Chương 2 1665 (1)
Cha muốn tôi miêu tả bức tranh một lần nữa.
- Nhưng từ lần cuối cùng chẳng có gì thay đổi cả,- tôi nói.
- Cha muốn nghe lại một lần nữa, - ông cố nài, cúi người trong cái ghế để lại gần ngọn lửa hơn. Nghe ông nói giống như Frans khi cậu còn là một đứa trẻ và mọi người bảo cậu là trong nồi thịt và khoai tây hầm chẳng còn gì nữa. Vào tháng Ba thì cha tôi thường hay mất kiên nhẫn, ông chờ đợi mùa đông kết thúc, cái lạnh giảm dần, mặt trời xuất hiện trở lại. Tháng Ba là một tháng không dự đoán trước được, chẳng biết cái gì sẽ đến. Những ngày ấm áp mang đến hy vọng cho tới khi bầu trời xám xịt và băng giá lại che phủ thành phố.
Tháng Ba là tháng tôi được sinh ra.
Bị mù lòa dường như càng khiến cha tôi ghét mùa đông hơn. Những giác quan khác của ông tinh hơn, ông cảm nhận cái lạnh sâu sắc hơn, ngửi thấy mùi không khí tù đọng trong ngôi nhà rõ hơn, cảm nhận rõ hơn mẹ tôi mùi vị nhạt nhẽo của món rau hầm. Ông khổ sở khi mùa đông kéo dài. Tôi cảm thấy thương ông. Khi nào có thể, tôi lén lấy cho ông các món từ bếp của Tanneke - những quả anh đào rim, mơ khô, khúc xúc xích lạnh, một lần là một nắm những cánh hoa hồng khô tôi tìm thấy trong tủ của Catharina.
- Con gái người thợ nướng bánh đứng trong một góc sáng sủa bên cạnh cửa sổ, - tôi kiên nhẫn bắt đầu.- Cô ta đối mặt với chúng ta nhưng lại nhìn ra bên ngoài cửa sổ, nhìn xuống bên phải. Cô ta mặc một cái áo chẽn bằng lụa và nhung, màu vàng pha đen, váy màu xanh đậm, và một chiếc mũ trắng rủ hai vạt xuống dưới cằm cô ta.
- Như con đội chiếc mũ của con hả? - cha tôi hỏi. Trước kia ông chưa từng hỏi chuyện này, mặc dầu lần nào tôi cũng miêu tả chiếc mũ đúng như vậy.
- Vâng, giống như của con. Khi cha nhìn chiếc mũ đủ lâu, cha sẽ thấy ông ấy vẽ nó không hoàn toàn màu trắng, mà hơi có màu xanh, tím rồi lại vàng, - tôi vội vã nói thêm.
- Nhưng đó là chiếc mũ trắng, con nói vậy.
- Vâng, kỳ lạ chính ở chỗ đó. Nó được vẽ bằng rất nhiều màu, nhưng khi cha nhìn, cha nghĩ nó là màu trắng.
- Vẽ gạch đơn giản hơn nhiều, - cha tôi lẩm bẩm.- Dùng màu xanh, thế là xong. Màu xanh sẫm cho những đường bên ngoài, màu xanh nhạt cho chỗ bóng. Xanh là xanh.
Và gạch là gạch, tôi nghĩ, khônggiống như những bức tranh của ông ấy. Tôi muốn cha tôi hiểu rằng màu trắng không chỉ đơn giản là màu trắng. Đó là một bài học mà ông chủ của tôi đã dạy tôi.
- Thế cô ấy đang làm gì? - sau giây lát ông hỏi.
- Cô ấy để một tay lên chiếc bình thiếc trên bàn và một tay kia đặt lên cánh cửa sổ cô ấy vừa hé mở. Cô ấy đang chuẩn bị cầm chiếc bình lên và hắt nước trong đó ra ngoài cửa sổ, nhưng cô ấy dừng việc đang làm lại giữa chừng và đang mơ màng hay nhìn ra cái gì đó ngoài phố.
- Cụ thể cô ấy đang làm gì?
- Con không biết. Đôi lúc cảm giác như việc này, lúc sau lại tưởng việc khác.
Cha tôi ngả người vào trong ghế, cau mày.
- Đầu tiên thì con bảo chiếc mũ trắngnhưng không phải được vẽ bằng màu trắng. Sau đó con lại bảo cô gái đang làm cái này hoặc cái khác. Conlàm cha túng túng.
Ông bóp trán như thể đau đầu.
- Cha, con xin lỗi, con đang cố gắng miêu tả một cách chính xác.
- Nhưng câu chuyện của bức tranh là gì?
- Những bức tranh của ông ấy không kể các câu chuyện.
Ông không trả lời. Ông cảm thấy khổ sở suốt cả mùa đông. Nếu có em Agnes thì em sẽ có thể làm ông vui lên được. Em luôn biết cách làm ông cười.
- Mẹ ơi, con nhóm lò sưởi chân lên nhé? - tôi hỏi và quay đi khỏi cha để giấu sự bực bội. Bây giờ, khi mù lòa, ông dễ dàng cảm nhận được tâm trạngngười khác khi ông muốn. Tôi không muốn ông phê phán bức tranh khi ông không nhìn thấy nó, hay so sánh nó với nhữngviên gạch mà ông đã từng vẽ. Tôi muốn nói với ông rằng chỉ cần ông nhìn thấy bức tranh thôi thì ông sẽ hiểu rằng chẳng có gì rắc rối ở đây cả. Có thể nókhông kể ra câu chuyện gì nhưng nó vẫn là bức tranh mà ông không thể rời mắt được.
Trong suốt lúc tôi và cha nói chuyện, mẹ bận rộn bên cạnh chúng tôi, quấy nồi hầm, chăm sóc ngọn lửa, bày đĩa và bình ra bàn, mài lại con dao để cắt bánh mì. Không chờ mẹ trả lời, tôi thu gom những chiếc lò sưởi chân và đem chúng ra phòng sau, nơi để than. Trong lúc cho than vào lò, tôi tự trách bản thân về chuyện đã bực bội với cha.
Tôi đem những chiếc lò sưởi chân vào và nhóm chúng lên. Sau khi đặt chúng bên dưới chỗ ngồi của chúng tôi chỗ cái bàn, tôi dẫn cha đến bên ghế của ông trong lúc mẹ múc món hầm ra và rót bia. Cha tôi ăn một miếng và nhăn mặt.
- Con có mang thứ gì từ Khu người Gia tô về để món cháo này ngọt hơn không đấy? - ông càu nhàu.
- Con không thể. Tanneke bực bội với con và con tránh xa bếp của chị ta, - tôi nuối tiếc ngay giây phút những lời đó thốt ra khỏi miệng.
- Tại sao? Con đã làm gì vậy? - Cha tôi càng cố tìm lỗi của tôi, đôi lúc thậm chí còn đứng về phía Tanneke.
Tôi nghĩ thật nhanh.
- Con làm đổ biangon nhất của họ. Cả một bình.
Mẹ nhìn tôi trách cứ. Bà cảm nhận được khi tôi nói dối. Nếu như cha đangkhông bực bội khổ sở đến thế thì ông cũng sẽ nhận ra ngay từ giọng nói của tôi.
Dù vậy, việc cha bực bội khiến tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Khi tôi rời nhà để trở lại đó, mẹ khăng khăng muốn đi cùng tôi một đoạn đường, mặc dầu trời mưa, kiểu mưa lạnh, nặng hạt. Khi chúng tôi đi đến kênh Rietveld và rẽ phải sang Quảng trường Chợ, bà nói:
- Chẳng mấy chốc con mười bảy tuổi rồi.
- Vâng, tuần sau,- tôi đồng ý.
- Chẳng mấy chốc nữa thì con sẽ là đàn bà rồi.
- Vâng. Tôi nhìn những giọt mưa nổi bong bóng xuống con kênh. Tôi không muốn nghĩ về tương lai.
- Mẹ nghe nói con trai ông hàng thịt để ý đến con.
- Ai nói với mẹ vậy?
Để trả lời bà chỉ đơn giản vuốt những giọt mưa khỏi mũ và giũ áo choàng.
Tôi nhún vai:
- Con tin chắc anh ta không chú ý đến con hơn chú ý đến những cô gái khác.
Tôi nghĩ bà sẽ cảnh báo tôi, nhắc tôi phải là cô gái ngoan, bảo vệ danh giá gia đình chúng tôi. Thay vào đó bà nói:
- Đừng có thô lỗ với cậu ấy. Hãy cười với cậu ấy và tỏ ra dễ chịu.
Những lời của mẹ khiến tôi ngạc nhiên, nhưng khi tôi nhìn vào đôi mắt bà và nhìn thấy ở đó sự thèm muốn món thịt mà con trai người bán thịt có thể mang lại, tôi hiểu tại sao mẹ lại gạt niềm kiêu hãnh sang một bên.
Ít nhất thì mẹ cũng không hỏi tôi về lời nói dối lúc trước. Tôi không thể nói vì sao Tanneke lại giận tôi. Lời nói dối đó giấu một lời nói dối còn nghiêm trọng hơn nữa. Tôi sẽ phải giải thích quá nhiều.
Tanneke đã phát hiện ra tôi làm gì vào những buổi chiều khi lẽ ra tô phải khâu vá.
Tôi giúp ông.
Chuyện đó bắt đầu khoảng hai tháng trước, một buổi chiều tháng Giêng, không lâu sau khi Franciscus được sinh ra. Trời rất lạnh. Cả Franciscus và Johannes đều ốm, ho và khó thở. Catharina và vú em chăm hai đứa bé cạnh bếp lò trong phòng giặt trong lúc những người khác tronggia đình ngồi cạnh nhau bên ngọn lửa trong bếp.
Chỉ có ông là không ở đó. Ông ở trên tầng. Cái lạnh dường như không ảnh hưởng gì đến ông. Catharina đến đứng ở khung cửa giữa hai phòng.
- Phải có ai đó đi đến hiệu bào chế,- cô ta tuyên bố, mặt đỏ bừng.- Tôi cần một đôi thứ cho bọn trẻ, - cô ta nhìn thẳng vào tôi.
Thông thường tôi sẽ là người cuối cùng được chọn đi làm những việc vặt như vậy. Đi đến hiệu bào chế không giống như đến chỗ hàng cá hay hàng thịt - những công việc mà Catharina vẫn tiếp tục để tôi làm sau khi cô ta sinh Franciscus. Người bào chế là một bác sĩ được trọng vọng và Catharina hay Maria Thins thích đến chỗ ông ta. Tôi không đượchưởng một sự xa xỉ như thế. Tuy nhiên, khi trời quá lạnh thì bất cứ việc vặt nào cũng sẽ được giao cho thành viên ít quan trọng nhất trong nhà.
Riêng lần này thì Maertge và Lisbeth không đòi đi cùng tôi. Tôi khoác lên người cái áo choàng len và khăn choàng trong khi Catharina dặn tôi rằng tôi cần phải hỏi muahoa cây cơm cháy khô và xirô hoa cúc. Cornelia quanh quẩn ở đó, quan sát tôi trùm chiếc khăn choàng lên đầu.
- Em đi với chị được không? - con bé hỏi, cười với vẻ ngây thơ được tập luyện kỹ càng. Đôi lúc tôi tự hỏi không biết tôi có phán xét con bé quá khắt khe không.
- Không, - Catharina trả lời thay tôi. - Trời quá lạnh. Mẹ không muốn bất cứ đứa nào bị ốm thêm nữa. Cô đi đi,- cô ta nói với tôi,- càng nhanh càng tốt.
Tôi đóng cửa trước và bước ra ngoài phố. Phố rất yên tĩnh - mọi người khôn ngoan trốn trong nhà mình. Con kênh đóng băng, bầu trời một màu xám giận dữ. Khi ngọn gió thổi qua và tôi vùi mũi sâu hơn vào những nếp len, tôi nghe tiếng gọi tên mình. Tôi nhìn xung quanh, nghĩ rằng Cornelia đã theo tôi. Cửa trước vẫn đóng.
Tôi nhìn lên. Ông đã mở một cánh cửa sổ và thò đầu ra.
- Vâng, thưa ngài?
- Cô đi đâu vậy, Griet?
- Thưa ngài, đến hiệu bào chế. Cô chủ bảo tôi đi. Mua thuốc cho hai cậu bé.
- Cô mua luôn cho tôi mấy thứ được không?
- Tất nhiên, thưa ngài.
Bỗng dưng cảm thấy ngọn gió không còn buốt đến thế.
- Chờ chút. Tôi sẽ viết đây.
Ông biến mất và tôi chờ đợi. Giây lát sau ông xuất hiện và thả xuống mộtchiếc túi da nhỏ.
- Đưa cho người bào chế tờ giấy bên trong và đem về thứ ông ta đưa lại cho cô.
Tôi gật đầu và nhét chiếc túi vào nếp gấp của khăn choàng, vui sướng với lời yêu cầu bí mật này.
Hiệu bào chế nằm ở phố Koornmarkt, về phía cổng thành Rotterdam. Mặc dù không xa, nhưng mỗi hơi tôi hít vào dường như làm ruột gan đóng băng, đến nỗi khi tôi vào được bên trong cửa hàng, tôi không còn nói được gì.
Tôi chưa bao giờ đến hiệu bào chế, thậm chí cả trước khi tôi trở thành người hầu - mẹ tôi tự tay chuẩn bị mọi thứ thuốc của chúng tôi. Hiệu bào chế là một căn phòng nhỏ, với những giá kê dọc theo các bức tường từ sàn lên trần nhà. Trên đó là các lọ, bát, bình đất nung đủ kích cỡ, mỗi cái đều được dán nhãn. Tôi nghi ngờ rằng thậm chí nếu tôi có thể đọc được thì tôi cũng sẽ không hiểu mỗi lọ đựng gì. Mặc dù cái lạnh làm tiêu tan hầu hết các mùi vị, ở đó vẫn thoang thoảng một mùi mà tôi không nhận ra được, giống như một thứ gì đó trong rừng, lần dưới những chiếc lá mục. Tôi chỉ nhìn thấy người bào chế có mỗi một lần, khi ông ta đến dự tiệc mừng sinh Franciscus mấy tuần trước. Một người đàn ông hói, gầy gò, ông ta khiến tôi nghĩ đến một con chim non. Ông ta ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Chẳng mấy ai dám mạo hiểm rangoài trong cái lạnh như thế. Ông ta ngồi đằng sau cái bàn, chiếc cân đặt ở gần khuỷu tay và chờ tôi nói.
- Tôi đến muavài thứ cho ông chủ và bà chủ,- cuốicùng thì tôi hổn hển nói khi họng đủ ấm để lên tiếng được. Trông ông ta không biểu lộ gì và tôi nói thêm:
- Nhà ông bà Vermeer.
- À. Gia đình đó thế nào?
- Bọn trẻ con đang bị ốm. Cô chủ của tôi cần hoa cơm cháy khô và xirô hoa cúc. Và ông chủ của tôi… - tôi chìa cho ông ta cái túi. Ông ta cầm nó vẻ khó hiểu, nhưngkhi đọc xong mẩu giấy ông ta gật đầu.
- Hết đen than và hoàng thổ, - ông ta thì thầm.- Cái này thì dễ thôi. Trước kia ông ấy chưabao giờ nhờ ai lấy hộ màu vẽ.
Ông ta liếc mắt qua tờ giấy sang tôi.
- Ông ấy bao giờ cũng tự lấy màu vẽ. Chuyện này đúng là bất ngờ.
Tôi không nói gì.
- Cô ngồi xuống đi. Lại đây, gần ngọn lửa vào trong lúc tôi lấy các thứ cho cô.
Ông ta trở nên bận rộn, mở các lọ và cân những lượng nhỏbúp hoa khô, đổ xirô vào lọ, gói các thứ cẩn thận vào giấy và buộc lại. Ông ta đặt một số thứ vào chiếc túi da. Những thứ khác ông ta để bên ngoài.
- Ông ấy có cần toan không?- ông ta ngoảnh lại mà hỏi trong lúc đặt lại cái lọ lên một tầng giá cao.
- Tôi không biết, thưa ngài. Ông ấy chỉ yêu cầu tôi lấy những thứ ghi trên giấy.
- Thực là ngạc nhiên, rất đáng ngạc nhiên.
Ông ta nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi đứng ngay đơ - sự chú ý của ông ta khiến tôi ước mình cao thêm.
- Ừ, suy cho cùng thì trời lạnh. Ông ấy không muốn phải rakhỏi nhà, trừ khi ông ấy nhất định phải làm vậy.
Ông ta chìa cho tôi mấy cái gói và chiếc túi da rồi mở cửa cho tôi. Ra đến ngoài phố, tôi nhìn lạivà thấyông ta vẫn nhìn tôi qua ô cửa sổ nhỏ xíu ở cánh cửa.
Về đến nhà, việc đầu tiên là tôi đến chỗ Catharina để đưa cho cô ta những gói lẻ. Sau đó tôi vội vàng đến chỗ cầu thang. Ông đã xuống và đang chờ. Tôi lấy chiếc túi da rakhỏi khăn choàng và đưa cho ông.
- Cám ơn, Griet,- ông nói.
- Hai người đang làm gì đấy?- Cornelia đang quan sát chúng tôi từ phía xa hành lang.
Tôi ngạc nhiên thấy ông không trả lời. Ông chỉ đơn giản quay đi và lại bước lên cầu thang, để lại tôi một mình đối mặt với con bé.
Sự thật là câu trả lời dễ nhất, mặc dù tôi thường xuyên không cảm thấy dễ dàng nói với Cornelia sự thật. Tôi không bao giờ biết con bé sẽ làm gì với nó.
- Chị mang vài đồ họa phẩm cho bố em,- tôi giải thích.
- Bố em nhờ chịà?
Với câu hỏi đó tôi làm như bố con bé đã làm - tôi bước xa khỏi con bé và đi đến bếp, vừa đi vừa cởi áo choàng. Tôi sợ phải trả lời vì tốt hơn cả là không ai biết tôi đi làm việc vặt cho ông. Tôi tự hỏi không biết Cornelia có nói với mẹ chuyện nó nhìn thấy không. Mặc dù còn bé nhưng con bé đã đanh đá, giốnghệt bà ngoại. Con bé chắc sẽ tập hợp các thông tin của nó, lựa chọn cẩn thận xemkhinào thì tiết lộ.
Con bé đưa ra câu trả lời cho tôi vài ngày sau đó.
Đó là một ngày Chủ nhật và tôi ở trong hầm lục tìm chiếc cổ áo mà mẹ đã thêu cho tôi trong cái rương, nơi tôi cất đồ của mình. Tôi phát hiện thấy ngay là vài thứ đồ ít ỏi của tôi bị lục lọi - cổ áo không được gấp lại, một trong những cái áo lót của tôi bị vo tròn và đẩy vào góc, chiếc lược đồi mồi rơi ra khỏi chiếc khăn bọc nó. Tấm khăn bọc viên gạch của cha tôi được gấp cẩn thận đến nỗi tôi nghi ngờ. Khi tôi mở khăn thì tấm gạch bungra làm hai mảnh. Nó đã bị vỡ nên cô bé và cậu bé tách rời khỏi nhau, cậu bé giờ đây chẳng nhìn thấy gì sau mình cả, cô bé đứng một mình, khuôn mặt bị chiếc mũ che khuất.
Tôi khóc. Cornelia chắc chẳng thể đoán nổi chuyện đó sẽ làm tôi buồn như thế nào. Tôi sẽ bớt buồn hơn nếu con bé làm gãy lìa đầu chúng tôi khỏi cơ thể.
o O o
Ông bắt đầu nhờ tôi làm những việc khác. Một hôm, ông nhờ tôi mua dầu lanh ở hiệu bào chế khi tôi đi mua cá về. Tôi sẽ phải để nó ở dưới chân cầu thang cho ông để ông và người mẫu không bị quấy rầy. Ông nói vậy. Có lẽ ông hiểu rằng Maria Thins hay Catharina hay Tanneke hoặc Cornelia sẽ để ý nếu tôi lên
xưởng vẽ vào một thời điểm bất thường.
Đó không phải là một ngôi nhà nơi các điều bí mật được giấu giếm dễ dàng.
Một hôm khác, ông nhờ tôi hỏi người bán thịt mua bong bóng lợn. Tôi không hiểu tại sao ông muốn mua bong bóng lợn cho đến về sau, ông bảo tôi để riêng màu vẽ ông cần dùng vào mỗi buổi sáng, khi tôi đã dọn dẹp xong. Ông mở các ngăn của cái tủ đặt gần giá vẽ của ông và chỉ cho tôi xem màu nào được cất ở đâu, vừa chỉ vừa đọc tên các màu. Nhiều từ tôi chưa từng nghe đến - xanh biển đậm, màu đỏ son, massicot 1.Màu nâu và vàng đất và đen than và trắng chì được để trong những lọ đất nung nhỏ, đậy bằng giấy da để chúng khỏi bị khô. Những màu quý hơn - màu xanh, đỏ, và vàng, được giữ từng ít một trong nhữngchiếc bong bóng lợn. Có một lỗ ở đó sao cho có thể bóp màu ra, rồi lại dùng móng tay bịt nó lại.
Một sáng, khi tôi đang dọn dẹp thì ông bước vào và bảo tôi đứngvào chỗ con gái ông thợ bánh hôm đó bị ốm và không thể đến được.
- Tôi muốn nhìn một lát,- ông giải thích.- Phải có người nào đó đứng ở đây.
Tôi ngoan ngoãn đứng vào chỗ cô ta, một tay đặt lên quai bình nước, tay kia đặt lên khung cửa sổ, hơi mở ra một chút cho gió ve vuốt khuôn mặt và ngực tôi.
Có lẽ chính vì thế mà con gái ông thợ bánh bị ốm,tôi nghĩ.
Ông đã mở toang tất cả các cánh cửa chớp. Tôi chưa bao giờ thấy căn phòng sáng như thế.
- Cúi cằm xuống,- ông nói. - Và nhìn xuống, không nhìn tôi. Đúng rồi. Đừng cử động.
Ông đang ngồi bên giá vẽ. Ông không cầm bảng màu hay cái bay hay những cái cọ. Ông chỉ đơn giản ngồi, tay đặt trong lòng và nhìn.
Mặt tôi đỏ lên. Tôi không hình dung là ông sẽ nhìn tôi chăm chú đến thế.
Tôi gắng nghĩ về một điều gì đó khác. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và quan sát con thuyền đang trôi dọc theo dòng kênh. Người đàn ông chèo thuyển là người đã giúp tôi lấy chiếc bình từ dòng kênh lên hôm đầu tiên tôi tới đây.Biết bao điều đã thay đổi kể từ buổi sáng đầu tiên đó, tôi nghĩ. Khi đó tôi thậm chí còn chưa nhìn thấy bức tranh nào của ông. Còn bây giờ thì tôi đang đứng trongmột bức tranh.
- Đừng nhìn cái cô đang nhìn, - ông nói. - Tôi có thể nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt cô. Cái đó làm cô sao lãng.
Tôi cố gắng không nhìn nữa mà nghĩ về nhữngđiều khác. Tôi nghĩ đến ngày gia đình chúng tôi đi vềvùng nông thôn lấy cây thuốc. Tôi nghĩ đến vụ treo cổ người đàn bà đã giết congái trong cơn giận do say rượu tôi chứng kiến trên Quảng trường Chợ hồi năm ngoái. Tôi nghĩ đến ánh mắt Agnes lần cuối tôi gặp em.
- Cô nghĩ nhiều quá,- ông nói, cựa mình trên ghế.
Tôi có cảm giác như tôi đã giặt một thùng đầy những tấm ga trải nhưng không sao giặt sạch được.
- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi không biết phải làm gì.
- Cố gắng nhắm mắt vào.
Tôi nhắm mắt lại.Giây lát sau tôi cảm thấy khung cửa sổ và chiếc bình trong tay tôi, neo tôi lại. Rồi sau đó tôi có thể cảm nhận thấy bức tường đằng sau, cái bàn bên trái và luồng không khí lạnh thổi vào từ ngoài cửa sổ.
Đây chính là cách cha tôi cảm nhận, với khoảng không xung quanh ông và cơ thể ông cảm nhận thấy nó đang ở đâu, tôi nghĩ.
- Tốt. Được đấy.Cảm ơn, Griet. Cô có thể tiếp tục dọn dẹp.
Tôi chưa từng xem bức tranh nào được vẽ từ đầu. Tôi nghĩ người ta vẽ cái người ta nhìn thấy, sử dụng những màu sắc người ta nhìn thấy.
Ông dạy tôi.
Ông bắt đầu vẽ bức tranh con gái người thợ nướng bánh với một lớp màu xám nhạt trên nền vải trắng. Sau đó ông đánh dấu bằng những chấm nâu đỏ trên toàn bộ nền vải để chỉ ra chỗ nào là cô gái, chỗ nào là cái bàn, cái bình, khung cửa sổ và tấm bản đồ. Sau đótôi nghĩ ông sẽ bắt đầu vẽ cái ông nhìn thấykhuôn mặt cô gái, cái váy xanh, cái áo chẽn màu vàng đất, tấm bản đồ màu nâu, cái bình và cái bát bạc, bức tường trắng. Thay vào đó ông vẽ những mảng màu - mảng màu đen chỗ sẽ là váy, mảng màu đỏ cho chiếc bình và bát, một mảng màu xám khác cho bức tường. Chúng là những màu khác, không có chỗ nào là màu thực của bản thân các vật. Ông dành nhiều thời gian cho những màu giả này, tôi gọi chúng như vậy.
Thỉnh thoảng cô gái đến và đứng hàng giờ ở đó, dù vậy, ngày hôm sau tôi nhìn thì thấy ở bức tranh chẳng có gì được thêm vào hay bớt đi cả. Ở đó chỉ có những mảng màu không tạo nên các vật, bất kểtôi nhìn bao lâu. Tôi chỉ biết rằng ở đó có các vật vì tôi đã lau chùi chúng và đã nhìn thấy cô gái mặc gì khi tôi nhìn lén cô ta một lần lúc cô ta chuyển sang mặc cái áo chẽn vàng và đen của Catharina trong phòng lớn.
Mỗi buổi sáng, tôi miễn cưỡng đặt ra các màu ông yêu cầu. Một hôm tôi để ra cả màu xanh. Lần thứ hai tôi để nó ra ông bảo:
- Không phải màu xanh biển đậm, Griet. Chỉ những màu tôi yêu cầu thôi. Tại sao cô lại bỏ ra khi tôi không bảo.
Ông bực bội.
- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Đấy là vì… - tôi hít vào một hơi sâu, - cô ấy mặc váy màu xanh. Tôi nghĩ ngài sẽ muốn màu đó, chứ không để nó màu đen.
- Khi nào cần tôi sẽbảo.
Tôi gật đầu và quay lại lau chùi cái ghế có đầu sư tử. Lòng tôi đau đớn. Tôi không muốn ông bực bội với tôi.
Ông mở cửa sổ giữa khiến không khí lạnh tràn ngập căn phòng.
- Lại đây, Griet.
Tôi đặt chiếc giẻ lau lên bậu cửa và bước tới.
- Nhìn ra ngoài cửa sổ đi.
Tôi nhìn ra. Đó là một ngày gió nhẹ, với nhữngđám mây đang biến mất sau tháp chuông Nhà thờ Mới.
- Những đám mây đó màu gì?
- Tại sao ngài hỏi vậy, màu trắng ạ.
Ông hơi nhướng mày lên:
- Đúng màu trắng không?
Tôi nhìn chúng.
- Và màu xám nữa. Có thể sẽ có tuyết.
- Lại đây, Griet. Cô có thể trả lời chính xác hơn. Hãy nghĩ đến những miếng rau của cô.
- Rau của tôi ư, thưa ngài?
Ông nhè nhẹ lắc đầu. Tôi lại đang làm ông bực mình. Cằm tôi hơi nghiến lại.
- Hãy nghĩ về chuyện cô đã tách các màu trắng ra như thế nào. Su hào và hành - chúng có cùng trắng như nhau không?
Bỗng dưng tôi hiểu ra.
- Không, su hào có màu xanh, hành màu vàng.
- Đúng rồi. Nào, giờ thì cô nhìn thấy màu gì trong các đám mây?
- Ở đó có màu xanh, - tôi nói sau khi nhìn ngắmvài phút. - Và cảmàu vàng. Và có cảmàu xanh lá cây nữa!
Tôi trở nên kích động đến mức tôi dùng ngón tay để chỉ. Tôi đã nhìn các đám mây cả cuộc đời mình, nhưng vào giây phút đó tôi có cảm giác như tôi nhìn thấy chúng lần đầu tiên vậy. Ông cười.
- Cô sẽ thấy là trong những đám mây có rất ít màu trắng thuần khiết, tuy vậy mọi người vẫn bảo mây màu trắng. Vậy thì bây giờ cô hiểu vì sao tôi chưa cần màu xanh chưa?
- Vâng, thưa ngài, - tôi thực sự không hiểu lắm nhưng không muốn nói ra điều đó. Tôi cảm thấy mình gần như đã hiểu.
Cuối cùng, khi ông bắt đầu vẽ thêm màu lên trên lớp màu giả, tôi mới nhìn thấy ông định nói gì. Ông vẽ một lớp màu xanh nhạt lên trên cái váy của cô gái và cái váy trở thành màu xanh, qua lớp màu xanh đó người ta có thể nhìn thấy một chút màu đen, xanh đậm hơn chỗ cái bàn hất bóng xuống, xanh nhạt hơn chỗ gần cửa sổ. Ở vùngtường, ông thêm vào màu vàng, xuyên qua lớp màu đó có thể thấy một chút màu xám. Nó trở thành một bức tường màu sáng nhưng không phải là trắng. Khi ánh sáng chiếu lên bức tường, tôi nhận thấy bức tường không chỉ có màu trắng mà là nhiều màu.
Cái bình và bát là phức tạp nhất - chúng trở nên vàng, rồi nâu, rồi xanh lá cây và xanh lơ. Chúng phản chiếu lại các hoa văn của tấm thảm, của cái áo chẽn cô gái mặc, của tấm vải xanh trùm bên trên ghế - chúng có mọi màu chỉ trừ ánh bạc thực sự của chúng. Và dù như vậy thì trông chúng vẫn như cần thiết, giống chiếc bình và cái bát.
Sau đó thì tôi không thể nào rời mắt khỏi các vật.
Càng ngày càng khó giấu hơn việc tôi đang làm khi ông muốn tôi giúp ông chuẩn bị màu vẽ. Một buổi sáng ông đưa tôi lên căn phòng áp mái bằng chiếc thang để trong phòng kho cạnh xưởng vẽ. Tôi chưa bao giờ lên đó cả. Đó là mộtphòng nhỏ, với mái dốc đứng và một cửa sổ cho ánh sáng và khung cảnh Nhà thờ Mới lọt vào. Ở đó chẳng có gì mấy, ngoại trừ cái tủ nhỏ và một cái bàn đá có lỗ, giữ hòn đá hình quả trứng bị cắt một đầu. Đã có lần tôi nhìn thấy một cái bàn tương tự ở chỗ xưởng gạch của cha tôi. Ở đó còn có vài vật dụng để đựng- những cái bát và đĩa nông bằng đất nung, cái cặp bên cạnh chiếc bếp lò nhỏ xíu.
- Tôi muốn cô nghiền vài thứ cho tôi ở đây, Griet, - ông nói. Ông mở ngăn tủ và lấy ra một mẩu đen, dài bằng ngón út của tôi. - Đây là một miếngngà voi đã được đốt thành than, - ông giải thích. - Để làm sơn đen.
Sau khi để nó vào cái bát trên bàn, ông thêm vào đó một chất dinh dính có mùi động vật. Sau đó ông cầm hòn đá lên- mà ông gọi là cái nghiền- và chỉ cho tôi cách giữ nó như thếnào, tựa vào bàn ra sao và sử dụng trọng lượng cơ thể tôi như thế nào để nghiền mảnh xương. Sau vài phút ông đã nghiền nó thành thứ bột sệt mịn.
- Bây giờ cô thử xem.
Ông lấy thìa múc chỗ bột màu đen vào một bình nhỏ và lấy ra một mẩu ngà voi khác. Tôi cầm cái nghiền lên và gắng bắt chước ông trong lúc tì ngườivào bàn.
- Không, tay cô cần phải làm thế này.
Ông đặt tay mình lên tay tôi. Choáng váng do sự đụng chạm của ông khiến tôi đánh rơi cái nghiền, làm nó lăn tròn trên mặt bàn và rơi xuống sàn.
Tôi nhảy ra khỏi chỗ ôngvà cúi xuống nhặt cái nghiền lên.
- Tôi xin lỗi, thưa ngài,- tôi lúng búng, đặt cái nghiền vào cái bát.
Ông không gắng chạm vào tôi một lần nữa.
- Đưa tay cô lên cao thêm chút nữa,- thay vào đó ông ra lệnh.- Đúng rồi. Bây giờ sử dụng vai cô để xoay, cổ tay để kết thúc.
Tôi nghiền miếng của mình lâu hơn rất nhiều vì tôi vẫn còn lóng ngóng và chuếnh choáng do sự đụng chạm của ông. Và tôi nhỏ hơn ông, lại chưa quen với chuyển động tôi phải làm. Ít nhất thì tay tôi cũng khỏe do vắt đồ.
- Mịn hơn chút nữa, - ông đề nghị khiông kiểm tra cái bát. Tôi nghiền thêm vài phút nữa trước khi ông bảo đã được, bắt tôi phải dùng các ngón tay xoa chất bột để biết ông muốn nó mịn như thế nào. Sau đó ông đặt vài miếng xương khác nữa lên mặt bàn. - Ngày mai tôi sẽ chỉ cho côxem phải nghiền chì trắng như thế nào. Dễ hơn xương nhiều.
Tôi chăm chăm nhìn mẩu ngà voi.
- Sao vậy, Griet? Cô không sợ vài mẩu xương đấy chứ, đúng không? Chúng chẳng khác gì chiếc lược ngà mà cô vẫn dùng chải tóc đâu.
Tôi chẳng bao giờ đủ giàu để sở hữumột chiếc lược như vậy. Tôi dùng ngón tay vuốt cho tóc mượt.
- Không phải chuyện đó, thưa ngài.
Tất cả nhữngviệc khác ông nhờ tôi đều có thể làm trong lúc lau chùi dọn dẹp hay đi làm việc vặt. Ngoài Cornelia, không ai nghi ngờ gì. Nhưng nghiền các thứ sẽmất thời gian - tôi không thể làm việc đó trong lúc phải lau chùi xưởng vẽ, và tôi không thể giải thích cho mọi người tại sao đôi lúc tôi lại phải lên phòng áp mái, bỏ lại những công việc khác của mình.
- Việc nghiền sẽ tốn ít nhiều thời gian,- tôi yếu ớt nói.
- Một khi cô quen rồi thì sẽ không mất nhiều thời gian như hôm nay đâu.
Tôi không thích phải chất vấn hay không nghe lời ông - ông là ông chủ của tôi. Nhưng tôi sợ cơn giận dữ của những người đàn bà dưới nhà.
- Ý tôi là bây giờ tôi phải đi mua thịt,rồi là quần áo, thưa ngài. Cho cô chủ.
Những lời của tôi nghe có vẻ tầm thường.
Ông không cử động.
- Đi mua thịt á?- Ông cau mày.
- Thưa ngài, vâng. Cô chủ sẽ muốn biết tại sao tôi không thể làm những việc khác của tôi. Cô sẽ muốn biết là tôi giúp ngài ởđây, trên này. Tôi không dễ dàng lên đây mà chẳng có lý do gì.
Một khoảng im lặng kéo dài. Chuông ở Nhà thờ Mới điểm bảy tiếng.
- Tôi hiểu,- ông lẩm bẩm khi tiếng chuông lặng.- Để tôi xem xét chuyện đó.
Ông lấy đi một ít ngà voi để lại vào ngăn tủ.
- Bây giờ cô nghiền miếng này, - ông chỉvào chỗ còn lại.- Việc này không lâu đâu. Tôi cần phải đi ra ngoài. Khi nào cô nghiền xong thì cứ để nó ở đây.
Ông sẽ phải nói chuyện với Catharina và nói với cô ta về công việc của tôi. Khi đó thì tôi sẽ dễ dàng giúp ông làm mọi việc hơn.
Tôi chờ đợi. Nhưng ông không nói gì với Catharina.
Lời giải cho vấn đề với các màu sơn bất ngờ đến từ Tanneke. Kể từ khi Franciscus được sinh ra, vú em ngủ cùng Tanneke trong phòng Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá. Từ phòng đó, chị ta có thể dễ dàng sang phòng lớn để cho đứa bé bú khi nó thức dậy. Mặc dù Catharina không cho đứa bé bú, cô ta khăng khăng đòi đứa bé ngủ trong chiếc nôi bên cạnh cô ta. Tôi nghĩ thu xếp như vậy thật là kỳ quặc, nhưng khi hiểu Catharina hơn, tôi hiểu rằng cô ta muốn giữ hình ảnh một bà mẹ tốt chứ không phải cô ta thực sự muốn làm những việc đó.
Tanneke không sung sướng gì chuyện ngủ cùng phòng với chị vú em, kêu ca rằng chị ta dậy đêm cho đứa bé bú nhiều quá, còn khi chị ta nằm ở giường thì chịta lại ngáy. Tanneke than van về chuyện đó với tất cả mọi người, bất kể người đó có nghe hay không. Rồi chị ta bắt đầu chểnh mảng công việc của mình và đổ tội chuyện này là do thiếu ngủ. Maria Thins bảo chị ta là họ không thể làm gì được nhưng Tanneke vẫn cứcau có. Chị ta thường xuyên lườm nguýt tôi - trước khi tôi đến sống ởnhà này, Tanneke ngủ ở chỗ tôi, trong căn hầm, mỗi khi trong nhà cần vú em. Gần như là chị ta buộc tội tôi về chuyện chị vú em ngáy.
Một tối chị ta thậm chí còn kêu ca với Catharina. Catharina đang chuẩn bị đi dạ hội ở nhà ngài Ruijven dù rằng trời lạnh. Tâm trạng cô ta vui vẻ - đeo những viên ngọc trai và mặc cái áo choàng vàng luôn làm cô ta hạnh phúc. Bên trên cái áo choàng cô ta buộc một chiếc cổ áo lanh rộng để che đi bờ vai và để cái áo không dính bụi phấn cô ta đang dận lên mặt. Trong lúc Tanneke liệt kê những nỗi khổ của mình, Catharina tiếp tục dận phấn, giơ gương lên để ngắm nghía. Tóc cô ta được tết thành bím rồi cài nơ và chừng nào cô ta giữ vẻ ngoài hạnh phúc thì trông cô ta rất xinh đẹp, sự kết hợp giữa tóc vàng và mắt nâu nhạt khiến cô ta trông đẹp kỳ lạ.
Cuối cùng thì cô ta vẫy chiếc chổi đánh phấn sang Tanneke.
- Thôi đi, - cô ta vừa cười vừa hét lên. - Chúng tôi cần vú em và chị ta phải ngủ gần tôi. Trong phòng bọn trẻcon không còn chỗ nữa, nhưng trong phòng chị thì còn, thế nên vú em sẽ ngủ ở đó. Không làm gì được cả. Tại sao chị cứ làm phiền tôi về chuyện đó thế.
- Có lẽ có thể làm được một điều,- ông nói.
Từ chỗ cái tủ, nơi tôi đang tìm tạp dề cho Lisbeth, tôi ngước nhìn lên. Ông đang đứng ở khung cửa. Catharina ngạc nhiên nhìn chồng mình. Ông hiếm khi tỏ ra quan tâm đến việc nhà.
- Đặt một chiếc giường trong phòng áp mái và để ai đó ngủ ở đó. Griet chẳng hạn.
- Griet ở trong phòng áp mái á? Tại sao?- Catharina kêu lên.
- Thì khi đó Tanneke có thể ngủ trong phòng hầm, như chị ta muốn,- ông nhẹ nhàng giải thích.
- Nhưng, - Catharina dừng lại, lung túng. Cô ta có vẻ như không đồng tình với ý kiến đó nhưng không nói được tại sao.
- Ôi, vâng, thưa cô, - Tanneke hào hứng bậtra. - Như vậy thực sự sẽ giải quyết vấn đề, - cô ta nhìn tôi.
Tôi tự làm mình bận rộn bằng việc gấp lại đống quần áo trẻ con, mặc dầu chúng đã rất gọn gang.
- Thế còn chìa khóa vào xưởng vẽ thì sao? - Cuối cùng Catharina cũng tìm ra lý lẽ. Chỉ có một lối lên phòng áp mái, đó là bằng chiếc thang trong phòng kho của xưởng vẽ. Để lên giường, tôi phải đi qua xưởng vẽ mà phòng đó buổi tối lại bị khóa.- Chúng ta không thể đưa chìa khóa cho người hầu được.
- Cô ấy không cần chìa khóa, - ông đáp lại. Em có thể khóa cửa xưởng vẽ khi cô ấy đã đi ngủ. Sau đó, buổi sáng cô ấy có thể lau chùi xưởng vẽ trước khi em đến và mở cửa.
Tôi ngừng tay gấp quần áo. Tôi không thích bị khóa trái ở trong phòng mình vào ban đêm. Thật không may, ý tưởng này có vẻ khiến Catharina hài long. Có lẽ cô ta nghĩ khóa trái tôi thì sẽ vừa giữ tôi an toàn ở một chỗ vừa làm tôi khuất mắt cô ta.
- Thôi được, - cô ta quyết định. Phần lớn các quyết định cô ta đều đưa ranhanh chóng. Cô ta quay sang tôi và Tanneke. - Ngày mai hai cô chuyển một cái giường lên phòng áp mái. Đây chỉ là tạm thời thôi, cho đến khi nào không cần vú em nữa,- cô ta nói thêm.
Tạm thời như những lần tôi đi mua thịt và cá được bố trí để chỉ là tạm thời, tôi nghĩ.
- Đi với tôi lên xưởng vẽ một lát, - ông nói. Ông đang nhìn cô ta theo cái cách mà tôi bắt đầu nhận ra cách của một họa sĩ.
- Em á? - Catharina cười với chồng. - Những lời mời lên xưởng vẽ của ôngkhá hiếm hoi. Vẫy tay một cái, cô ta đặt chiếc chổi lông xuống và bắt đầu bỏ chiếc cổ áo rộng ra, lúc này nó đã phủ đầy bụi phấn.
Ông vươn người ra và túm tay cô ta.
- Kệ nó.
Chuyện này cũng đáng ngạc nhiên như đề nghị của ông chuyển tôi lên phòng áp mái. Trong lúc ông đưa Catharina lên tầng, tôi và Tanneke nhìn nhau.
Ngày hôm sau, con gái người thợ nướng bánh bắt đầu khoác chiếc cổ áo rộng màu trắng trong lúc làm mẫu cho bức tranh.
Maria Thins thì không dễ bị lừa như thế. Khi bà nghe Tanneke hân hoan kể về việc chị ta chuyển xuống ngủ ở phòng hầm và tôi chuyển lên phòng áp mái, bà rít tẩu và nhíu mày.
- Đơn giản là hai cô có thể đổi chỗ… - bà ta dung tẩu chỉ vào chúng tôi, - Griet thì ngủ cùng vú em, còn chị thì ngủ ở phòng hầm. Chẳng cần ai phải lên phòng áp mái.
Tanneke không nghe gì cả - chị ta đang tràn đầy niềm hân hoan chiến thắng nên chẳng thể nhận ra lôgíc trong những lời của bà chủ.
- Cô chủ đã đồng ý vậy,- tôi nói đơn giản.
Maria Thins liếc tôi một cái dài.
Ngủ trong phòng áp mái khiến tôi dễ làm việc ở đó hơn, nhưng tôi vẫn có rất ít thời gian để làm việc đó. Tôi có thể dậy sớm hơn và đi ngủ muộn hơn, nhưng đôi lúc ông sai tôi làm nhiều đến mức tôi phải tìm cách lên phòng vào buổi chiều, khi bình thường tôi ngồi khâu bên bếp lửa. Tôi bắt đầu kêu ca rằng không nhìn thấy đường khâu trong căn bếp mờ mờ và cần ánh sáng của phòng áp mái sáng sủa.
Hoặc tôi bảo đau bụng và cần phải nằm nghỉ. Maria Thins vẫn liếc nhìn tôi y như vậy mỗi lần tôi viện cớ nhưng không nhận xét gì.
Tôi bắt đầu quen nói dối.
Sau khi ông đề nghị tôi ngủ trong căn phòng áp mái, ông để tôi sắp xếp mọi việc sao cho tôi có thể giúp ông. Ông không bao giờ giúp đỡ bằng cách nói dối thay cho tôi, hay hỏi liệu tôi có thời gian rỗi cho ông không. Buổi sáng ông giao việc cho tôi và đòi hỏi chúng được làm xong trước buổi sáng ngày hôm sau.
Bản thân các màu vẽ bù lại cho những rắc rối tôi phải giấu về việc làm của mình. Tôi đã trở nên yêu thích công việc nghiền những thứ ông mang từ hiệu bào chế về - xương, chì trắng, thiên thảo, massicot để thấy mình có thể có được những màu rực rỡ và nguyên chất như thế nào. Tôi học được rằng nếu các thứ được nghiền càng mịn thì màu càng sắc hơn. Từ những hạt thiên thảo thô ráp, xám xịt trở thành bột mịn màu đỏ tươi và khi trộn với dầu lanh nó thành một thứ sơn lấp lánh. Việc tạo nên màu đó hay những màu khác là một điều kỳ diệu.
Cũng từ ông tôi học được cách rửa các màu để loại trừ tạp chất và thu được màu sắc thật. Tôi dung một loạt vỏ sò như những cái bát nông, và nhẹ nhàng rửa đi rửa lại các màu, đôi lúc tới ba mươi lần, để lấy ra mẩu phấn hay hạt sạn, hạt cát. Đó là một công việc kéo dài và tẻ ngắt nhưng nó đem lại sự thỏa mãn khi được nhìn thấy cácmàu sạch hơn sau mỗi lần rửa và càng gần hơn với màu cần thiết.
Màu duy nhất ông không cho tôi đụng vào là màu xanh biển đậm. Quặng màu da trời rất đắt và quá trình chiết ramàu xanh nguyên chất từ nó rất khó nên ông tự tay làm việc đó.Tôi đã quen với việc ởbên ông. Đôi lúc chúng tôi đứng cạnh nhau trong căn phòng nhỏ, tôi nghiền chì trắng, ông rửa quặng xanh hoặc đốt hoàng thổ trên bếp. Ông nói với tôi rất ít. Ông là người đàn ông trầm lặng. Tôi cũng khôngnói gì. Thật là thanh bình với ánh sáng chiếu vào qua cửa sổ. Sau khi kết thúc công việc, chúng tôi đổ nước từ chiếc bình qua tay nhau và kỳ cọ sạch tay.Trong căn phòng áp mái rất lạnh- mặc dầu ở đó có lò sưởi nhỏ ông dung để đun nóng dầu lanh hay đốt màu, tôi không dámđốt nó lên trừ khi ông muốn. Nếu không tôi sẽ phải giải thích với Maria Thins và Catharina tại sao than và củi biến đi nhanh thế.
Tôi không mấy để ý đến cái lạnh khi có ông ở đó. Khi ông đứng gần,tôi có thể cảm nhận được hơi ấm từ cơ thể ông.
Một buổi chiều, khi tôi đang rửa ít massicot tôi vừa nghiền xong thì nghe thấy tiếng Maria Thins trong xưởng vẽ bên dưới. Ông đang vẽ, trong lúc đứng, con gái người thợ nướng bánh thỉnh thoảng lại thở dài.
- Cô gái, cô có lạnh không? - Maria Thins hỏi.
- Hơi một chút,- thoảng tới câu trả lời yếu ớt.
- Tại sao cô ấy không có lò sưởi chân?
Giọng ông nhỏ đến mức tôi không nghe thấy câu trả lời.
- Cái đó sẽ không hiện ra trong bức tranh, không cạnh chân cô ấy. Chúng ta không muốn cô ấy lại bị ốm.
Lại một lần nữa tôi không nghe thấy ông nói gì.
- Griet có thể đi lấy một chiếc cho cô ấy, - Maria Thins gợi ý. Cô ấy chắc chắn đang ở trong phòng áp mái vì cô ấy bị đau bụng. Tôi sẽ đi tìm cô ấy ngay.
Bà ta nhanh nhẹn hơn tôi nghĩ so với một bà già. Đến lúc tôi đặt chân lên bậc thang trên cùng thì bà đã ở giữa chiếc thang rồi. Tôi quay trở lại căn phòng áp mái. Tôi không thể trốn chạy khỏi bà mà cũng chẳng còn thời gian để giấu bất cứ thứ gì.
Khi Maria Thins trèo vào căn phòng, bà nhanh chóng nhận ra những chiếc vỏ sò được đặt thành hàng trên mặt bàn, bình nước, chiếc tạp dề tôi đeo có những chấm vàng do massicot dây ra.
- Vậy đây là cái cô đang giấu giếm hả, cô gái? Tôi đã nghĩ nhiều rồi mà.
Tôi cụp mắt xuống. Tôi không biết phải nói gì.
- Đau bụng, đau mắt. Chúng tôi ở đây không phải ai cũng là ngốc nghếch đâu nhé.
Hãy hỏi ông ấy. Tôi muốn nói với bà. Ông ta là ông chủ. Đây là việc của ông ấy. Nhưng bà ta không gọi ông. Ông cũng không xuất hiện ở chân thang để giải thích.
Một sự im lặng kéo dài. Rồi sau đó Maria Thins nói:
- Cô đã giúp ông ấy bao lâu rồi, cô gái?
- Vài tuần, thưa bà.
- Những tuần gần đây ông ấy vẽ nhanh hơn, tôi đã nhận thấy.
Tôi nhìn lên. Khuôn mặt bà lộ vẻ tính toán.
- Cô giúp ông ấy vẽ nhanh hơn, cô gái ạ, - bà nói bằng một giọng khẽ, - và cô sẽ giữ chỗ của cô ở đây. Còn bây giờ thì không được hở ra lời nào với con gái tôi hoặc Tanneke.
- Vâng, thưa bà.
Bà ta cười khúc khích.
- Lẽ ra tôi phải biết cô là cô gái thông minh. Cô gần như đã lừa được cả tôi. Nào, bây giờ thì mang cho cô gái đáng thương dưới kia lò sưởi chân đi.
Tôi thích ngủ trong căn phòng áp mái. Ở đó không có bức tranh Chúa Giê su bị đóng đinh trên thánh giá treo cuối giường khiến tôi bất an. Ở đó chẳng có bức tranh nào cả, ngoài hương thơm sạch sẽ của dầu lanh và mùi hương của những chất màu làm từ đất. Tôi thích cảnh Nhà thờ Mới và sự yên tĩnh. Không ai lên đây, trừ ông. Mấy đứa con gái không thỉnh thoảng đến chỗ tôi như đôi lúc chúng vẫn làm ở dưới phòng hầm, hay bí mật lục lọi đồ đạc của tôi. Tôi cảm thấy được một mình ở nơi đó, bên trên ngôi nhà náo động và có thể quan sát nó từ xa.
Khá giống ông.
Tuy nhiên, điều hay ho nhất là tôi có thể ở trong xưởng vẽ nhiều hơn. Đôi lúc tôi trùm mình trong tấm chăn và chui xuống dưới lúc đêm khuya khi ngôi nhà đã tĩnhlặng. Tôi nhìn ngắm bức tranh ông đang vẽ bằng ngọn nến, hoặc mở cửa chớp cho một chút ánh trăng lọt vào. Đôi lúc tôi ngồi trong bong tối, trên một trong những cái ghế chạm đầu sư tử được đẩylại gần bàn, đặt khuỷu tay lên tấm khăn màu xanh và đỏ phủ trên đó. Tôi tưởng tượng mình mặc cái áo chẽn màu vàng pha đen và đeo ngọc trai, tay cầm ly rượu vang, ngồi đối diện với ông qua cái bàn.
Tuy nhiên, có một điều tôi không thích về căn phòng áp mái. Tôi không thích ban đêm bị khóa trái ở đó.
Catharina đã lấy lại chùm chìa khóa từ Maria Thins và bắt đầu khóa và mở xưởng vẽ. Chắc cô ta cảm thấy bằng cách đó cô ta có được chút ít sự kiểm soát đối với tôi. Cô ta không thoải mái về việctôi ở trong căn phòng áp mái - điều đó có nghĩa là tôi ở gần ông hơn, gần chỗ mà cô ta không được phép vào còn tôi có thể tự do đi lại.
Chắc người vợ phải cảm thấy khó khăn khi chấp nhận một việc như vậy. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian nó đã có hiệu quả. Trong một khoảng thời gian tôi đã có thể biến đi vào các buổi chiều rồi rửa và nghiền màu cho ông. Khi đó Catharina thường hay ngủ - Franciscus là đứa trẻ hay quấy khóc, hầu như đêm nào cũng làm cô ta mất ngủ nên ban ngày cô ta cần phải ngủ. Tanneke cũng thường ngủ bên bếp lửa, thế nên tôi có thể rời bếp mà không cần phải viện ra cớ gì. Mấy đứa con gái bận rộn với Johannes, dạy cậu bé tập đi, tập nói và ít khi phát hiện rasự vắng mặt của tôi. Nếu chúng phát hiện rathì Maria Thins nói là tôi đi làm việc vặt cho bà, hay khâu vá gì đó cho bà và cần ánh sáng ở phòng áp mái để làm việc. Suy cho cùng, bọn chúng là trẻ con và còn đang mải say mê trong thế giới của riêng mình, thờ ơ với cuộc sống của những người lớn xung quanh, chỉ trừ khi chuyện đó ảnh hưởng trực tiếp đến chúng.
Hoặc tôi nghĩ như vậy.