← Quay lại trang sách

Chương 10 89

Bắc Kinh, thành phố của bụi bặm.

Kinh ôm một mớ báo về. Mặt anh mỗi ngày càng thêm sa sầm. Việc thương lượng với quân đội Nhật đã thất bại. Chiến tranh tới gần. Chính quyền trung ương của Tưởng Giới Thạch kêu gọi nhân dân Trung Hoa kháng chiến chống lại giặc ngoại xâm. Trong thành phố, việc di tản bắt đầu. Hàng ngàn người Bắc Kinh đeo ba lô trên lưng bắt đầu đổ dồn xuống phía Nam.

Từ khi chúng tôi tới thành phố. Kinh cấm tôi không được rời khách sạn. Khi anh ở nhà, tôi không chịu dậy. Anh hối hận vì đã lôi kéo tôi tới cái chết và tội lỗi này khiến anh cáu bẳn. Anh trở nên đáng tởm. Ngày càng xấu đi. Tóc anh quá dài. Anh gặm móng tay. Anh ăn uống rất bẩn thỉu.

Tôi quấn mình trong một chiếc khăn rải giường trắng như khăn liệm, hơi một tí là vặc nhau với Kinh ngay: mì nguội quá, trà đắng quá, muỗi nhiều quá. Cái nóng kinh người khiến tôi đổ lên đầu anh một lô những lời than phiền. Đa phần là anh im lặng một cách khinh miệt. Đôi khi anh nổi cáu. Cơn giận làm mặt anh đỏ bầm, toàn thân run rẩy, anh nhẩy xổ vào tôi và đinh bóp cổ tôi.

Tôi hét lên:

- Được lắm, giết tôi đi! Anh đã chẳng giết bao nhiêu bạn anh rồi là gì!

Mặt anh méo đi giật giật. Tôi như thấy hồn ma của Mẫn trong mắt anh.

Rốt cuộc là tôi cũng đưa cho anh địa chỉ của anh họ tôi và yêu cầu mời anh anh họ tôi đến gặp tôi. Mới đầu Kinh nổi cáu, nhưng khi biết rằng Lữ đã lấy vợ, anh vui vẻ đi tìm Lữ.

Khi anh ta ra ngoài, tôi mới thở được một chút.

Không có Kinh, phòng chúng tôi trở nên thoáng và sáng sủa hơn. Tôi dậy, rửa mặt và chải tóc bên cửa sổ mở.

Khách sạn chúng tôi ở tại Bắc Kinh chỉ có một tầng. Các phòng xây quanh một cái sân vuông, chính giữa có một cây táo. Trong phố bên kia tường, trẻ con nói chuyện bằng tiếng Bắc Kinh thuần giọng. Tôi nghe trong âm điệu của chúng tiếng của đổi thủ cờ vây của tôi. Giọng anh hơi khác hơn một chút, chữ “r” đáng phải rung, anh lại bật chúng qua môi. Tôi như nhìn thấy chúng tôi trên đồi Bảy Kỳ quan đổ nát nơi anh trông giữ giấc ngủ cho tôi. Quảng trường Thiên Phong, đôi khi anh mở quạt, chẳng phải để tự quạt mát cho mình mà anh làm sao cho chút gió phảng phất qua mặt tôi. Kỷ niệm này làm tôi đau lòng. Tôi vẫn không hiểu tại sao anh từ chối. Tại sao những kẻ biết hạnh phúc của mình ở đâu lại cứ tìm cách trốn chạy?

Nhiều máy bay bay qua bầu trời rồi tôi nghe có tiếng gầm trầm trầm. Ngoài phố người ta kêu lên rằng quân Nhật đang đe doạ phá tan thành phố.

Không khí ở Bắc Kinh khô hơn ở Mãn Châu chúng tôi. Dưới ánh nắng trắng chói chang, mọi thứ đều hắt nắng, lung linh, vỡ oà ra và tan biến trong một màu xám tro.

Vừa dậy mà tôi đã buồn ngủ. Thành phố Bắc Kinh của tổ tiên tôi là một giấc mộng mà tôi không sao thoát ra được.

Quay về giường tôi ngồi gà gật. Gương mặt của ba mẹ hiện ra chập chờn và làm tôi buồn. Rồi tôi từ từ quay lại quảng trường Thiên Phong, đến với bàn cờ. Thật hạnh phúc biết bao khi được nắm lại những quân cờ đá lạnh trong tay. Người Lạ mặt đã lại ngồi trước mặt tôi, bình thản như một pho tượng. Chúng tôi chơi tiếp. Anh đi theo một con đường ngoằn nghèo về phía Đất Lành.

Đêm đến, Kinh lắng nghe tiếng động của các cuộc giao tranh. Anh tựa vào tường mà ngủ. Đột nhiên những tiếng thét kinh hoàng của anh làm tôi thức giấc. Anh ôm đầu giẫy dụa như một người bị ma ám. Tôi ra khỏi giường và ôm lấy anh. Làm sao mà bỏ rơi Kinh được?

Tảng sáng anh lay tôi dậy. Anh đã quyết định: thà là mạo hiểm cho dù phải chết dưới bom Nhật bằng cách đi về phía Nam còn hơn ngồi chờ bị thảm sát. Tôi hối hận đã bồng bột theo anh. Tôi muốn có tự so và giờ đây lại là tù nhân của Kinh.

- Em phải nói chuyện với anh họ em. Anh ấy là bà con duy nhất của em ở đây. Mình phải tìm ra anh ấy và rủ anh ấy đi cùng.

Ánh mắt Kinh trở nên hằm hằm:

- Ban nãy anh bảo là anh Lữ đã chuyển nhà là anh nói dối em đấy. Anh đã gặp vợ anh Lữ rồi. Chị ấy đang như phát rồ. Anh Lữ bỏ rơi chị ta, vào bộ đội rồi. Có khi bây giờ anh ấy chết rồi cũng nên.

- Anh nói dối! Trả địa chỉ anh Lữ đây.

- Đây, rồi em sẽ thấy thôi.

Tôi biết rằng Kinh nói thật. Tôi tuyệt vọng kêu lên:

- Tôi muốn về Mãn Châu. Chúng ta chia tay nhau ở đây. Tôi sẽ về nhà, tôi muốn tiếp tục ván cờ của tôi.

- Muộn mất rồi, không còn đường đi lại nữa. Quân đội Nhật trưng dụng hết tầu hảo rồi. Em không còn cách nào khác, phải theo anh.

- Anh ghen với Mẫn. Anh lôi tôi ra khỏi thành phố của tôi để xoá kỷ niệm của Mẫn đối với tôi.

- Mẫn ngủ với em cho vui. Chớ có quên rằng Đường mới là người yêu dấu của cậu ta, thầy và vợ cậu ta.

Kinh tưởng làm tôi đau nhưng tôi cười phá lên:

- Anh nhầm rồi, chuyện Mẫn đã xong. Tôi chôn anh ta trong tim tôi rồi. Mà tôi có bao giờ yêu anh ta đâu. Chúng tôi rất đẹp. Vẻ đẹp đó khiến tôi mãn nguyện. Tôi thích thấy cả hai anh ghen nhau. Bây giờ tôi mới hiểu rằng đó cũng chỉ là phù phiếm mà thôi. Anh nghe chưa, trở thành đàn bà cũng là phù phiếm.

Mặt Kinh tím lại, anh lạnh lùng nhìn tôi.

- Cô đùa với tình cảm của tôi, tôi tha thứ cho. Thân thể cô ô uế. Chẳng ai thèm cưới một con mất trinh về làm vợ đâu. Trên đời này chỉ còn có tôi yêu cô và tôi lấy một con đàn bà đã ngủ với thằng bạn thân nhất của tôi. Cô chỉ có tôi thôi! cô thuộc về tôi!

Mẫn cũng bảo rằng thể xác tôi thuộc về anh ta. Anh ta đòi hỏi tôi phải giữ mình tròn vẹn cho anh ta còn anh ta trao thân cho một người đàn bà khác. Quả là Kinh cũng giống Mẫn. Tôi xúc động đến trào nước mắt:

- Có một người khác yêu tôi và tôi vừa mới hiểu ra rằng tôi cũng yêu người ta mà không biết. Tôi quay trở về Thiên Phong tìm anh ấy, anh ấy chờ tôi.

- Đồ dối trá. Nó la ai? Ở đâu ra? Tên nó là gì, nào, cho tôi biết xem nào?

Đột nhiên tôi nhận ra mình không biết tên anh. Tôi không biết gì ngoài tâm hồn anh.

Thấy tôi ngập ngừng, Kinh yên tâm. Anh ôm tôi. Tôi tát cho anh ta một cái nhưng anh ta đã đặt được môi lên trán tôi.

- Đi với anh! Đừng giở trò trẻ con ra nữa. Đến Nam Kinh, chúng mình sẽ bắt đầu một cuộc đời mới.

90.

Hàng đàn ruồi bay vù vù.

Trên cánh đồng, đạn pháo cày lên những rãnh sâu. Đồng ruộng bị tàn phá, đâu đâu cũng có xác chết. Vài xác còn giữ được bộ mặt màu sáp ong, mồm há ra. Nhiều xác khác chỉ còn là một đống thịt trộn lẫn trong bùn.

Đội quân chúng tôi từ từ tiến qua bãi tha ma rộng lớn này. Binh lính bị kẻ thù bao vây đã chống cự đến người cuối cùng. Tôi hiểu rằng cuộc chiến của chúng tôi ở Mãn Châu chống lại quân khủng bố chỉ là một trò chơi ú tim. Cho tới lúc đó, tôi vẫn còn chưa hiểu hết mức độ và sự khủng khiếp của chiến tranh.

Chúng tôi lọt vào ổ đạn trong một làng hoang vắng. Tôi lao mình xuống sát đất. Một trận mưa đạn chiu chít băm xuống mặt đất trắng ra vì nắng hạn. Sau vài loạt đạn, chúng tôi mới biết rằng nhóm quân tấn công chúng tôi chỉ có vài tay kiên cường bám lại để ngăn bước tiến quân Nhật. Kèn nổi hiệu tấn công. Bọn Trung Quốc chạy như thỏ trong cuộc thi bắn của thợ săn.Tôi nhằm vào một tên chạy nhanh nhất đang sắp lủi vào đến bìa rừng và bóp cò. Hắn ngã sấp xuống bên một gốc cây.

Giữa trưa lại có một trận tấn công ác liệt nữa. Quân Trung Quốc trở nên điên cuồng trong tuyệt vọng. Tôi nằm rạp trên một sườn dốc. Đất nóng bỏng. Mùi cỏ dịu nhắc tôi nhớ tới cô gái chơi cờ vây. Trước mặt tôi, một người lính bị trúng đạn vào lưng lăn lộn gào rú. Tôi nhận ra người của tôi, người mà tôi gần gũi nhất. Chúng tôi vừa ăn mình sinh nhật lần thứ mười chín của cậu ta xong.

Tôi muốn chôn cậu ta ngay sau khi kết thúc trận đánh nhưng lệnh lên đường đã phát ra và tôi phải để cái xác lại cho trung đoàn đi sau. Sự bất công theo đuổi chúng tôi ngay cả sau khi chết. kẻ nào may mắn sẽ được thiêu ngay trên chiến trường còn những người khác có khi lại bị ném xuống một hố chôn chung. Những kẻ kém may mắn nhất sẽ bị người Trung Quốc nhặt xác, chặt đầu bêu trên cọc nhọn.

Ngày đầu tiên tham chiến nàyquả là một cơn ác mộng dài. Không có gì khiến tôi xúc động, cả trận chiến khủng khiếp lẫn cuộc hành quân làm kiệt sức, cả cái chết của nhiều người lính của tôi. Tôi bước đi trong một thế giới nhồi bông, nơi cái chết và sự sống đều là đáng khinh, Lần đầu tiên, cuộc phiêu lưu chiến trận đã không làm tôi hứng khởi nữa: chúng tôi tiến tới số phận của mình như những con cá hồi bơi ngược dòng sông. Chẳng cò gì là đẹp, là cao cả trong hành động đó.

Chiều tối, đại tá thấy tôi lầm lì và trầm tư, nghĩ ngay là tôi bị cảm nắng. Tôi mặc cho lính buộc khăn ướt lên đầu. Nằm dài trên ổ rơm, tôi nhìn lên trần tối của ngôi nhà tranh. Tôi chán ghét bản thân tôi.

Sáng sớm tinh mơ, có tiếng đạn rít và súng nổ. Chúng tôi ném trả bằng lựu đạn. Trung liên bắn tiếp theo. Đột nhiên chúng tôi nhận ra tiếng kèn xung trận trong tiếng nổ ầm ầm.

Sư đoàn vừa tấn công chúng tôi cũng là quân Nhật. Nhầm lẫn này đã giết chết nhiều binh lính.

91.

Bếp lửa cháy bập bùng tí tách.

Kinh ngáy.

Quanh tôi hàng trăm người tản cư đang ngủ. Con người đang di tản trông giống như bầy hươu trốn chạy hạn hán. Họ gày gò, ốm yếu. Giấc ngủ của họ cũng nặng nề như nỗi lo âu.

Tôi lấy trong túi ra một đôi kéo và cắt tóc ngắn hết sức với của tay tôi. Tôi dặt hai bím tóc buộc lại bằng một dài ruy băng cạnh Kinh, bước qua khoảng một chục thân người và lao vào đêm tối.

Vào đến rừng, tôi cởi váy và mặc bộ quần áo lấy của Kinh.

Sau đám cây, bình minh nhợt nhạt bắt đầu soi sáng đồng bằng Bắc Kinh. Tôi đi ngược chiều với những đoàn tản cư lên đường từ sáng sớm. Đàn bà đeo nặng ba lô, một tay kéo trẻ con, tay kia dắt dê theo. Nghe có tiếng trẻ mới đẻ khóc. Đàn ông cõng bố trên lưng hoặc may mắn hơn tìm được cho cha họ một chiếc xe đẩy. Một bà cụ già có lẽ đến gần trăm tuổi ôm chặt trong tay một con gà mái. Chân bà bó và mỗi bước đi khiến bà lảo đảo.

Từ khi chúng tôi rời Bắc Kinh, cảnh tượng hầng ngày này khiến tôi đau khổ. Tôi không ân hận đã theo Kinh trong nỗi đoạn trường này của anh. Nhờ anh, tôi được biết đến sức mạnh của một dân tộc bị xua đuổi khỏi mảnh đất của mình. Kiên trì đi về phía Nam cũng có nghĩa là sự phản đối thầm lặng chống lại cái chết. Những người đàn ông đàn bà này tạo nên một làn sóng pha trộn cả nỗi căm thù và lòng hi vọng. Sự khăng khăng rồ dại này sẽ đi cùng tôi cho tới tận cùng nỗi cô đơn của tôi.

Tôi cũng khát khao cuộc sống như họ. Tôi muốn về Mãn Châu, về với mái nhà của tôi, bàn cờ của tôi. Tôi sẽ chờ người chơi cờ lạ mặt ở quảng trường Thiên Phong. Tôi biết anh sẽ đến vào một buổi chiều, như lần đầu tiênh chúng tôi gặp nhau.

Trưa đến, tôi ngồi dưới một gốc cây ven đường, bẻ ăn từng vụn một chiếc bánh cũ từ ba hôm nay. Tiếng ầm ầm của máy bay, tiếng nổ xa xa đối lập hẳn với sự im lặng của đám đông đang dấn bước. Trong dòng người bắt đầu thấy xuất hiện những người lính Trung Quốc đầu tiên. Quân phục vấy máu, mặt ám khói súng, họ làm tôi nhớ đến những binh lính chiếm nhà chúng tôi vào năm 1931 sau khi trốn chạy trước quân Nhật: mắt họ mệt mỏi và toát lên sự tàn nhẫn của những người đã để cho người khác giết mất người thân của mình.

- Bắc Kinh thất thủ rồi! Chạy nhanh lên!

- Bọn Nhật đến rồi! Ác quỷ đến rồi!

Tiếng kêu, tiếng khóc nổi lên. Đột nhiên tôi thấy Kinh khập khiễng chạy ngược dòng với người di tản. Tôi nấp sau một gốc cây. Anh đi qua cách tôi dăm bước chân và hỏi một người đàn bà xem bà ta có thấy một cô gái nhỏ bé xanh xao, tóc cắt ngắn ăn bận kiểu con trai hay không. Giọng anh như chực vỡ oà lên. Tay cầm đôi bím tóc của tôi, anh nhổ nước bọt và vừa cất tiếng gọi vừa chửi rủa tôi.

Tiếng kêu của anh như xé lòng tôi: anh vì em đã từ địa ngục trở về đây, sao em nỡ tàn ác đầy đoạ anh!

Rốt cuộc anh cũng đi xa dần.

Đột nhiên, một chiếc máy bay đã lượn từ một lúc lâu trên đầu chúng tôi thả xuống một quả bom, rồi một quả nữa. Tiếng nổ hất tôi ngã xuống đất. Tôi ngất đi. Khi tôi tỉnh lại, đám đông đang chạy tan tác như một đàn kiến đang đi bỗng bị một khách bộ hành dẫm chân lên phá đám.

Tôi đứng dậy, tay tôi chảy máu. Trên trời tiếng động cơ ngày càng dồn dập. Nhiều máy bay đang tiến gần! Tôi chạy vội về phía cánh đồng.

Quân Nhật ném bom vào các con đường. Tôi lang thang ngoài ruộng, không biết trốn đi đâu nữa. Đầu tôi ong ong, cánh tay nặng trĩu. Biết bao giờ mới tỉnh được cơn ác mộng này đây.

Khi trời sẩm tối, tôi thấy bóng dáng một ngôi làng và rảo bước.

Làng im ắng khác thường. Trong bóng tối, cửa rả đều để ngỏ, đồ gỗ vỡ nát rải rác khắp đường. Xa hơn, tôi thấy có nhiều xác chết: bốn nông dân đã bị đâm chết bằng lưỡi lê. Trong các ngôi nhà không còn con vật nào sống sót, không một hạt thóc, không một sợi rơm trong các bếp lò. Sau cuộc thảm sát, quân Nhật đã vơ vét hết.

Tôi không còn sức đi tiếp. Tôi vào một căn nhà mái rạ vắng tanh. Nhớ một bài thuốc xưa của mẹ dạy. Tôi lấy tro nguội đắp vào vết thương rồi cuốn lại bằng một mảnh vải xé ra từ áo sơ mi. Tôi rúc vào bếp lò lạnh ngắt và bật lên nức nở.

Sáng ra có tiếng ồn ào khủng khiếp làm tôi thức giấc. Tôi nghe có người thét lên bằng một thứ tiếng xa lạ.

Tôi mở mắt.

Lính đang chĩa súng vào tôi.

92.

Bắc Kinh đã thuộc về chúng tôi.

Chúng tôi được lệnh lùng sục quanh vùng tìm các tên gián điệp và binh lính Trung Quốc bị thương, tất cả đều phải bị tiêu diệt.

Sáng nay, quân tôi phát hiện một thằng cha đáng ngờ. Họ trói tay hắn ra sau và lôi đến giữa làng.

Đó là một tên gián điệp còn trẻ, tóc tai lởm chởm, bị thương ở cánh tay. Bộ quần áo sinh viên quá khổ nom hắn như bơi ở trong. Hắn bướng bỉnh cúi đầu và im lặng một cách láo xược.

Binh lính bắt đầu lên cò súng.

Trung uý Hayashi cùng chỉ huy với tôi ngăn họ lại. Anh ta rút thanh gươm và bảo:

- Trung uý, anh vẫn khoe thanh gươm truyền đời từ thế kỷ 16 của nhà anh. Gươm của tôi kém đến một trăm tuổi nhưng hồi đó được coi là “lưỡi gặt đầu”. Tôi thử cho anh xem nhé.

Các tay lính khoái trí trước cảnh tượng sắp được xem, tặc lưỡi và í ới gọi nhau.

Hayashi dạng chân, khuỵ gối xuống giống như tư thế cuả các samurai trong tranh cổ, anh giơ gươm lên quá đỉnh đầu.

Người tù từ từ ngẩng đầu lên.

Tôi chóng mặt.

- Khoan đã!

Tôi lao tới chàng thanh niên và lau khuôn mặt đen ngòm vì bùn và khói súng. Những nốt ruồi nhỏ hình giọt lệ lộ ra.

- Đừng động vào tôi, em kêu lên.

- Đàn bà, Hayashi kêu lên và cất gươm trở lại vào bao.

Hắn đẩy tôi ra, xô ngã người tù và lùa tay vào trong quần.

Tim tôi buốt lạnh. Em tôi! Em làm gì ở đây, trong ngôi làng này? Em rời Mãn Châu từ bao giờ?

- Đàn bà! Hayashi khẳng định đầy kích động.

Thiếu nữ vừa giãy dụa vừa thét lên chói tai. Hắn tát cô hai cái, kéo giầy và tụt quần cô ra. Hắn tháo thắt lưng. Binh lính như bị mê hoặc quây thành vòng xung quanh.

- Chúng mày tránh ra, ai cũng có phần cả! Hayashi ra lệnh.

- Đồ ngu!

Tôi nhảy xổ và tên trung uý. Hắn tức giận quay về phía tôi. Khi nhìn thấy khẩu súng của tôi chĩa vào sát trán, hắn bật cười:

- Đồng ý, anh dùng trước. Dù sao thì cũng là phát hiện của anh.

Tôi không trả lời. Hắn tưởng hiểu ý tôi và thì thầm vào tai:

- Lần đầu đúng không? Này, nếu cậu ngại làm trước mặt mọi người, vào trong cái đền kia, tớ gác cửa cho.

Hayashi kéo tôi vào ngôi đền trước mặt. Hai tên lính khiêng cô gái và ném lên sàn. Chúng vừa khép cửa vừa cười khinh khích.

Em run lẩy bẩy. Tôi cởi áo khoác che đôi chân trần của em.

- Em đừng sợ, tôi nói bằng tiếng Trung Quốc.

Giọng tôi làm em rùng mình. Em mở tròn mắt và nhìn tôi. Một nỗi đau vô hạn bóp méo gương mặt em. Đột nhiên, em nhổ vào tôi và bắt đầu nức nở, lăn xuống đất.

- Giết tao đi, giết tao đi!

Hayashi đập cửa, tôi nghe tiếng hắn cười gằn:

- Trung uý nhanh lên. Lính của tôi không nhin được nữa rồi!

Tôi ôm cô gái Trung Hoa của tôi trong tay. Em cắn vào vai tôi. Dù đau tôi vẫn áp má mình vào vai em. Nước mắt trào ra, tôi thì thầm:

- Tha lỗi cho anh, em tha lỗi cho anh…

Em trả lời bằng những tiếng thét như người động kinh:

- Giết tôi đi, giết tôi đi, đừng để tôi sống làm gì!

Bên ngoài cửa đền, Hayashi gọi:

- Trung uý lâu quá đấy. Nhanh lên chứ, đừng ích kỷ thế.

Tôi cầm súng dí sát vào thái dương em và em ngẩng đầu lên. Nỗi sợ hãi đã biến mất. Em nhìn tôi với vẻ dửng dưng như cách em vẫn nhìn người xa lạ.

Tôi rùng mình và xiết chặt khẩu súng hơn nữa:

- Em có nhận ra anh không?

Em nhắm mắt.

- Anh biết là em ghét anh, anh biết là em không tha thứ cho anh. Giờ đây, anh chẳng cần để ý đến nỗi khinh miệt của em nữa. Anh sẽ giết em và anh sẽ chết theo em. Vì em anh sẽ từ bỏ cuộc chiến này, anh sẽ phản bội Tổ quốc anh. Vì em anh sẽ là một thằng con bất hiếu, một kẻ làm nhơ nhuốc dòng họ của mình. Tên anh chẳng bao giờ có trong đền thờ những anh hùng. Anh là kẻ bị nguyền rủa.

Tôi hôn chi chít lên mặt em, nước mắt em chảy ròng ròng. Em để mặc tôi không hề chống cự.

Có tiếng báng súng làm rung cả nền nhà.

- Trung uý, xong chưa? Tôi đếm đến ba và tôi xông vào đấy! Một…

Tôi không còn có thời gian để hỏi tại sao em rời xứ sở, tại sao em cắt mớ tóc đẹp của mình đi. Tôi có hàng ngàn câu hỏi và tôi sẽ không hỏi được một câu nào. Tôi không bao giờ biết cách nói những lời yêu đương với em.

- Hai…

Tôi thì thầm bên tai em:

- Em đừng sợ, anh sẽ theo em. Anh sẽ bảo vệ em trong thế giới bên kia.

Em mở mắt nhìn tôi đăm đăm:

- Tên em là…

Nhưng tôi đã bóp cò. Lòng đen trong mắt em giật lên, con ngươi giãn ra. Máu vọt ra từ thái dương. Em ngã ngật cổ ra sau mà mắt vẫn mở trừng trừng.

Cửa mở, tôi nghe có tiếng chân phía sau và tuyệt vọng biết rằng mình không kịp có thời gian để tự mổ bụng như một chiến binh samurai xứng đáng.

Tôi đưa nòng súng vấy máu em vào miệng.

Có tiếng ầm như tiếng động đất.

Tôi ngã xuống người cô gái chơi cờ vây. Mặt em dường như hồng hơn ban nãy. Em mỉm cười. Tôi biết rằng chúng tôi sẽ chơi tiếp ván cờ ở nơi xa kia.

Để có thể ngắm nhìn người tôi yêu dấu, tôi đã cố gắng giữ cho mắt mở.

HẾT