay ngang giữa dòng.
Những bài thơ này tuy không trực tiếp nói về thiền, nhưng lại thấm đẫm chất thiền, ý tượng phong phú, cảnh giới cao viễn. Ngoài ra cũng có nhiều bài thơ trực tiếp đưa thiền vào thơ nhưng thường lại thiếu ý vị, giá trị nghệ thuật không cao.
Văn nhân sĩ đại phu không buông bỏ cuộc sống hưởng thụ vật chất của thế tục, nhưng đồng thời cũng rất thích tìm lạc thú tinh thần cao nhã u huyền. Họ đưa thiền vào thơ làm phong phú thêm đề tài và thi tứ, ký thác tâm cảnh trước sự biến huyễn của thế sự, nỗi khổ của nhân sinh và truy tìm thế giới lý tưởng. Tô Đông Pha có câu: "Tạm tá hảo thi tiêu vĩnh dạ, mỗi phùng giai xứ triếp tham thiền" (Tạm mượn thơ hay khuây nỗi vắng, khi gặp đúng chỗ ắt tham thiền). Đối với Tô Đông Pha, thơ hay thì phải liên quan đến thiền, vì ý cảnh của thơ và thiền tương thông nhau. Ông có bài thơ để trên vách chùa Tây Lâm ở Lô Sơn:
Hoành khan thành lĩnh trắc thành phong
Viễn cận cao đê các bất đồng
Bất thức Lô Sơn chân diện mục
Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.
Tam dich:
Nhìn ngang thành nhọn vọt nghiêng cao
Gần xa cao thấp khác hẳn nhau
Chẳng hiểu Lô Sơn chân diện mục
Chỉ theo thân đặt núi non vào.
.
Ngư lam Quan Âm. Được truyền từ Ấn Độ vào Trung Quốc khoảng đời Hán, Tần. Quan Âm là vị Bồ-tát có ảnh hưởng lớn nhất và được tín ngưỡng nhiều nhất trong dân gian Trung Quốc. Theo sự truyền bá sâu rộng của Phật giáo, người Trung Quốc đã sáng tạo ra nhiều pháp thân Quan Âm, trong đó Ngư lam Quan Âm (Quan Âm xách giỏ cá) là một hình tượng rất quen thuộc trong dân gian.
Lô Sơn nhìn ngang là dãy núi trải dài, nhìn nghiêng thì như ngọn núi cao vút, xa gần cao thấp đều khác nhau. Không biết đâu là chân diện mục của Lô Sơn, chỉ vì ta ở giữa Lô Sơn. Nhân sinh và vũ trụ hòa nhập thành nhất thể, bài thơ cho thấy sự lãnh ngộ thiền sâu sắc của thi nhân. Thi phái Giang Tây với Hoàng Đình Kiên đứng đầu là thi phái không dùng những ngôn từ phố biển, sáo rỗng, thích truy tìm điển cố trong kinh Phật, ngữ lục, hình thành một phong cách độc đáo. Lữ Cư Nhân có nói, chỗ hay của thơ Hoàng Đình Kiên "nói theo kiểu thiền gia là làm rắn chết sống lại" ("tử xà lộng đắc hoạt", ý nói thiền cơ hoạt bát, thủ pháp cao minh). Trong đời Minh, Viên Hoằng Đạo của phái Công An chủ trương diễn tả tính linh, "không gò bó theo khuôn phép, không từ trong lòng tuôn ra thì không hạ bút". Ông tự xưng là có kiến giải độc đáo đối với thiền, thơ chủ yếu mượn đề tài sơn lâm tuyền thạch để diễn tả thiền ý, ngôn ngữ mới lạ, trôi chảy tự nhiên, cao nhã mỹ diệu.