Về thăm quê của Lale, tháng Sáu năm 2018
Một trong những điều ngạc nhiên nhất ở chuyến đi đến Auschwitz là được gặp một nhóm đến từ Krompachy, quê của Lale – họ đến gặp tôi sau khi tôi liên lạc với Richard Bartko, một người Úc sinh ra ở thị trấn đó. Họ tha thiết mời tôi đến thăm họ ở Krompachy để xem nơi Lale lớn lên. Và trong chuyến đi châu Âu tiếp theo, sau khi đã quảng bá quyển sách của tôi ở thủ đô Bratislava của Slovakia, tôi đã đi thăm họ.
Khi biên tập viên của tôi và tôi lái xe từ khách sạn đến sân ga Bratislava, tôi nhìn ra những con đường chúng tôi đi qua, mỉm cười thầm nghĩ: Lale và Gita ắt hẳn đã đi trên con đường này. Tay trong tay, mắt ông không khi nào rời bà, khi họ về nhà sau khi đi gặp bạn bè, đi ăn tối. Ở chỗ này, ngay lúc này, họ đã bước đi.
Khi xe dừng ở ga tàu, tôi có cảm giác như mình đi ngược thời gian, mặt tiền đó có lẽ vẫn giống như hồi Lale đến đây mỗi ngày để hỏi những hành khách nữ xuống tàu, “Cô có biết Gita không? Cô có ở Birkenau không?”
Angela và tôi uống cà phê trong một tiệm ăn nhỏ chắc đã không thay đổi gì suốt mấy chục năm qua. Giấy dán tường bằng vàng lá, bàn ghế, mấy cái bục cũng đều khoác một lớp áo màu thời gian. Khi chúng tôi đi dọc sân ga tìm toa tàu sẽ đưa chúng tôi đến Krompachy, tôi tưởng tượng ra một thanh niên sải bước dọc con đường hợp này, nhìn vào trong cửa sổ những con tàu mới đến. Tôi cảm giác mình gần ông quá đỗi.
Khi tàu rời sân ga tôi nhìn ra những cánh đồng, biết rằng ông cũng đã ngắm cảnh này khi trở về Bratislava. Một người sống sót.
Khi tàu đến ga Spišská Nová Ves, một giọng quen thuộc cất lên, “Cô Morris, cô Morris”. Tôi nhìn thấy khuôn mặt điển trai của Pali Rabatin đang mỉm cười. Cậu là một trong những người dân Krompachy đã đến gặp tôi ở Auschwitz sáu tuần trước đó.
Thật tuyệt khi gặp lại cậu và tất cả những cảm xúc về khoảng thời gian tuyệt vời với hai mươi tư người khác ùa về trong tâm trí tôi. Sau khi chào hỏi ngắn gọn người bạn của cậu, lái xe của chúng tôi, mọi người lên đường về Krompachy.
Những cuộc nói chuyện cứ tuôn trào khi xe chúng tôi qua miền quê xanh mướt chen giữa là làng mạc.
❖ ❖ ❖
Chúng tôi không dám mong mình được đối đãi như thế khi đến ngôi trường ngày xưa cậu bé Lale đi học. Thị trưởng, Phó Thị trưởng và phụ huynh cũng như giáo viên cũng có mặt và buổi trà chiều được bày ra trước mắt chúng tôi. Dù đối với tôi bánh quy ngọt hợp với cà phê và trà hơn là rượu và sâm-banh người ta thết đãi.
Nhiều khuôn mặt thân quen hơn từ chuyến đi châu Âu trước cũng hiện diện kèm theo những cái ôm và nước mắt. Chúng tôi giành lấy Pali hay bất kỳ ai có thể dịch hàng núi những lời đón chào đổ dồn về phía chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi ngồi xuống và được vài em học sinh nhỏ thết đãi một màn biểu diễn tài năng âm nhạc.
Đặc biệt có một em khiến tôi phải nhìn lên trời để cảm ơn Chúa. Tôi cố gắng không biểu lộ cảm xúc của mình khi nghe cô bé chơi đàn vĩ cầm bài Perfect (Hoàn hảo) của Ed Sheeran. Lần đầu tiên tôi được nghe bài hát này là nhờ con gái tôi, một ngày nọ nó gọi cho tôi và bảo, “Mẹ phải nghe bài hát này, chắc chắn nó được sáng tác cho Lale và Gita.”
Chúng tôi đi dọc hành lang mà có lẽ Lale đã từng chạy và tôi ngờ rằng ông còn đá bóng ở đó nữa. Tôi có thể mường tượng ra ông đang vui vẻ cười đùa cùng chúng bạn, ngồi trong lớp học nhìn ra thị trấn. Tôi ngạc nhiên khi thấy thật dễ biết bao khi vượt thời gian về lại cách đây hơn tám mươi năm để nhìn thấy ông rõ ràng trước mắt.
Chúng tôi đi dạo với Pali, thông dịch viên của mình, cùng với những chức sắc trong thị trấn. Thoạt đầu, Krompachy trông giống như một bối cảnh lý tưởng: một thị trấn nhỏ xinh đẹp, rực rỡ sắc màu, cây cối bao quanh và dòng suối róc rách chảy qua. Một con suối mà Lale vẫn thường lui tới bơi khi ông chán chuyện học hành. Tôi nhìn quanh thị trấn qua lăng kính màu hồng của những người đưa tôi đi khoe thị trấn của họ, với vẻ tự hào. Đương nhiên cũng có các cơ sở kinh doanh đóng cửa, một vài cửa hàng cần sửa chữa – những thực trạng kinh tế.
Họ kể cho chúng tôi rằng nơi đây từng là giáo đường Do Thái. Vì không còn ai trong thị trấn đến đó thờ phụng nữa nên nó đã bị dỡ bỏ.
Nơi mà nhà của Lale từng ở bây giờ là một cửa hàng bị bỏ hoang, cửa sổ bị bít lại bằng ván gỗ.
Chuyến tham quan của chúng tôi có một con mèo tò mò đi theo và quan sát nhất cử nhất động của chúng tôi, nó trốn sau bức tượng này hoặc cái cây kia.
Khi vào đến tòa thị chính được trang trí nhiều bức ảnh của các thị trưởng và chức sắc tiền nhiệm, chúng tôi đi vào các phòng hội đồng. Bên trong là một cái bàn lớn uy nghi, và những bức tường thấm đẫm lịch sử của thị trấn đáng tự hào này.
Những cuốn sách cổ lớn đặt trước mặt tôi, nhấn mạnh lịch sử của thị trấn gồm cả sổ đăng ký trong đó có thông tin khai sinh của Lale viết bằng tay. Nó phản ánh rằng thị trấn này ngày xưa là một phần của đế quốc Áo–Hung vào thời điểm ông ra đời và tên của ông được đăng ký là Lajos, cách đánh vần tiếng Hung của Ludwig. Tôi nhìn xuống phía dưới trang giấy và thấy tên cha mẹ của ông, họ của mẹ ông, và tất cả thông tin liên quan xác nhận sự tồn tại hợp pháp của ông.
Nhưng rồi cuối phần khai sinh đó có một mảnh giấy nhỏ ố vàng cũ kỹ được dán lên. Nó bay phấp phới nhưng khi đè xuống nó để lộ chi tiết rằng vào năm 1945, Lale thông báo ông lấy họ là Sokolov. Ông thật nghiêm chỉnh, tôi nghĩ. Ông đã hợp thức hóa nó! Đó là điều mà tôi nghi hoặc bấy nay.
Chúng tôi ngồi xuống uống sâm-banh và những câu chuyện cứ tự nhiên tuôn trào từ hơn chục người địa phương đang tụ tập quanh chúng tôi. Tôi thấy mình thật tầm thường khi nghe về những kỳ tích của cha mẹ và gia đình những người này và về sự can đảm của họ khi cố gắng giúp cộng đồng Do Thái khi những người này bị bao vây và bắt đưa đi.
Thị trưởng Iveta Rušinová kể cho chúng tôi về một cặp vợ chồng người Do Thái, cả hai đều là bác sĩ, họ đã cùng một đứa con nhỏ nấp trong căn hầm của một gia đình địa phương trong suốt mấy năm. Nhiều bệnh nhân được đưa đến để họ chữa bệnh và đã sống sót nhờ tài năng và tấm lòng của họ. Giúp những người khác, họ phải trả giá bằng đứa con của họ, đứa bé bị bệnh và không qua khỏi.
Có quá nhiều câu chuyện. Có quá nhiều người dũng cảm.
❖ ❖ ❖
Ly sâm-banh của tôi cứ tiếp tục được bí mật rót đầy và kế hoạch về buổi giới thiệu chính thức cuốn Thợ xăm ở Auschwitz ấn bản tiếng Slovakia được lên kế hoạch vào ngày hôm sau. Thị trường hỏi chúng tôi có muốn xem văn phòng của bà không. Ấn tượng đầu tiên của tôi là sự sang trọng – căn phòng này được sắp xếp cho người được tôn trọng nhất thị trấn. Tôi thấy vui khi xem Angela chụp ảnh và kiểm tra bàn của thị trưởng và thốt lên rằng cô phải bắt chước căn phòng này cho văn phòng của cô mới được.
Con mèo theo chúng tôi tận khi chúng tôi rời tòa thị chính để đi bộ một lát đến nghĩa trang cạnh bên. Người ta tự hào chỉ cho chúng tôi ngôi mộ của hai vị bác sĩ Do Thái, chúng được khắc chữ bằng cả tiếng Slovakia lẫn tiếng Hebrew và được chăm sóc rất chu đáo. Chúng tôi cũng thấy và đến viếng mộ của ông bà Bartko, cha mẹ của người sống ở Sydney đã kết nối chúng tôi đến đây.
Rời nghĩa trang, chúng tôi đến một nhà hàng địa phương để ăn tối với Stanislav Barbus, Phó Thị trưởng, ông không nói được tiếng Anh, cùng với thông dịch viên Pali của chúng tôi. Thật là một buổi tối tuyệt vời.
Chúng tôi tìm cách giao thiệp với Stanislav bằng việc nhận lời mời đến ăn tối với ông và mời ông ăn tối. Pali làm việc quá giờ để dịch những cuộc nói chuyện dông dài của chúng tôi. Chúng tôi uống cả cốc-tai, rượu vang lẫn rượu mơ Slivovitz và lái xe đưa tất cả những người có mặt trên xe ai về nhà nấy. Tôi sẽ không kể chi tiết nữa.
❖ ❖ ❖
Sáng hôm sau, tại trường trung học, tôi được giới thiệu với cô hiệu trưởng và các giáo viên khác cùng một vài phóng viên báo chí, ai cũng cầm theo máy ảnh.
Khoảng năm, sáu chục học sinh trung học tập trung trong một căn phòng, mồ hôi nhễ nhại vì không có điều hòa mà chỉ có một chiếc quạt nhỏ cố gắng làm chúng tôi dễ chịu nhưng vô vọng. Tôi nghe bảo các em có học tiếng Anh, vì thế cuộc nói chuyện của tôi với các em sẽ không được thông dịch.
Các em chăm chú lắng nghe khi tôi kể cho các em về một chàng thanh niên đã ngồi ở chỗ giờ đây các em đang ngồi và có một cô bé cỡ tuổi các em sống ở thành phố cạnh bên đã sống sót qua những thời kỳ khủng khiếp nhất trong lịch sử và đã tìm thấy tình yêu kéo dài suốt sáu mươi năm.
Tôi nói thật chậm và đơn giản và từ các câu hỏi các em đặt ra cho tôi, tôi cho rằng các em đã hiểu và xúc động trước câu chuyện được nghe. Tôi yêu cầu các em suy ngẫm về chuyện Lale và Gita đã tiếp tục cố gắng để có một cuộc sống thành đạt, hạnh phúc và lâu bền, luôn luôn biết rằng họ mang trong mình quá khứ và đặc biệt là mang theo cả những người không sống sót. Hãy làm theo cách của mình, sống theo cách mình muốn nhưng không bao giờ được quên quá khứ.
Khoảnh khắc cảm động nhất của sự kiện này là những lời của cô hiệu trưởng. Thông qua người thông dịch, cô bảo tôi rằng dù không hiểu tôi nói gì nhưng cô đã rơi nước mắt bởi cách nói chuyện đầy say mê của tôi. Chao ôi.
Tôi được một vài đài phát thanh truyền hình địa phương và quốc gia phỏng vấn, họ tranh nhau để micro của họ gần tôi, máy quay chen chúc nhau khi tôi xoay từ phóng viên này sang phóng viên kia, tìm sự trợ giúp của Katarína Šoltésová, thông dịch viên của tôi. Tôi thấy toàn bộ chuyện này thật buồn cười, tôi đã xa cách những thứ trước đây tôi từng can dự vào quá lâu rồi.
Tôi chẳng biết gì về lễ đón tiếp đang đợi chúng tôi ở buổi ra mắt sách chính thức.
Khi xe dừng, tôi há hốc mồm khi thấy những người đứng bên ngoài chào đón chúng tôi: bà Thị trưởng, mang huy hiệu thị trưởng, Phó Thị trưởng, các ủy viên hội đồng, vài người dân địa phương, và hai người trẻ đẹp, một nam một nữ mặc quốc phục, một người cầm chiếc đĩa đựng những miếng bánh mì nhỏ, người kia cầm một chén muối. Tôi được bà Thị trưởng đón tiếp nồng hậu, rồi đưa tôi đến gần hai em bé kia và hướng dẫn tôi bẻ một mẩu bánh mì chấm muối ăn. Trước sự chứng kiến của mọi người đứng xung quanh, tôi cùng bà Thị trưởng bước vào tòa nhà rồi đến phòng chức năng.
Căn phòng đông nghẹt người ngồi đứng khắp tứ bề, tất cả đều diện những bộ áo quần đẹp nhất. Khi bà Thị trưởng và tôi bước vào, họ đứng dậy vỗ tay và tràng pháo tay dường như rất dài. Lấy lại bình tĩnh, tôi quay qua ôm chầm lấy Angela để giúp tôi trụ vững trên đôi chân đang run rẩy.
Bà Thị trưởng ra dấu mời chúng tôi ngồi xuống và tiếp đến là màn biểu diễn của các bạn trẻ trong vùng. Hai chàng trai chơi khúc dạo đầu trên đàn accordeon; có một em chơi dương cầm, và rồi một bé gái bảy tám tuổi hát bài dân ca rất hay. Còn có phát biểu, trao quà và tặng hoa. Máy quay truyền hình ghi lại mọi hình ảnh và thỉnh thoảng tôi phải nhăn mặt vì bị họ quấy rầy.
Chuyển sang một phòng thông với phòng này, tôi được tặng một cuốn sách của tôi bằng tiếng Slovakia. Thị trưởng cầm một chiếc đĩa bạc lớn, Phó Thị trưởng đưa cho tôi một chai rượu sâm-banh đã khui. Tiếng reo hò vang lên khi tôi đổ rượu vào cuốn sách, tôi trút sạch rượu lên cuốn sách và thế là nó đã được giới thiệu lần đầu tiên ở Slovakia. Có thêm một lễ truyền thống được tổ chức, khi tất cả chúng tôi nâng ly chúc mừng Lale và Gita, và cả Thợ xăm ở Auschwitz .
Máy quay lại chĩa vào mặt tôi, micro của họ khua ầm ĩ vào nhau và tôi cung cấp thông tin cũng như nhận xét theo yêu cầu của họ. Tôi ngồi xuống nói chuyện với từng người dân địa phương khi họ cầm cuốn sách trong tay nhờ tôi ký tên. Anh chàng thông dịch tội nghiệp của tôi phải làm việc quá giờ để lấy họ tên, hỏi thông tin và gửi lời cảm ơn chân thành của tôi đến những người có mặt.
Ngày hôm trước Thị trưởng và tôi đều xác nhận rằng cả hai đều thích kem lạnh. Sau khi ký xong quyển sách cuối cùng chúng tôi được đưa đến một tiệm kem và chọn cho mình những vị kem ưa thích. Cô bé hát ở buổi lễ và cậu em trai nhỏ cũng dừng lại ở đó mua kem và tôi nói chuyện với cô bé, cảm ơn cô đã hát rất hay.
Khoảng chục người chúng tôi đi bộ xuống con đường chính của thị trấn để ăn kem và xem trẻ con chơi trong khu vực công viên trung tâm của thị trấn. Đối với nhiều người dân địa phương đã ở bên tôi trong suốt các sự kiện Krompachy thì đã đến lúc nói lời tạm biệt. Họ gửi đến tôi tình cảm dạt dào và sự tri ân. Lale được vinh danh là anh hùng của thị trấn quê nhà và tôi cũng được gọi là anh hùng vì đã kể câu chuyện của ông. Tôi cố gắng nói cho những con người đẹp đẽ này hiểu rằng Lale chưa bao giờ muốn được gọi là anh hùng, ông chưa bao giờ nghĩ thế về những điều ông đã làm ở Auschwitz–Birkenau. Họ không đồng ý và thế là chúng tôi tạm chia tay, họ cảm ơn vì tôi đã ghé thăm họ, vì đã kể câu chuyện đó, và đồng tình rằng tên tuổi của Lale sẽ được nhớ đến ở thị trấn Krompachy.
Số lượng người tôi gặp ở thị trấn nhỏ này đã khiến tôi cảm phục và thấy có mối liên kết sâu đậm với cộng đồng tuyệt vời này. Những người này, họ biết ý nghĩa của từ cộng đồng.
Nếu ngày xưa Lale lớn lên ở đây mọi thứ cũng thế thì người đàn ông mà tôi quen biết chẳng thay đổi chút nào. Vẫn làm những việc thiện nguyện cho cộng đồng và giúp đỡ người khác khi cần và khi có thể, đó là cách ông đã sống cuộc đời mình. Tình yêu ông dành cho gia đình và bạn bè đã thúc đẩy ông, tôi thấy tình yêu và sự hy sinh đó hiện hữu trong những người dân tôi gặp ở Krompachy, khi họ nói nốt câu cho nhau và cười khúc khích trước những lời nhận xét nửa chừng vì đã biết thừa phần sau.
Cuối cùng khi chúng tôi chào tạm biệt mọi người, cả Angela và tôi không ai muốn kết thúc buổi tối đó. Tôi sang phòng cô và hai chúng tôi cùng kiểm tra giỏ quà tôi được tặng vào ngày tôi đến. À ha, hai chai Slivovitz khác nhau.
Chúng tôi lấy ly từ trong phòng tắm và rót rượu rồi ngồi trên bậu cửa sổ nhìn ra thị trấn và dãy núi Tatra hùng vĩ. Chỉ còn vài giờ nữa là bình minh mà chúng tôi vẫn còn nói chuyện và giải quyết các vấn đề của thế giới. Bằng việc có mặt ở đó, vào thời khắc đó, chúng tôi đã được khơi nguồn cảm hứng để hứa với nhau rằng chúng tôi sẽ tiếp tục kể câu chuyện của Cilka với niềm đam mê và lòng tận tụy như đã làm với câu chuyện của Lale. Cilka xứng đáng được gọi là anh hùng vì đã sống sót.
Mối quan hệ tác giả và biên tập viên của chúng tôi càng được hun đúc nhiều hơn khi chúng tôi cảm ơn Lale đã mang chúng tôi đến với thị trấn đặc biệt này và được gặp những con người đặc biệt. Chúng tôi sẽ nhớ mãi Krompachy. Đây là một nơi thật đặc biệt.