← Quay lại trang sách

Chương 1

Cái chết ở Nga không cùng một mùi với cái chết ở Châu Phi. Ở Châu Phi, dưới hỏa lực mạnh của pháo binh Anh, những xác chết phải nằm phơi lâu giữa các chiến tuyến, nhưng mặt trời làm tan rữa thật nhanh. Ban đêm, gió đưa mùi nặng nề tởm lợm của chúng đến, làn tử khí nâng những xác chết đang rữa nát lên và người ta tưởng như chúng trỗi dậy, dưới ánh những vì sao xa lạ, trong một cuộc chiến đấu cuối cùng, đơn độc và vô vọng. Nhưng ngay hôm sau, những xác ấy bắt đầu co quắp lại, ôm từng nếp đất dưới thân chúng, như vô cùng mệt mỏi, như chính chúng muốn tự vùi mình trong cát - rồi khi người ta có thể đến thu nhặt được, thì đã có những xác trở nên khô và nhẹ; nếu phải đợi lâu, nhiều tuần sau thì chúng chỉ còn là những bộ xương bọc da thuộc, giòn tan như gỗ nỏ trong những bộ binh phục quá rộng. Cát, nóng và gió là cái chết khô và sạch. Cái chết ở Nga, ngậy béo và làm lộn mửa.

Mưa đã mấy hôm rồi. Tuyết tan thành bùn. Một tháng trước đây, tuyết dầy tới một thước. Cái làng hoang tàn này thoạt tiên chỉ là mấy mái nhà cháy trụi, sau mỗi đêm lại lộ thêm ra một chút giữa tuyết tan. Phần trên các cửa sổ hiện ra trước, vài đêm sau, người ta thấy các vòm cửa ra vào nhô lên, rồi rừng bậc thềm từ trong mầu trắng bẩn thỉu ló ra. Tuyết cứ tan mãi, đến lượt các xác chết xuất hiện.

Đó là các xác chết cũ. Làng đã đổi chủ nhiều lần, vào hồi tháng một, tháng chạp, tháng giêng và mới gần đây hồi tháng tư. Nó bị chiếm, bị bỏ để rồi lại bị chiếm và tuyết cứ rơi liên tục đã phủ lên những xác chết một lớp thảm, thường chỉ vài giờ là dầy đến nỗi các y tá không còn thấy tung tích gì nữa. Mỗi ngày lại phủ thêm một lớp tuyết mới lên cảnh vật điêu tàn như một nữ y tá phủ tấm khăn trắng tinh lên các giường đẫm máu và bùn.

Những xác chết hồi tháng giêng lộ ra trước tiên. Chúng nằm trên mặt đất nên trơ ran ngay hồi đầu tháng tư, khi tuyết vừa tan. Xác cứng lại vì rét, khuôn mặt như tạc trong sáp. Người ta mang chúng đi như những hình nhân gỗ. Trên một gò cao sau làng, lớp tuyết mỏng hơn mọi nơi khác, người ta dọn mặt đất băng giá và định đào huyệt ở đó. Đây là một việc lâu công, vất vả nên người ta quyết định chỉ chôn xác lính Đức. Xác lính Nga thì chất đống trong một chuồng gia súc trống huếch. Tiết trời hơi dịu, những xác này bắt đầu nặng mùi và lại phải phủ tuyết lên trên. Nhưng người ta nhất định không chịu chôn vì biết rằng chẳng giữ được làng này bao lâu nữa. Trung đoàn vừa đánh vừa rút. Quân Nga đang tiến có thể tự lo liệu lấy xác chết của họ.

Cùng với các xác chết hồi tháng chạp, người ta thấy cả vũ khí của bọn chết hồi tháng giêng. Súng, lựu đạn chìm sâu hơn xác người, đôi khi cả mũ sắt nữa.

Nước đã làm mủn vải binh phục, cắt vải ra là dễ tìm thấy những vết tích đặc biệt trên các thi thể hơn cả. Xác nào cũng đầy mồm tuyết đã tan như bị chết đuối. Đôi khi chân tay tan giá trước toàn thân và lúc khiêng chúng đi, người ta thấy một cánh tay hay một cẳng chân thong thả đu đưa trong một động tác lạnh lùng, gớm ghiếc, gần như thô tục.

Một tia nắng vừa chiếu tới, những con mắt tan giá trước tiên. Những con mắt ấy đã mất ánh trong suốt và lòng ngươi đục như keo. Những giọt nước mặt đặc sệt từ trong mắt chậm chạp lăn ra.

Đột nhiên có một đợt rét dài vài ngày. Mặt tuyết lại phủ một lớp băng và ngừng không hạ thấp. Nhưng chẳng bao lâu, gió xuân ấm áp lại thổi.

Thoạt tiên, người ta chỉ thấy một vệt nhỏ màu xám giữa nền trắng nhớp nhúa. Một giờ sau, một bàn tay co quắp hiện lên.

– Lại một cái nữa - Daoê nói.

– Ở đâu? Immecman hỏi.

– Đằng kia, trước nhà thờ. Ta thử lôi lên chứ?

– Không cần. Gió khắc lo. Còn ít nhất một hay hai thước tuyết. Cái làng khốn kiếp này lại xây đúng nơi đất trũng. Hay cậu nhất định muốn mỗi chiếc bốt của cậu phải sũng thêm mười lít nước nữa.

– Thế thì không đâu!

Daoê nhìn về chiếc xe nhà bếp.

– Cậu thử đoán xem hôm nay có gì ăn nào?

– Củ cải vàng. Củ cải vàng với thịt lợn, khoai tây và nước lã. Xin cải chính: không có thịt lợn.

– Củ cải vàng! Thế là ba lần trong tuần này rồi đấy!

Daoê cởi khuy quần đái.

– Mới có một năm thôi, tớ đái còn xa, hiên ngang, đúng kiểu con nhà lính, ra dáng lắm. - Y chua chát nhận xét - Người còn khỏe. Như một chiếc xe nhà bếp hạng nhất. Lại hành quân nữa! Đi bao nhiều cây số một ngày cũng được. Tớ cứ tưởng được về nhà ngay. Bây giờ thì tớ đái như một thằng dân, hèn quá; chẳng còn lòng dạ nào.

Immecman luồn một tay xuống dưới bộ binh phục và gãi, vẻ khoái trá ra mặt.

– Tớ thì đái kiểu nào cũng được, miễn là được trở lại thành dân thường.

– Tớ cũng vậy, như tớ bắt đầu cho là bọn ta đến ở lính suốt đời mất.

– Nhất định rồi, bọn ta là anh hùng mà, làm anh hùng là sinh ra để mà ngoẻo. Bây giờ thì chỉ bọn SS[1] là đái còn xa.

Daoê cài lại khuy quần.

– Chúng nó thì còn được. Công việc thì bọn ta làm, vinh dự chúng nó hưởng. Người ta đánh nhau hàng hai ba tuần để chiếm lấy một thành phố khốn nạn rút cục đến phút cuối cùng, tụi SS kèn rong trống mở kéo vào trước. Cậu có thấy chúng được săn sóc như thế nào không? Áo capốt, bốt, thịt, bao giờ chúng nó cũng được những thứ tốt nhất.

Immecman cười khẩy.

– Nhưng bây giờ thì bọn SS cũng chẳng kèn trống tiến vào đâu được nữa. Chúng nó cũng cuốn xéo. Như bọn ta vậy.

– Không hẳn thế, bọn ta có gặp gì cũng giết trước khi rút đâu.

Immecman xúc động ngừng gãi.

– Cậu tự nhiên làm sao đâm ra đa cảm thế? Cẩn thận đừng để thằng Staibrennơ nghe thấy, không lại có ngày về đội cải hối sớm. Kìa, tuyết vừa sụt trước nhà thờ kìa. Trông thấy cánh tay người anh em rồi.

Daoê quay lại.

– Cứ như thế này thì chỉ sớm mai là thấy hắn vướng vào một cây thập tự thôi. Thằng cha cũng khéo chọn chỗ, đúng giữa nghĩa địa.

– Nghĩa địa đấy à?

– Phải, cậu không biết ư? Thế mà bọn ta đã quen thung thổ này rồi đấy: hồi cuối tháng mười, lần tấn công cuối cùng, bọn ta đã ở đây rồi mà. Dạo ấy cậu chưa ở cùng với chúng tớ à?

– Chưa.

– Thế ở đâu? Quân y ư?

– Không, ở đội cải hối.

Daoê mỉm miệng lại, huýt gió.

– Chà! Tại sao vậy?

Immecman nhìn y.

– Đảng viên cộng sản cũ, gã nói.

– Hả? Thế mà họ cũng thả cậu ra à?

– Phải chịu chứ biết làm sao. Tớ vốn là thợ máy chuyên nghiệp. Họ cần thứ đó ở đây hơn là ở các pháo đài.

– Tớ cũng ngờ vậy. Nhưng dù sao cũng là đưa một tay đảng viên cộng sản cũ sang Nga!Thông thường họ chọn một mặt trận khác.

Bỗng nhiên, Daoê nhìn Immecman với vẻ nghi ngờ.

Immecman cười gằn. Gã hiểu Daoê đang nghĩ gì.

– Đừng ngại cậu ạ, gã nói. Tớ không phải là dân mồi chài[2], tớ sẽ không đi tố giác chuyện cậu vừa nói về bọn SS đâu. Cậu nghĩ thế chứ gì, phải không?

– Tớ ấy à! Cậu không điên chứ?

Daoê nhặt gamen lên.

– Đi ăn nhanh đi, không thì bọn ta chỉ còn nước rửa bát.

Bàn tay đã ló dần. Hình như không phải mặt tuyết hạ thấp xuống mà là bàn tay mọc lên như một cây nấm tái nhợt và khủng khiếp, một tín hiệu cầu cứu bị cứng đờ vì lạnh.

Vừa trông thấy nó, viên đại úy đứng lại.

– Cái gì thế kia?

– Thưa đại úy, có lẽ là một xác lính Nga.

Rahê giương to mắt. Bây giờ hắn đã thấy một mẩu tay áo đã bạc màu.

– Không phải xác lính Nga, hắn nói.

Những ngón chân của trung sĩ Muychkê quặp lại trong đôi bốt, gã không sao chịu nổi viên đại úy. Rõ ràng là gã kính cẩn đứng nghiêm cứng người - kỷ luật vẫn mạnh hơn tình cảm cá nhân - nhưng để biểu lộ sự khinh bỏ, gã ngó ngoáy ngón chân trong bốt. Gã thầm nghĩ: đồ ngu.

– Lôi lên cho tôi, Rahê nói.

– Xin tuân lệnh đại úy.

– Gọi thêm mấy người nữa làm ngay đi. Trông chẳng đẹp chút nào.

Muychkê nghĩ:

– Quái, thằng dát thế!Trông chẳng đẹp chút nào!Hình như lần đầu tiên nó được trông thấy xác chết thì phải!

– Đây là một lính Đức, Rahê nói.

– Thưa đại úy, chắc thế, nhưng đã bốn hôm nay rồi, chỉ thầy toàn xác lính Nga.

– Cứ lôi lên đã, rồi xem sao.

Rahê quay về chỉ huy sở. Muychkê nghĩ: “Đồ tự phụ, nó có nhà ở, có bếp lò ấm áp, lại còn có cả Thập tự Sắt[3] đeo ở cổ, còn mình thì đến cái huy chương cũng chẳng được. Dường như mình không có quyền được hưởng như nó cả cái lô nồi xoong đó[4]

– Daoê! Immecman! Gã gọi. Tất cả mang xẻng lại đây! Gơrebê! Hiếcsưlan! Becninh! Staibrennơ chỉ huy! Các cậu có trông thấy bàn tay ở đằng kia không? Lôi xác ấy lên, nếu là lính Đức thì phải chôn cất cẩn thận! Nhưng tớ cá đây là lính Nga.

Staibrennơ lê chân, bước tới:

– Cá à? Bao nhiêu?

Nó cố nói trầm xuống một âm giai nhưng vô ích vì giọng vẫn ra vẻ trẻ con. Muychkê ngập ngừng một lát.

– Ba rúp, sau đó gã nói. Ba rúp vùng chiếm đóng.

– Năm rúp đi. Dưới năm rúp tớ không cá.

– Được, năm rúp, nhưng đặt tiền ra.

Staibrennơ cười. Hàm răng của nó ánh lên trong nắng nhạt. Nó mười chín tuổi và mặt tròn như phỗng[5].

– Đặt tiền ra à? Rồi gì nữa?

Muychkê ghét nhưng lại sợ nó nên vẫn phải giữ miếng. Staibrennơ ở đội SS đến và có Huân chương vàng của Đoàn thanh niên Hítle. Hiện nay nó ở đại đội nhưng ai cũng biết là nó làm mật thám cho bọn Ghextapô[6].

– Tốt. Thôi được rồi.

Muychkê rút ở trong túi ra một hộp thuốc lá bằng gỗ anh đào, có trang trí bằng những nét trạm cháy.

– Thuốc lá à?

– Chứ gì!

– Staibrennơ này, Quốc trưởng không hút thuốc đâu nhé. Immecman nói lửng lơ.

– Câm mồm đi.

– Thì mày cũng câm đi.

– Trông mày có vẻ phởn lắm nhỉ?

Staibrennơ liếc nhìn đối phương qua hàng mi dài màu hung.

– Hình như trí nhớ của mày kém lắm đấy?

Immecman cười.

– Về việc mày muốn nói thì trí nhớ của tao là khá tốt, Mác ạ. Nhưng về phía mày, đừng quên điều này: Quốc trưởng không hút thuốc đâu. Tao chỉ nhắc mày có thể. Và tao có bốn người làm chứng. Ai cũng biết rằng Quốc trưởng không hút thuốc.

– Tán nhảm thế đủ rồi! Muychkê nói - Thôi làm việc đi! Lệnh đại úy đấy.

Staibrennơ châm điếu thuốc Muychkê vừa cho và nói:

– Nào thì làm!

– Cái lõi hút thuốc trong giờ làm việc có từ bao giờ đấy nhỉ? - Immecman hỏi.

– Chẳng liên quan gì đến công việc cả, - Muychkê giận dữ nói - Làm đi thôi. Cả cậu nữa, Hiêcsưlan!

Hiêcsưlan đến gần. Stainbrennơ cười khẩy.

– Isắc[7],việc ngon ăn để cho mày đấy nhé. Đào một xác chết. Đối với cái giống Do thái thế là rất tốt! Vừa khoái lại vừa bở ăn. Thôi cầm xẻng lên đi.

– Mình là người Aryen[8] đến ba phần tư đấy, Hiêcsưlan nói.

Staibrennơ thở khói thuốc nó đang hút vào mặt y.

– Thế hả! Đối với tao, mày là một thằng có một phần tư máu Do thái - và nếu mày được phép chiến đấu bên cạnh những người Đức chính cống, đó là nhờ sự rộng lượng của đức Quốc trưởng. Thôi, đào cái thằng Nga chó má này lên! Nó làm bẩn cả mũi đại úy.

– Không phải lính Nga, Gơrebê nói.

Anh ta vừa bắc ván tới chỗ xác chết và bắt đầu lôi cánh tay và thân trên người bị vùi dưới tuyết lên. Lúc này, bộ binh phục ướt sũng trông đã rõ.

– Không phải lính Nga.

Staibrennơ nhảy tới, nhẹ nhàng và chắc chắn trên cầu ván rung rung, nó ngồi xổm bên cạnh Gơrebê.

– Ra đúng thật. Xác chết mặc binh phục Đức - Nó quay lại gọi: Muychkê ơi! Không phải lính Nga! Tớ được nhé!

Mychkê nặng nề tiến đến nhìn vào cái hố, nước đang dâng cao.

Tớ chẳng hiểu ra sao cả - Gã càu nhàu - Đã gần một tuần nay, chỉ thấy toàn xác lính Nga. Có lẽ đây là xác chết hồi tháng chạp bị chìm sâu quá.

– Cũng có thể là từ hồi tháng mười - Gơrebê nói. Trung đoàn ta có qua đây hồi đó.

– Vô lý. Nếu thế người ta đã nhặt đi rồi.

– Không nhất định. Đánh nhau ban đêm mà. Quân Nga vừa đánh vừa rút, còn chúng ta thì phải hành quân cấp tốc.

– Đúng đấy, Daoê nói.

– Không! Chắc chắn là đội hậu bị đã thu nhặt hết các tử sĩ rồi.

– Chưa chắc. Cuối tháng mười, tuyết đã rơi nhiều mà chúng ta thì tiến rất nhanh.

– Cậu nói lần này là lần thứ hai rồi nhé.

Staibrennơ nhìn Gơrebê.

– Tớ có thể nói lần thứ ba nữa, nếu cậu muốn. Chúng ta phản công và nhảy vọt tới chừng một trăm cây số.

– Thế bây giờ chúng ta lùi à?

– Bây giờ chúng ta đang ở đây.

– Nghĩa là chúng ta rút lui chứ gì, có đúng hay không?

Immecman huých Gơrebê.

– Có lẽ chúng ta đang tiến đấy hẳn? Gơrebê hỏi.

– Chúng ta rút ngắn đường giao thông lại - Immecman quay nhìn thẳng vào Staibrennơ và giải thích - Chúng ta áp dụng lối hành quân chiến lược này đã được một năm rồi, và chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ làm chúng ta thắng trận. Ai mà chẳng biết vậy?

– Xác chết đeo nhẫn ở ngón tay này - Hiêcsưlan vừa gỡ được bàn tay phải của xác chết lên bỗng nói.

Muychkê cúi xuống miệng hố.

– Đúng - gã nói - Lại bằng vàng nữa! Nhẫn cưới.

Cả bọn cùng xem. Immecman lại gần Gơrebê.

– Cẩn thận không thằng sỏ lá làm cậu mất về phép đấy. Gã thầm thì. Nó sẽ tố cáo là cậu có tư tưởng thất bại cho mà xem. Nó chỉ đợi có thế.

– Nó làm ra vẻ tai quái nhưng còn cậu, cũng liệu đấy. Nó ghét cậu hơn mình.

– Tớ à, tớ đếch cần, chẳng bao giờ tớ được đi phép cả.

– Phù hiệu của trung đoàn chúng ta đây này, Hiêcsưlan vẫn tiếp tục dùng tay đào, nói.

– Thế nào, vẫn là lính Nga chứ! Staibrennơ quay về phía Muychkê nói, vẻ đắc thắng.

– Cố nhiên không phải rồi, Muychkê gắt.

– Nào! Bỏ năm rúp đây! Đáng tiếc là chúng ta không cá mười rúp. Bỏ tiền ra đi!

– Tớ không sẵn tiền ở đây.

– Có lẽ cậu định viết séc cho tớ chắc? Đã bảo là bỏ ra mà!

Muychkê giận dữ móc ví và rút ra năm rúp.

– Hôm nay cái gì cũng trái khoáy cả. Mẹ kiếp!

Staibrennơ đút tiền vào túi.

– Hình như là Raikê đấy, Gơrebê nói.

– Hả?

– Người chết là trung úy Raikê ở đại đội ta. Trong lon kìa. Ngón trỏ tay phải của ông ta lại bị mất một đốt.

– Ngốc thế, Raikê đã bị thương và được đưa về hậu phương rồi. Mãi về sau bọn ta mới biết thế.

– Raikê đấy.

– Bới mặt ra.

Rơrebê và Hiêcsưlan cùng bắt tay vào làm.

– Cẩn thận, Muychkê nói. Các cậu làm thủng sọ ra bây giờ.

– Đã nặng mùi thế còn giữ làm gì, Immecman nhận xét.

– Câm đi, thằng cộng sản khốn kiếp kia, đây là thi thể một sĩ quan Đức đã bỏ mình vì Tổ quốc.

Khuôn mặt lộ ra ướt sũng. Những nắm tuyết bít chặt lấy lỗ mắt làm nó giống một cách lạ lùng chiếc mặt bằng thạch cao chưa làm xong, mắt hãy còn mù. Một chiếc răng vàng ánh lên giữa đôi môi tím ngắt.

– Tớ không nhận ra ông ta đấy, Muychkê nói.

– Chắc chắn là ông ấy rồi. Đó là người sĩ quan độc nhất của chúng ta bị mất ở đây.

– Lau lỗ mắt đi.

Gơrebê ngần ngừ một lát rồi lấy hai bàn tay đeo găng khẽ chùi tuyết.

– Đúng ông ấy rồi, anh nói.

Muychkê đã phát bẳn. Gã trực tiếp chỉ huy nhóm lính này. Vì đây là xác một sĩ quan nên gã phải tự làm lấy.

– Lôi lên! Hiêcsưlan và Daoê đằng chân. Staibrennơ và Bécninh hai tay, còn Gơrebê chú ý cái đầu. Tất cả cùng làm một lúc: một, hai, ba!

Xác chết giật nảy lên.

Một lần nữa nhé: Một, hai nào!

Cái xác lại giật nảy lên lần nữa. Mỗi lần lôi là một lần có tiếng mút chùn chụt dưới hố vọng lên.

– Báo cáo trung sĩ, chân rời ra rồi. Hiêcsưlan kêu to.

Thật vậy, một chân bị da bốt ăn rữa nát đã rời ra. Chiếc bốt chỉ còn dính vài thớ gân, đang lủng lảng.

– Đặt xác xuống đất! Muychkê quát.

Muộn quá! Xác chết đổ nghiêng xuống nhưng chiếc bốt vẫn ở trong tay Hiêcsưlan.

– Chân ở trong đó à? Immecman hỏi.

– Để bốt xuống, rồi đi tìm một cái cáng. Muychkê ra lệnh. Có lẽ xác đã rữa nát ra rồi. Immecman, im đi! Hãy tôn trọng người chết một chút!

Immecman sửng sốt nhìn Muychkê rồi cũng nín lặng.

Vài phút sau, xác chết được đặt bên hố, nước đang từ từ dồn tới. Cả bọn tìm thấy trong túi binh phục, một chiếc ví trong có giấy tờ. Chữ viết gần nhòe hết. nhưng cũng còn đọc được để nhận ra người chết là ai. Đúng là trung úy Raikê đã chỉ huy trung đội hồi mùa thu.

– Phải báo cáo ngay mới được. Các cậu ở cả đây, tôi về ngay.

Gã đến ngồi nhà viên đại úy đang ở. Đó là ngôi nhà độc nhất trong làng còn có thể ở tạm được. Trước Cách mạng, chắc đó là nhà ông cố đạo. Rahê đang ngồi trong gian phòng lớn. Muychkê nhìn ngọn lửa cháy trong chiếc lò to kiểu Nga với con mắt khinh bỉ và ghen ghét. Trên chiếc ghế dài vây quanh lò, con chó becgiê Đức của Rahê đang ngủ.

Muychkê báo cáo và cùng viên đại úy đi ra.

Rahê đứng lặng trước xác viên trung úy một phút.

– Vuốt mắt cho ông ấy - sau đó hẳn nói.

– Thưa đại úy, không thể được, Gơrebê đáp. Mi mắt rách mất.

Rahê quay về phía ngôi nhà thờ đã bị phá tới nửa.

– Trong khi chờ đợi, hãy mang xác ông ta lại đây. Ta còn chiếc áo quan nào không nhỉ?

– Áo quan dành cho những trường hợp đặc biệt đều lọt cả vào tay quân Nga rồi, Muychkê đáp. Tôi rất mong bọn chúng có dịp dùng đến.

Staibrennơ cười phá lên. Rahê không cười.

– Có thể đóng một cái khác không?

– Thưa đại úy, làm thì lâu lắm, Gơrebê đáp. Xác đã rữa nát cả. Vả lại khó mà kiếm được ở trong làng một thứ gỗ nào hợp với việc này.

Rahê gật đầu.

– Đặt xác ông ta vào một tấm vải bạt. Cứ chôn thế vậy. Đào huyệt và làm một cây thập tự nhé.

Gơrebê, Daoê, Immecman và Bécninh khiếng xác đi về phía nhà thờ. Hiêcsưlan đi theo họ, rất khó chịu vì phải mang chiếc bốt đầy bùn và thịt.

– Trung sĩ Muychkê! Rahê gọi.

– Thưa đại úy, có việc gì ạ?

– Hôm nay sẽ có bốn du kích Nga bị bắt được giải đến đây cho ta. Sáng mai phải xử bắn chúng nó. Đại đội đã được chỉ định. Hỏi xem có ai xung phong vào đội xạ thủ không. Nếu không, văn phòng sẽ chỉ định.

– Báo cáo đại úy, rõ.

– Có mà trời hiểu tại sao chúng ta lại phải làm việc ấy. Nhất là giữa lúc rối tinh lên thế này!

– Tôi xung phong! Staibrennơ nói.

– Được.

Rahê không nói gì. Hắn leo lên đám tuyết chất đống ngoài miệng hố một cách vất vả. “Thôi! Cút về với cái lò sửa của mày đi cho rảnh”. Muychkê nghĩ: “Thằng oắt! Bắn một vài thằng du kích thế có nghĩa lý gì? Cứ như là chúng không diệt hàng trăm người của ta rồi ấy!”

– Nếu quân Nga đến kịp, ta sẽ bắt chúng đào huyệt cho trung úy Rahê - Staibrennơ nói - Ít ra cũng đỡ được việc ấy. Phải biết cách tổ chức chứ, phải không Muychkê?

– Ồ, đối với tớ thì cậu đã biết đấy?

Muychkê nhìn cái bóng lênh khênh của Rahê xa dần. Đồ sếu vườn đeo kính ấy mà là tri thức, là giáo viên đấy. Thằng cha được đề bạt đại úy từ hồi đại chiến trước. Thế mà trong đại chiến thứ hai này, chưa lên cấp được. Gặp dịp thì cũng dũng cảm đấy, nhưng ai mà chẳng thế? Dù sao thì cũng không ra vẻ thủ trưởng!

– Cậu nghĩ thế nào về Rahê? Gã hỏi Staibrennơ.

Thằng này nhìn vẻ không hiểu.

– Ông ấy chỉ huy đại đội chứ gì?

– Phải, nhưng rồi sao nữa?

– Sao cái gì?

– Không có gì cả - Muychkê đáp vẻ mệt mỏi.

– Vừa sâu chưa? - Người Nga già nhất hỏi.

Đó là một ông già chừng bảy mươi tuổi. Ông lão có một bộ râu trắng bẩn, và một cặp mắt rất xanh, ông nói tiếng Đức một cách khó khăn.

– Câm đi, đồ bônsơvích, có hỏi mới được nói - Staibrennơ đáp lại.

Nó đang vui. Mắt nó không rời người đàn bà Nga đi theo ba tù nhân. Chị trông khỏe mạnh và còn trẻ.

– Cứ đào tiếp đi, Gơrebê cùng gác mấy người Nga với Staibrennơ và Daoê, nói.

– Của chúng tôi đấy à? Ông già hỏi.

Staibrennơ nhẹ nhàng nhảy tới và tát mạnh vào mặt ông lão.

– Lão già này, ta đã bảo mày là phải giữ miệng cơ mà. Mày tưởng ở đâu đây. Ở hội chợ chắc?

Nó mỉm cười trở về chỗ cũ. Khuôn mặt mầu hung của nó trông không có vẻ ác, và chỉ phản ánh niềm vui thích của một đứa trẻ đang vặt chân một con ruồi.

– Không, hố không phải của các ngươi đâu, Gơrebê nói.

Ông lão người Nga không nhúc nhích; ông lặng lẽ nhìn Staibrennơ. Nó cũng nhìn lại ông già. Muychkêột vẻ chăm chú có lẫn cảnh giác hiện lên trên nét mặt bỗng nhiên biến sắc của nó. Nó tưởng ông lão sắp đánh nó và nó đợi ông lão chỉ hơi động đậy là hạ thủ ngay. Có giết ông già ngay tại chỗ cũng không hề gì: ông lão bị án tử hình và không ai sẽ thắc mắc là có đúng Staibrennơ ở hoàn cảnh phải tự vệ không? Nhưng đối với Staibrennơ, vấn đề hình như quan trọng thật. Gơrebê tự hỏi, không biết thằng này chọc tức ông già đến phát khùng để tiêu khiển nhẹ nhàng như một trò thể thao hay vì nó còn phục tùng một thứ thủ tục lạ lùng vẫn đòi hỏi là cứ mỗi vụ giết người lại phải có một duyên cớ riêng nó cho là thích đáng, để vụ án mạng có vẻ hợp pháp hơn. Có lẽ vì cả hai điều đó, và đây không phải là dẫn chứng đầu tiên về loại chuyện này mà Gơrebê gặp.

Ông lão người Nga vẫn không nhúc nhích. Một dòng máu chảy từ mũi xuống râu ông cụ. Gơrebê tự hỏi, ở địa vị ông già, anh sẽ làm gì - xông vào tên Đức để đánh một đòn có lẽ không trúng được nó rồi trả giá bằng cái chết tức thì - hay đành nuốt giật để khỏi mất cái đêm cuối cùng còn được sống. Anh không biết nữa.

Ông lão người Nga từ từ cúi xuống và giơ cuốc lên. Staibrennơ lùi lại một bước, sẵn sàng nổ súng. Nhưng ông lão không ngẩng lên, ông lại thản nhiên cuốc. Staibrennơ cười khẩy.

– Nằm xuống hồ đi, nó ra lệnh.

– Ông lão đặt cuốc và nằm dài dưới hố. Ông cụ nằm ngửa, không động đậy. Khi Staibrennơ lại gần miệng hố, vài cục tuyết rơi xuống người ông cụ.

– Vừa dài chưa? Nó hỏi Gơrebê.

– Được rồi, trung úy Raikê không to lắm.

Ông lão người Nga nhìn bầu trời như ánh lên trong cặp mắt xanh. Chỉ vài sợi râu quanh mép ông là rung rung theo nhịp thở. Staibrennơ để ông lão nằm một lát dưới đáy huyệt, sau đó nó nói:

– Lên đi.

Ông lão đứng dậy ngay và leo lên cạnh những người cùng bị bắt. Những mảnh đất ẩm dính bết vào quần áo ông.

– Được rồi, Staibrennơ nhìn người đàn bà và nói. Bây giờ thì tụi bay tự đào huyệt cho tụi bay đi. Không cần đào sâu như thế này đâu, hè này, cáo ó lại chén tụi bay cũng mặc.

* * *

Ngày rạng. Một ánh hồng nhạt nhuộm phía chân trời. Tuyết mới đóng băng hồi đêm kêu rin rít dưới đế bốt. Những lỗ huyệt mới đài trông đen xì.

– Mẹ kiếp, Daoê rủa. Không biết tụi nó còn bắt chúng ta làm gì nữa. Sao lại cứ bọn ta nhỉ? Đó là công việc của bọn SD[9]chứ. Chúng nó chuyên thủ tiêu người mà. Đây là lần thứ ba rồi. Bọn ta là lính chiến cơ!

Gơrebê thẳng tay đung đưa khẩu súng. Thép súng làm tê buốt bàn tay nên anh đeo găng.

– Tụi SD làm việc của chúng ở hậu phương, anh nói.

– Dĩ nhiên, tụi nó chẳng dại gì mà ở mặt trận. Có phải trước kia thằng Staibrennơ cũng ở đấy không?

– Hình như nó làm trưởng khối ở một trại tập trung hay một cái gì gần như thế.

Những tên khác đến gần. Chỉ một mình Staibrennơ là có vẻ tươi tỉnh, sảng khoái. Trời rét làm má nó đỏ hồng như má trẻ con.

– Chúng mày ơi, nó nói. Con này… để phần tao nhé?

– Mày định làm gì? Daoê hỏi. Mày không còn đủ thì giờ giải quyết đâu? Phải làm sớm hơn một chút chứ?

– Đúng là nó đã làm rồi, Immecman nói.

Staibrennơ quay lại, giận dữ:

– Mày thì biết gì? Quốc tế cộng sản bảo mày thế à?

– Và nó đã bị dập mũi rồi đấy.

– Mày láu lỉnh lắm. Nói cho đúng, tao mà muốn con bé đó, tao đã làm từ lâu rồi.

– Cái đó còn tùy.

– Câm đi nào, Daoê nói.

Y cắn một mẩu bánh mì.

– Nếu nó muốn giải quyết một mình, tớ cũng đếch cần. Tớ nhường cho nó đấy.

– Tớ cũng thế, Gơrebê phát biểu.

Những tên khác không nói gì. Trời đã sáng rõ hơn. Hiêcsưlan xem đồng hồ.

– Mày nóng ruột à, thằng Isắc, Staibrennơ hỏi. Lẽ ra mày phải sung sướng vì đã được chỉ định, có thể mày mới bỏ được tư tưởng đen tối của cái giống iu-panh nhà mày[10]. Xử bắn! Nó nhổ. Đối với bọn ti tiện ấy, thật là tốt quá! Có thế mà cũng phí đạn! Phải treo cổ chúng nó lên mới đúng. Như ở các nơi khác ấy.

– Treo ở đâu? Cậu có thấy cây nào quanh đây không? Hay cậu muốn đóng một cái giá treo cổ? Mà gỗ thì không có.

– Họ kia rồi, Gơrebê nói.

Muychkê đi với bốn người Nga đến. Bốn tên lính đi kèm xung quanh. Ông lão người Nga đi đầu; theo sau ông cụ là người đàn bà đi trước hai người trẻ nhất. Tự nhiên họ đứng xếp hàng trước bốn cái hố. Người đàn bà liếc nhìn xuống hố trước khi đứng đối diện với bọn lính. Chị mặc một chiếc váy len đỏ.

Trung úy Muylơ ở đại đội một ra khỏi nhà viên đại úy. Hắn vẫn thay mặt Rahê trong các cuộc xử bắn. Người ta vẫn cố tôn trọng các thủ tục quy định, tuy làm thế thật là tức cười. Ai cũng biết rằng mấy người Nga này có lẽ nhất định không phải là du kích; nhưng họ vẫn cứ bị hỏi cung và kết án theo đúng quy tắc mà không hề có chút hy vọng có thể thoát nạn được. Trên lý thuyết, họ đã bị bắt với vũ khí trong tay. Vậy thì việc gì phải câu nệ? Họ sắp bị xử bắn trước một sĩ quan, như quân luật đã quy định. Nhưng chẳng ai tỏ vẻ cảm kích vì vinh dự này.

Viên trung úy hai mươi mốt tuổi và mới được điều đến đại đội. Hắn quan sát những người bị xử một lát rồi bắt đầu đọc bản án.

– Để con bé kia cho tao đấy, Staibrennơ nói thì thầm.

Gơrebê nhìn người đàn bà. Chị bình tĩnh đợi trước lỗ huyệt. Chị trông trẻ và khỏe, kiểu người sinh ra để đẻ và nuôi con. Chị không hiểu Muylơ đang đọc gì nhưng chỉ giây lát nữa, cuộc sống đang đập mạnh trong mạch máu của chị sẽ ngừng mãi mãi - nhưng chị vẫn bình thản đợi và như chỉ thấy cái lạnh của buổi sớm tinh mơ.

Gơrebê thấy Muychkê ghé sát Muylơ và nói với vẻ đồng tình. Muylơ nhìn gã.

– Không làm sau được à?

– Thưa trung úy, làm ngay bây giờ là tốt nhất, dễ hơn.

– Được, anh muốn làm gì thì làm.

Muychkê tiến lên.

– Bảo thằng bạn mày cởi bốt ra, gã chỉ một người tù và ra lệnh cho ông già người Nga.

Ông cụ nói vài câu bằng một giọng trầm, nhịp nhàng với anh thanh niên xanh và gầy. Anh ta không hiểu.

– Này, Muychkê quát, cởi bốt ra đi!

Ông cụ nhắc lại. Cuối cùng anh thanh niên đã hiểu và vội làm theo như bỗng nhiên anh sửa lại điều thiếu sót không sao tha thứ được. Anh đứng một chân, vừa lảo đảo vừa cầm chiếc bốt ở chân kia kéo ra. Anh ta lật đật mà làm gì? Gơrebê tự hỏi. Có phải để được chết sớm, hơn một chút không? Người tù đã tiến về phía Muychkê và đưa đôi bốt của anh cho gã. Đôi bốt còn rất tốt. Muychkê nhăn mặt chỉ tay sang bên. Người tù đặt chiếc bốt ra một nơi rồi lại trở về chỗ. Chân anh ta bọc trong những tấm băng bẩn thỉu, ngập trong tuyết. Người ta thấy những ngón chân màu vàng, quắp lại vì rét.

Muychkê lục soát những người khác. Gã tìm thấy một đôi găng tay có lót lông của người đàn bà và ra lệnh cho chị đem để gần đôi bốt. Gã ngừng lại một lát trước chiếc váy đỏ. Vải còn tốt và không bị rách quá, Staibrennơ phì cười nhưng cuối cùng Muychkê thôi không bắt chị cởi ra nữa, hoặc vì gã sợ Rahê có thể đứng ở cửa sổ quan sát cuộc xử bắn, hoặc gã cho rằng dù sao thì thứ quần áo phụ nữ này cũng không dùng được việc gì. Gã lùi lại.

Người đàn bà nói rất nhanh vài câu tiếng Nga.

– Hỏi xem nó muốn gì, trung úy Muylơ ra lệnh.

Hắn tái mặt. Đây là cuộc xử bắn đầu tiên của hắn.

Muychkê nhắc lại câu hỏi cho ông già.

– Chị ấy không muốn gì cả. Chị ấy chỉ nguyền rủa chúng mày thôi.

– Cái gì? Muylơ không hiểu, quát to.

– Chị ấy nguyền rủa chúng mày, ông già nhắc lại to hơn. Chúng mày và tất cả bọn Đức đang giày xéo lên đất Nga! Chị ấy nguyền rủa con cái chúng mày. Chị ấy mong rằng có ngày con chị ấy sẽ bắn con chúng mày như chúng mày đã bắn chúng tao.

– Láo thật.

Muychkê kinh ngạc chăm chăm nhìn người đàn bà.

– Chị ấy được hai con, còn tao có ba con trai, ông lão nói tiếp.

– Thôi đi, Muylơ cáu kỉnh ra lệnh. Chúng ta không phải là cha cố - Nghiêm!

Bọn lính đứng nghiêm cứng người. Gơrebê cảm thấy khẩu súng trong lòng bàn tay. Anh đã cởi găng và thép lạnh buốt làm lòng bàn tay và các ngón tay anh tê dại. Bên cạnh anh là Hiêcsưlan. Y tái mặt nhưng không động đậy, Gơrebê quyết định bắn vào người Nga ở ngoài cùng phía trái. Hồi đầu, mỗi khi bị chỉ định đi xử bắn, anh đều bắn lên trời. Nhưng anh thôi ngay không dùng cái chước tầm thường ấy, không bớt chút đau đớn nào cho người bị xử bắn. Vì cái ý nghĩ giản đơn ấy tự nhiên cùng đến với những người lính khác, cho nên loạt đạn đầu gần như không trúng ai. Thế là phải bắn lại, do đó các tội nhân bị bắn tới hai lần, lẽ ra họ chỉ bị một lần. Và đã có một ngày, một người đàn bà mà anh cố tình bắn trượt đã quỳ dưới chân anh và khóc mà cảm ơn phút sống cuối cùng mà anh đã cho chị được hưởng. Gơrebê không thích nhớ đến người đàn bà ấy, và từ đó anh đã tránh những việc rắc rối như thế.

– Ngắm bắn!

Gơrebê thấy người Nga trên đường ngắm của anh. Đó là ông già có bộ râu bẩn và cặp mắt xanh. Anh hạ thấp súng xuống một chút để khỏi bắn vào mặt ông lão. Có lần anh đã bắn vỡ hàm dưới một người tù. Bắn vào ngực chắc chắn hơn. Anh nhận thấy nòng súng của Hiêcsưlan chĩa lên cao quá. Đường ngắm của y hẳn phải vượt trên đầu các người bị xử bắn.

Muychkê nhìn cậu đấy, anh thì thầm. Ngắm thấp hơn đi! Vào ngực ấy.

Hiêcsưlan hạ thấp súng.

– Bắn! Muychkê ra lệnh.

Người Nga như chồm về phía Gơrebê. Người ta tưởng toàn thân ông cụ ngã về đằng trước như đột nhiên biến dạng trong một tấm gương lồi. Thân ông lão cong lại và ngã về sau.

Ông già bị đổ xuống hố. Chỉ còn thấy hai bàn chân ông cụ. Hai người đàn ông kia gục tại chỗ. Phút cuối cùng, người không còn đi bốt đưa tay lên mặt như để che đỡ. Một bàn tay bị bắn nát, lủng lẳng như một miếng giẻ rách còn dính vào một sợi gân. Không ai nghĩ đến việc bịt mắt vào trói tay những tù nhân.

Người đàn bà ngã về trước. Chị chống hai tay, ngẩng mặt nhìn chăm chăm vào đội lính bắn chị. Staibrennơ có vẻ sung sướng. Chỉ có mình nó bắn vào người đàn bà. Chị bị trúng vào bụng. Thế mà Staibrennơ vẫn là tay bắn giỏi đấy.

Chân ông già rẫy lên một lần cuối rồi không động đậy. Chỉ có người đàn bà vẫn nhổm người trên hai tay, là còn sống. Khuôn mặt đầy đặn của chị quay về phía bọn lính, chị nói như rít lên những tiếng mà không ai hiểu. Chị ngồi sổm như một con ếch khổng lồ, máu đỏ, bị tử thương và thốt lên những lời nguyên rủa mà không ai có thể dịch được nữa. Chị cũng không quay mặt nhìn khi Muychkê lại bên chị và rút súng lục ra. Chị vẫn tiếp tục nói mãi và đến phút cuối cùng mới trông thấy khẩu súng của Muychkê. Lúc đó chị hất đầu mạnh và hàm răng của chị cắn chặt lấy tay Muychkê. Gã rủa và đấm vào mặt chị. Chị vừa bỏ ra, gã liền bắn vào gáy chị.

– Làm ăn như lợn ấy! Muylơ nói. Chúng mày không biết bắn à?

– Thưa trung úy, Hiêcsưlan bắn đấy, Staibrennơ nói.

– Không phải Hiếcsưlan, Gơrebê nói.

– Im đi! Muychkê quát. Có hỏi mới được nói.

Gã quay về phía Muylơ, đang đứng sững mặt tái đi. Muychkê cúi xuống xác hai người Nga. Gã dí nòng súng vào mang tai người trẻ nhất và bóp cò. Cái đầu nẩy mạnh lên rồi yên lặng. Muychkê tra súng vào vỏ và nhìn bàn tay. Rồi gã rút mùi soa và băng tay lại.

– Đi xin kanh-ki-dốt mà bôi vào đấy, Muylơ nói. Trạm quân y ở đâu?

– Thưa trung úy, nhà thứ ba bên phải.

– Đi ngay đi.

Muychkê đi xa dần. Muylơ nhìn những người chết. Người đàn bà nằm úp mặt xuống đất.

– Cho nó xuống hố rồi lấp đi, hắn nói.

Bỗng nhiên, không hiểu sao, hắn giận run người.

[1] SS: do chữ Đức Schutz Staffel, (có nghĩa là đơn vị bảo vệ) là đơn vị chuyên trách bảo vệ thủ lãnh đảng Quốc xã, và chế độ. Tổ chức này gồm những phần tử trung thành nhất của đảng Quốc xã, được trang bị, huấn luyện đặc biệt chuyên dùng để tấn công và được tín nhiệm nhất, nhưng đồng thời cũng là tổ chức tàn ác, dã man nhất của phát xít được đặt trên các tổ chức chính quyền khác như: Tòa án, Cảnh sát… Thủ lĩnh là Henrich Himle (đã bị bắt và tự sát sau khi Đức đầu hàng năm 1915) (NĐ)

[2] Nguyên văn: “Tớ không phải là con cừu”, là một tù nhân thật hoặc đóng vai tù được cài vào ở cùng với một người tù khác nhằm gợi chuyện, moi những tâm sự hoặc những lời ăn năn hối hận của tù nhân kia.

[3] Thập tự sắt – một loại huân chương chiến công của phát xít Hítle

[4] Tiếng long của lính, dùng để chỉ toàn bộ huy chương, huân chương đeo ở ngực, nguyên văn tiếng Pháp (Battrie de cuisine) nghĩa là bộ đồ xoong chảo nhà bếp.

[5] Nguyên văn, mặt tròn như mặt thiên thần Gô tích

[6] Tên gọi tắt của Sở cảnh sát bí mật của phát xít Đức (chữ Đức là Géheine Staats Polizei) thành lập năm 1936, nổi tiếng tàn khốc trong việc đàn áp cách mạng ở Đức và các nước bị Đức chiếm đóng. Cơ quan này khác với tổ chức SD là hiến binh chỉ đối phó với binh lính trong quân đội còn cơ quan này chuyên dò xét, khủng bố, bắt bớ nhân dân.

[7] Isắc: Tiếng khinh bỉ để chỉ những người dân tộc Do Thái

[8] Danh từ thời xưa chỉ những dân tộc thuộc các vùng miền Đông Địa Trung Hải xâm chiếm miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Sau này danh từ đó đã được dùng dể chỉ dân tộc da trắng nói chung, mà không dựa trên cơ sở khoa học nào. Hítle đã đưa vấn đề nguồn gốc dân tộc Aryen thành một học thuyết phản động, coi dân tộc Đức là dòng dõi người Aryen chính thống, một dân tộc siêu đẳng, được tạo ra để đứng đầu tất cả các dân tộc khác đều là hạ đẳng nhằm kích thích tinh thần dân tộc, hẹp hòi của nhân dân Đức để xâm chiếm các nước khác thực hiện âm mưu bá chủ thế giới của hắn.

[9] Tổ chức hiến binh của quân đội Quốc xã, khác với Sở Ghextapo, tổ chức SD chỉ hoạt động dò xét, bắt bớ trong quân đội (tên Đức Sicherheits Dients)

[10] Youpin: tiếng khinh bỉ dùng để chỉ những người Do Thái (cũng có nghĩa như Isắc)