← Quay lại trang sách

- 6 -

dịch giả: hồng vân

- 6 -

VI

Bà Tressilian đón cụ Treves với niềm hân hoan thật sự.

Chẳng bao lâu sau, cả hai đắm chìm trong sự hồi tưởng về những mối quan hệ chung của họ.

Gần 30 phút nói chuyện, bà Tressilian thở dài thỏa mãn.

“À” bà nói, “Tuyệt thật! Không gì có thể giống chuyện tán gẫu qua lại này và nhớ lại những chuyện xấu ngày xưa”.

“Một chút ác tâm,” cụ Treves đồng ý, “thêm hương vị cho cuộc sống”.

“Nhân tiện,” bà Tressilian nói, “ông nghĩ gì về bộ ba đó?”

Cụ Treves có vẻ thận trọng, “Ừm, bộ ba nào?”

“Đừng nói với tôi là ông không nhận ra. Nevile và các bà vợ”.

“Ồ vậy sao! Cô Strange hiện tại là một phụ nữ trẻ hấp dẫn lạ thường”.

“Audrey cũng vậy” bà Tressilian nói.

Cụ Treves thừa nhận: “Cô ấy quyến rũ... đúng vậy”.

“Có phải ý ông là ông có thể hiểu việc một người đàn ông bỏ Audrey - một phụ nữ quý phái - vì Kay?”

Cụ Treves bình tĩnh trả lời:

“Chính xác. Chuyện này xảy ra nhan nhản ấy mà”.

“Kinh tởm. Tôi sẽ nhanh chóng mệt mỏi vì Kay nếu tôi là đàn ông và sẽ ước gì tôi đã không quyết định điên rồ như vậy”.

“Chuyện đó cũng thường xảy ra. Sự đam mê nồng nàn sét đánh này,” cụ Treves nói, trông có vẻ điềm tĩnh và thấu hiểu, “lại hiếm khi kéo dài được”.

“Vậy rồi tiếp theo sẽ thế nào?” bà Tressilian thắc mắc.

“Thường thì,” cụ Treves nói, “... à... các bên tự dàn xếp. Phần lớn sẽ ly hôn lần hai. Người đàn ông sau đó sẽ kết hôn với một người thứ ba... ai đó biết thông cảm”.

“Nhảm nhí! Nevile không phải là tín đồ Mormon [2] - mặc dù một số khách hàng của ông có thể như thế!”

“Thỉnh thoảng cũng có người tái hôn với vợ cũ”.

Bà Tressilian lắc đầu.

“Chuyện đó không thể nào. Audrey quá kiêu hãnh”.

“Bà nghĩ vậy sao?”

“Tôi chắc chắn. Đừng lắc đầu chọc tức tôi kiểu đó”.

“Đó là kinh nghiệm của tôi,” cụ Treves nói, “phụ nữ gần như không có chút kiêu hãnh nào khi chuyện dính dáng tới tình yêu. Lòng tự trọng chỉ xuất hiện trên môi miệng nhưng rõ ràng không có trong hành động của họ”.

“Ông không hiểu Audrey. Con bé yêu Nevile mãnh liệt. Có lẽ là quá nhiều. Sau khi nó bỏ con bé vì cô gái này (mặc dù tôi không đổ lỗi hoàn toàn cho Nevile - cô ta đã theo đuổi nó mọi nơi, và ông biết đàn ông mà!) con bé không còn muốn gặp lại nó nữa”.

Cụ Treves khẽ ho:

“Vậy nhưng mà,” cụ nói, “cô ấy đang ở đây!”

“Ồ, đúng” bà Tressilian nói, vẻ bực mình. “Tôi không nghĩ là mình hiểu những ý tưởng hiện đại. Tôi cho rằng Audrey đến đây là để chứng tỏ con bé không quan tâm, và rằng chẳng có vấn đề gì cả!”

“Có vẻ giống lắm chứ” cụ Treves nói. “Cô ấy có thể suy nghĩ theo cách đó, chắc chắn vậy”.

“Ý ông là,” bà Tressilian nói, “ông nghĩ sau mọi chuyện con bé vẫn còn khao khát Nevile và điều đó... ôi không. Tôi không tin những chuyện như vậy đâu!”

“Có thể lắm chứ” cụ Treves nói.

“Không thể nào” bà Tressilian nói. “Tôi sẽ không để chuyện này xảy ra trong nhà tôi”.

“Bà thấy bối rối, phải không?” cụ Treves hỏi sắc sảo. “Có một sự căng thẳng. Tôi cảm thấy điều đó trong bầu khí này”.

“Vậy là ông cũng cảm thấy điều đó?” bà Tressilian nói lạnh lùng.

“Đúng, tôi phải thừa nhận là tôi hơi bối rối. Cảm giác thực về mọi người ở đây vẫn còn mơ hồ, nhưng theo quan điểm của tôi, có mùi thuốc súng, vụ nổ sắp xảy ra”.

“Đừng nói kiểu Guy Fawkes [3] nữa và hãy cho tôi biết phải làm gì bây giờ” bà Tressilian nói.

Cụ Treves đưa tay đầu hàng:

“Thật sự, tôi thua, không biết phải gợi ý gì nữa. Tôi cảm thấy chắc chắn là có một mục tiêu. Giá mà chúng ta có thể thu nhỏ phạm vi... nhưng có quá nhiều điều không rõ ràng”.

“Tôi không có ý định bảo Audrey ra về” bà Tressilian nói. “Theo quan sát của tôi, con bé đã cư xử khéo léo trong một tình huống rất khó khăn. Con bé lịch sự, nhưng hơi tách biệt. Tôi cho là tư cách của con bé không thể chê trách được”.

“Ồ, đồng ý” cụ Treves nói. “Đồng ý. Nhưng cùng lúc nó tác động lên anh chàng Nevile Strange”.

“Nevile,” bàTressilian nói, “cư xử không khéo lắm. Tôi sẽ nói chuyện với nó về việc này. Nhưng tôi không thể đuổi nó ra khỏi nhà dù chỉ một lát được. Trên thực tế Matthew xem nó như là con nuôi”.

“Tôi biết”.

Bà Tressilian thở dài. Bà hạ giọng:

“Ông biết Matthew chết đuối ở đây chứ?”

“Vâng”.

“Vì vậy nhiều người ngạc nhiên khi thấy tôi còn ở đây. Họ ngớ ngẩn thật. Tôi luôn cảm thấy tại đây, Matthew ở gần tôi. Cả căn nhà tràn ngập hình bóng ông ấy. Ở bất cứ nơi nào khác tôi đều cảm thấy cô đơn và xa lạ”. Bà dừng lại, rồi nói tiếp. “Lúc đầu tôi cũng hy vọng tôi sớm gặp được ông ấy, đặc biệt khi sức khỏe của tôi bắt đầu xuống dốc. Nhưng đúng là bát bể để được lâu - những người tàn tật không bao giờ chết”. Bà đấm cái gối một cách giận dữ.

“Tôi có thể nói với ông rằng điều đó chẳng làm tôi vui tí nào! Tôi luôn hy vọng rằng, khi thời khắc đến, nó sẽ đến nhanh, tôi sẽ gặp Thần Chết, mặt đối mặt chứ không cảm thấy ông ta bò theo sau tôi, luôn sau vai tôi, dần dần buộc tôi chìm vào điều sỉ nhục sau căn bệnh của mình, cảm giác bất lực tăng lên... sự phụ thuộc vào người khác cũng tăng lên”.

“Nhưng mọi người rất tận tụy, tôi chắc chắn vậy. Bà có một người hầu trung thành đúng không?”

“Barrett? Người đã dẫn ông lên đây đấy. Nguồn an ủi của tôi. Một cái rìu chiến rất dữ tợn, tuyệt đối tận tình. Cô ta đã ở với tôi lâu lắm rồi”.

“Và tôi phải nói rằng, bà rất may mắn khi có cô Aldin bên cạnh”.

“Đúng vậy. Tôi thật may mắn khi có Mary”.

“Cô ấy là họ hàng à?”

“Một người họ hàng xa. Một trong những người có lòng vị tha, con bé đang phải tiếp tục hy sinh cuộc sống riêng của mình vì cuộc sống của người khác. Con bé đã chăm sóc cha mình, một người thông minh nhưng lại yêu sách quá nhiều. Khi ông ấy qua đời, tôi đã cầu xin con bé đến ở với tôi như người nhà, và tôi đã rất may mắn khi con bé đồng ý. Ông không biết kinh khủng thê nào khi sống chung với hầu hết những người được thuê làm bầu bạn đâu. Những con người nhạt nhẽo, làm cho người ta phát điên vì sự ngớ ngẩn của họ. Họ cho thuê tình bạn vì họ chẳng làm được gì tốt hơn. Có Mary bên cạnh, một cô gái thông minh có học thức, là điều tuyệt vời. Con bé thật sự có bộ óc ưu tú. Con bé đọc nhiều sách, nghiên cứu rất sâu và không có điều gì mà nó không tranh luận được. Khéo léo cả về nội tâm lẫn tri thức, Mary quản lý gia đình này thật hoàn hảo và làm cho những người làm trong nhà vui vẻ, loại bỏ các cuộc cãi vã và những ghen tị - tôi không biết con bé làm cách nào, có lẽ là nhờ khéo léo”.

“Cô ấy ở với bà lâu chưa?”

“Mười hai năm... không, phải hơn thế. Mười ba... mười bốn - khoảng đó. Con bé là sự an ủi tuyệt vời”.

Cụ Treves gật đầu.

Bà Tressilian quan sát cụ qua cặp mắt nhắm hờ, rồi đột ngột nói:

“Có chuyện gì vậy? Ông đang lo lắng điều gì à?”

“Một chuyện nhỏ” cụ Treves nói. “Chỉ là chuyện nhỏ thôi. Bà thật nhạy bén”.

“Tôi thích nghiên cứu con người mà” bà Tressilian nói. “Tôi luôn biết ngay tức thì nếu như Matthew suy nghĩ điều gì đó”. Bà thở dài và tựa lưng vào gối. “Giờ tôi phải chào tạm biệt ông rồi” - đó là lệnh cho lui của Nữ hoàng, chẳng có gì vô lễ cả - “Tôi mệt rồi, nhưng rất rất vui. Quay lại gặp tôi sớm nhé”.

“Tôi lấy làm cảm kích trước nhưng lời tử tế đó. Tôi chỉ hy vọng mình đã không nói quá nhiều”.

“Ôi không, tôi luôn thấy mệt bất ngờ vậy đó. Trước khi ông đi, làm ơn rung chuông giúp tôi”.

Cụ Treves thận trọng kéo dây chuông có tua chuông khổng lồ.

“Loại này đúng là đồ cổ” ông nhận xét.

“Cái chuông của tôi hả? Vâng, tôi không có cái chuông điện tử nào cả. Phân nửa thời gian ông nhấn mà nó chẳng hề hoạt động. Cái này không bao giờ hư. Nó gọi lên phòng của Barrett ở trên lầu - cái chuông treo ở đầu giường của cô ấy nên lúc nào cô ấy cũng trả lời ngay. Nếu chậm trả lời tôi sẽ gọi lại ngay”.

Khi cụ Treves ra khỏi phòng, cụ nghe tiếng chuông được kéo lần thứ hai và nghe tiếng leng keng của nó đâu đó trên đầu. Cụ ngước nhìn lên và nhận ra có đường dây chạy trên trần nhà. Barrett vội vã chạy xuống cầu thang và đi ngang qua cụ để vào phòng bà chủ.

Cụ Treves từ từ đi xuống lầu, chẳng buồn đón thang máy. Cụ cau mày, gương mặt lộ vẻ không chắc chắn. Cụ thấy tất cả mọi người đang tụ tập trong phòng khách, và Mary Aldin mời cụ ngồi, nhưng cụ lịch sự từ chối lấy cớ là lát nữa phải về nhà.

“Khách sạn của tôi lỗi thời lắm” cụ nói. “Họ không muốn ai ra ngoài quá nửa đêm”.

“Còn lâu mới tới giờ mà, chỉ mới mười rưỡi” Nevile nói. “Họ sẽ không nhốt ông bên ngoài chứ?”

“Ồ không. Thật sự thì tôi nghi ngờ không biết cửa có khóa suốt đêm không. Cửa đóng lúc chín giờ nhưng người ta chỉ cần vặn nắm cửa và đi vào thôi. Người ở đây có vẻ rất may rủi. Nhưng tôi cho là họ tin tưởng vào sự chân thật của người dân địa phương”.

“Ban ngày ở đây chắc chắn là không ai khóa cửa cả” Mary nói. “Chúng tôi luôn mở rộng cửa suốt ngày, nhưng chúng tôi khóa của vào ban đêm”.

“Ở Balmoral Court thế nào?” Ted Latimer hỏi. “Có vẻ như đó là một tòa nhà thời Victoria sang trọng”.

“Nó sống nhờ vào cái tên” cụ Treves nói. “Và nó có sự thoải mái của thời Victoria. Giường tốt, nhà ăn rộng rãi, tủ áo thời Victoria, phòng tắm khổng lồ với mép sàn bằng gỗ”.

“Không phải lúc đầu ông nói ông bực mình về vài thứ ở đó sao?” Mary hỏi.

“À đúng. Tôi đã cẩn thận đặt hai phòng ở tầng trệt bằng thư. Tim tôi yếu và tôi bị cấm leo cầu thang. Khi tôi đến, tôi rất bực mình vì không có phòng. Thay vào đó, tôi được dẫn lên hai phòng (tôi phải thừa nhận là phòng rất thoải mái) trên tầng cao nhất. Tôi phản đối, nhưng hình như vị khách cũ ở phòng tôi đã đặt định đi Scotland tháng này nhưng lại bị ốm, và như vậy không thể lấy phòng đó cho tôi được”.

“Có phải đó là ông Lucan?” Mary nói.

“Tôi nghĩ đúng vậy đó. Trong những tình huống thế này, tôi phải làm điều tốt nhất. May mắn là có một thang máy tự động khá tốt nên tôi cũng không gặp bất tiện nào”.

Kay nói: “Ted, sao anh không tới Balmoral Court ở? Sẽ dễ gặp anh hơn”.

“Tôi không nghĩ chỗ đó hợp với tôi”.

“Hoàn toàn đúng, anh Latimer” cụ Treves nói. “Nó hoàn toàn chẳng phù hợp với chuyên môn của anh”.

Vì một lý do nào đó Ted Latimer đỏ mặt.

“Tôi không biết ông nói vậy có ý gì” anh nói.

Mary Aldin, cảm nhận được sự gượng gạo, vội vàng hướng sự chú ý tới một bài báo.

“Tôi thấy họ bắt được một kẻ trộm vali ở thị trấn Kentish...” cô nói.

“Đó là người thứ hai họ bắt được” Nevile nói. “Tôi hy vọng lần này họ bắt đúng người”.

“Có lẽ họ không thể giam giữ anh ta được ngay cả khi chính anh ta trộm” cụ Treves nói.

“Không có bằng chứng đầy đủ sao?” Royde hỏi.

“Đúng”.

“Tuy nhiên,” Kay nói, “tôi nghĩ cuối cùng họ cũng luôn có bằng chứng mà”.

“Không phải lúc nào cũng có đâu, cô Strange à. Hẳn là cô sẽ ngạc nhiên khi biết được rằng có rất nhiều tội phạm vẫn tự do nhởn nhơ ngoài kia mà chẳng bị gì cả”.

“Ý ông là vì họ không bao giờ tìm ra bằng chứng sao?”

“Không chỉ như vậy thôi đâu. Có một kẻ...” - cụ nói về vụ kiện cách đây hai năm - “cảnh sát biết ai là người đã sát hại đứa trẻ, biết rõ ràng chẳng nghi ngờ gì, nhưng họ lại bất lực. Gã đó có chứng cứ ngoại phạm bởi hai người... mặc dù chứng cứ ngoại phạm đó không đúng nhưng chẳng có gì để chứng minh điều đó. Vì vậy kẻ giết người được tự do”.

“Khủng khiếp thật” Mary nói.

Thomas Royde dập ống điếu và nói với giọng nghi ngờ:

“Điều đó xác nhận suy nghĩ của tôi... rằng nhiều khi một người được cho là đúng nếu tự mình thực hiện công lý”.

“Ý anh là gì, anh Royde?”

Thomas bắt đầu nạp thuốc vào ống. Anh trầm ngâm nhìn xuống bàn tay khi anh dằn từng chữ những câu rời rạc:

“Giả sử ông biết - về một việc bẩn thỉu - biết rằng kẻ làm việc đó không phải chịu trách nhiệm với luật hiện hành - rằng hắn ta được miễn hình phạt. Khi ấy tôi cho rằng - một người nào đó đã làm đúng khi tự mình thực hiện bản án”.

Cụ Treves nói một cách ấm áp: “Một học thuyết cực kỳ nguy hiểm, anh Royde à. Một hành động như vậy hoàn toàn không thể được biện hộ”.

“Không thấy sao. Tôi đang giả sử, ông biết mà, rằng thực tế đã được chứng minh, là luật bất lực!”

“Hành động cá nhân vẫn không được biện hộ”.

Thomas mỉm cười, một nụ cười lịch sự.

“Tôi không đồng ý” anh nói. “Nếu một kẻ nên bị vặn cổ, tôi không ngại nhận trách nhiệm là chính tôi đã vặn cổ nó!”

“Và đổi lại anh sẽ phải chịu trách nhiệm trước các hình phạt của pháp luật!”

Vẫn cười, Thomas nói: “Tất nhiên tôi sẽ phải thận trọng...Thật sự, người ta sẽ phải trả giá cho một sô trò xảo quyệt thấp hèn của mình”.

Audrey nói giọng rõ ràng:

“Anh sẽ bị tìm ra thôi, Thomas à”.

“Sự thật là,” Thomas nói, “tôi không nghĩ là tôi sẽ bị tìm ra đâu”.

“Tôi đã từng biết một vụ” cụ Treves bắt đầu, và dừng lại. Cụ nói như biện hộ: “Khoa học tội phạm là sở thích của tôi, anh biết mà”.

“Làm ơn tiếp tục đi” Kay nói.

“Tôi có kinh nghiệm khá nhiều về các trường hợp phạm tội” cụ Treves nói. “Chỉ một số ít người thật sự thích thú chuyện đó. Hầu hết bọn giết người không thích việc chúng làm và lại có tầm nhìn thiển cận. Tuy nhiên, tôi có thể kể cho cô về một ví dụ thú vị”.

“Ồ vậy à” Kay nói. “Tôi thích những vụ giết người”.

Cụ Treves nói chậm rãi, rõ ràng là lựa chọn từ ngữ rất thận trọng.

“Có một trường hợp liên quan tới một đứa trẻ. Tôi sẽ không nói tới tuổi hay giới tính đứa trẻ đó. Chuyện xảy ra là: hai đứa trẻ đang chơi với cung tên. Một đứa đã bắn mũi tên vào điểm tử của đứa kia và đứa bé đó chết. Có một cuộc điều tra chính thức, đứa trẻ còn sống hoàn toàn mất trí và người ta cảm thấy ái ngại cho tai nạn đó đồng thời biểu lộ sự cảm thông sâu sắc đối với tác giả bất hạnh của hành động đó”. Cụ dừng lại.

“Có vậy thôi hả?” Ted Latimer hỏi.

“Vậy đó. Một tai nạn đáng tiếc. Nhưng anh thấy đó, còn có một mặt khác của câu chuyện. Trước đó ít lâu, một người nông dân vô tình băng qua một con đường ở khu rừng gần đó. Trong một khoảng đất trống, ông ta đã nhìn thấy một đứa trẻ đang tập bắn cung tên”.

Cụ dừng lại, để cho ngụ ý của mình có thời gian thẩm thấu.

“Ý ông là,” Mary Aldin hỏi một cách ngờ vực, “đó không phải là một tai nạn... là một vụ có chủ tâm sao?”

“Tôi không biết” cụ Treves nói. “Tôi không bao giờ biết được. Nhưng bản điều tra nói rằng những đứa trẻ không biết dùng cung tên, và kết quả là vụ bắn man rợ và dốt nát”.

“Và không phải như vậy sao?”

“Điều đó, trong trường hợp của một trong hai đứa trẻ đó, thì chắc chắn không phải!”

“Vậy người nông dân đó đã làm gì?” Audrey nín thở nói.

“Ông ta chẳng làm gì cả. Ông ta hành động như vậy đúng hay sai, tôi không dám chắc. Tương lai của một đứa trẻ đang bị lâm nguy, ông ta cảm thấy một đứa trẻ không nên bị nghi ngờ”.

Audrey nói:

“Nhưng chính ông cũng không nghi ngờ gì về những việc đã thật sự xảy ra sao?”

Cụ Treves nói một cách nghiêm trọng:

“Theo quan điểm của cá nhân tôi, đó là một kẻ giết người đặc biệt thông minh - một vụ giết người bởi một đứa trẻ và đã được lên kế hoạch rất chi tiết trước đó”.

Ted Latimer hỏi:

“Có lý do gì không?”

“Ồ, có chứ, có một động cơ. Những trò trêu chọc trẻ con, những từ ngữ không lịch sự... đủ để kích thích lòng căm hờn. Trẻ con rất dễ dàng ghét nhau...”

Mary la lớn: “Nhưng có sự tính toán thiệt hơn trong đó...”

Cụ Treves gật đầu.

“Đúng vậy, việc tính toán đó mới tồi tệ. Một đứa trẻ, nuôi trong mình ý định giết người, âm thầm tập luyện ngày đêm và rồi cuối cùng là hành động - một phát bắn nguy hiểm, thảm họa, giả vờ đau khổ và tuyệt vọng. Tất cả đều quá khó tin... khó tin đến nỗi có lẽ sẽ không ai tin khi ra tòa”.

“Chuyện gì xảy ra... với đứa bé?” Kay tò mò hỏi.

“Tôi nghĩ là, tên của nó đã được thay đổi” cụ Treves nói. “Sau khi công khai phán quyết, người ta cho như vậy là khôn ngoan. Đứa trẻ đó đã thành người lớn, sống đâu đó trên thế giới này. vấn đề đặt ra là, liệu nó có còn mang trái tim của kẻ giết người không?”

Cụ trầm tư nói thêm:

“Chuyện cách đây lâu lắm rồi, nhưng tôi sẽ nhận ra được kẻ giết người nhỏ bé ngày xưa của tôi dù ở bất cứ nơi nào”.

“Chắc chắn là không” Royde phản đối.

“Ồ, có chứ, có một đặc điểm thể chất đặc thù... à, tôi sẽ không nói lại vấn đề này nữa. Chẳng phải chuyện vui vẻ gì. Thật sự tôi phải về nhà thôi”.

Cụ đứng dậy.

Mary nói: “Ông uống chút gì đã nhé?”

Thức uống được đặt trên chiếc bàn ở góc bên kia căn phòng. Thomas Royde đứng gần đó, anh bước tới và lấy nút bần ra khỏi chai rượu whisky.

“Một ly whisky và soda nhé, ông Treves? Latimer, anh uống gì?”

Nevile nói nhỏ với Audrey:

“Buổi tối tuyệt vời. Chúng ta ra ngoài một lát nhé”.

Cô đang đứng cạnh cửa sổ nhìn ra ban công ngập ánh trăng. Anh đi qua cô và bước ra ngoài, chờ đợi. Cô quay mặt vào phòng, lắc đầu:

“Không, em mệt. Em... em nghĩ em sẽ đi ngủ thôi”.

Cô băng qua phòng và đi khỏi. Kay ngáp một cái rõ dài.

“Tôi cũng buồn ngủ rồi. Còn cô, Mary?”

“Vâng, tôi cũng vậy. Chúc ngủ ngon, ông Treves. Thomas, tiếp chuyện ông Treves nhé”.

“Ngủ ngon, cô Aldin. Ngủ ngon, cô Strange”.

“Chúng ta sẽ gặp nhau vào bữa ăn trưa mai nhé Ted” Kay nói. “Nếu thời tiết cứ thế này thì chúng ta có thể tắm một chút”.

“Được, tôi sẽ chờ. Chúc ngủ ngon, cô Aldin”.

Hai người phụ nữ rời khỏi phòng.

Ted Latimer nhẹ nhàng nói với cụ Treves:

“Tôi đi cùng đường với ông. Xuống bến phà, vì vậy tôi sẽ đi qua khách sạn nơi ông ờ”.

“Cám ơn anh, anh Latimer. Tôi rất vui khi có anh đi cùng”.

Cụ Treves, mặc dù đã nêu lý do của việc phải ra về, có vẻ cũng không vội vàng gì. Cụ uống ly nước cách sảng khoái và hết lòng với nhiệm vụ khai thác thông tin từ Thomas Royde cũng như về điều kiện sống ờ Malay.

Royde trả lời cộc lốc. Chi tiết về cuộc sống hằng ngày giống như những bí mật tối quan trọng bởi vì thật khó để lôi chúng ra khỏi anh. Dường như anh bị chìm đắm trong chính quan điểm trừu tượng của mình, thoát ra khỏi nó anh sẽ gặp khó khăn khi phải trả lời các câu hỏi.

Ted Latimer bồn chồn. Trông anh chán nản, nôn nóng, lo lắng muốn rời đi.

Đột nhiên cắt ngang câu chuyện, anh la lên:

“Suýt nữa thì quên! Tôi có mang cho Kay vài đĩa nhạc mà cô ấy thích. Tôi để ngoài sảnh. Tôi đi lấy đây. Mai anh nói với cô ấy dùm tôi nhé Royde?”

Người kia gật đầu. Ted ra khỏi phòng.

“Chàng trai trẻ có tính lo lắng” cụ Treves lầm bầm.

Royde càu nhàu không trả lời.

“Một người bạn, tôi nghĩ, là bạn của cô Strange” ông luật sư già tiếp tục.

“Của Kay Strange” Thomas nói.

Cụ Treves mỉm cười.

“Đúng” cụ nói. “Ý tôi là vậy đó. Anh ta hầu như không thể là bạn của cô Strange cũ được”.

Royde trả lời nhấn mạnh:

“Không, không phải”.

Rồi, bắt gặp ánh mắt giễu cọt của người đối diện, anh nói, hơi đỏ mặt.

“Ý tôi là...”

“Ồ, tôi khá hiểu anh muốn nói gì mà, anh Royde. Chính anh là một người bạn của Audrey Strange, phải không?”

Thomas Royde từ từ lấy thuốc trong túi thuốc bỏ vào ống điếu. Mắt anh tập trung vào công việc đó. Anh nói hay đúng hơn là lầm bầm:

“À... vâng. Ít nhiều cũng lớn lên cùng nhau”.

“Cô ấy hẳn là một cô gái trẻ rất quyến rũ?”

Thomas Royde nói gì đó kiểu như “à, ừm”.

“Hơi khó xử khi có hai cô Strange trong nhà phải không?”

“À, vâng... vâng, có một chút”.

“Một chuyện khó khăn cho cô Strange đầu tiên”.

Mặt Thomas Royde đỏ ửng:

“Cực kỳ khó khăn”.

Cụ Treves chồm người tới trước. Câu hỏi của cụ sắc sảo hơn: “Vì sao cô ấy lại tới hả, anh Royde?”

“À... tôi cho là...” cứ như một người khác đang nói chứ không phải anh. “Cô ấy không tiện từ chối”.

“Từ chối ai?”

Royde lúng túng trả lời:

“Sự thật là, tôi biết cô ấy luôn đến vào thời gian này mỗi năm, đầu tháng Chín”.

“Và bà Tressilian yêu cầu Nevile Strange và vợ mới của anh ta tới cùng thời điểm này?” Giọng của cụ nghe lịch sự một cách đáng ngờ.

“Chuyện đó, tôi cho là, Nevile tự quyết định”.

“Anh ta mong chờ... cuộc gặp mặt này sao?”

Royde xoay xở cách khó khăn. Anh trả lời, tránh nhìn vào mắt người đối diện:

“Tôi nghĩ vậy”.

“Lạ thật” cụ Treves nói.

“Làm chuyện ngớ ngẩn” Thomas Royde nói, phát cáu với câu chuyện dài dòng này.

“Hơi xấu hổ khi một người có suy nghĩ đó” cụ Treves nói.

“À vâng, ngày nay người ta làm những việc như vậy” Thomas Royde nói rất mơ hồ.

“Tôi tự hỏi,” cụ Treves nói, “liệu có thể là ý kiến của ai đó khác không?”

Royde liếc nhìn cụ.

“Có thể là của ai chứ?”

Cụ Treves thở dài.

“Trên thế giới này có nhiều kiểu bạn - luôn luôn lo lắng cho cuộc sống của người khác, gợi ý những hành động không phù hợp...” Cụ im bặt khi Nevile Strange bước vào ngang qua cửa kính. Cùng lúc đó Ted Latimer quay trở lại từ sảnh.

“Chào Ted, anh đang cầm gì vậy?” Nevile hỏi.

“Đĩa nhạc cho Kay. Cô ấy bảo tôi mang chúng theo”.

“Vậy hả? Cô ấy không nói gì với tôi cả”. Có thoáng gượng gạo giữa hai người, rồi Nevile đi tới khay nước và lấy cho mình một ly whisky với soda. Mặt anh có vẻ bị kích động, không vui lắm và anh đang hít thờ thật sâu.

Những gì cụ Treves đã nghe khiến cụ nghĩ rằng Nevile là “gã Strange may mắn - có tất cả mọi thứ trên thế giới mà ai cũng phải ước ao”. Nhưng ngay lúc này trông anh chẳng có vẻ gì là một người hạnh phúc.

Việc Nevile trở vào nhà làm cho Thomas Royde thấy dường như nhiệm vụ đón khách của anh đã kết thúc. Anh ra khỏi phòng mà cũng chảng buồn nói lời chào tạm biệt, và bước đi của anh nhanh hơn bình thường. Giống như một cuộc chạy trốn vậy.

“Một buổi tối thú vị” cụ Treves lịch sự nói khi cụ đặt cái ly xuống bàn. “Rất nhiều... thông tin”.

“Thông tin?” Nevile hơi nhíu mày.

“Thông tin liên quan tới Malay” Ted gợi ý và ngoác miệng cười. “Thật khó để moi được câu trả lời từ gã Thomas lầm lì đó”.

“Anh chàng Royde khác thường” Nevile nói. “Tôi nghĩ anh ta lúc nào cũng vậy thôi. Cứ vừa hút cái ống điếu kinh tởm đó vừa lắng nghe, thỉnh thoảng nói ‘Uhm’, ‘À’ và trông có vẻ rất thông thái”.

“Có lẽ anh ta suy nghĩ nhiều hơn” cụ Treves nói. “Còn giờ tôi thật sự phải đi rồi”.

“Thường xuyên đến thăm bà Tressilian nhé” Nevile nói khi anh đưa hai người ra sảnh.“Ông làm bà ấy vui lên nhiều lắm. Giờ bà ấy rất ít liên lạc với thế giới bên ngoài. Bà ấy thật tuyệt, phải không?”

“Vâng, đúng vậy. Một người rất hay chuyện”.

Cụ Treves khoác áo và khăn quàng cổ cẩn thận, và sau khi tạm biệt lần nữa, cụ cùng Ted Latimer ra về.

Balmoral Court chỉ cách khoảng một trăm thước, gần chỗ đoạn đường cong. Nó hiện ra lờ mờ uy nghi đầy vẻ đe dọa.

Chiếc phà mà Ted Latimer sắp đi xa hơn Balmoral Court hai hoặc ba trăm thước, đậu ở nơi hẹp nhất của dòng sông.

Cụ Treves dừng lại ở cửa Balmoral Court và đưa tay ra:

“Chúc ngủ ngon, anh Latimer. Anh vẫn còn ở đây lâu đúng không?”

Ted mỉm cười khoe hàm răng trắng sáng. “Cũng còn tùy, ông Treves à. Tôi không có đủ thời gian để buồn chán... có lẽ là chưa”.

“Tôi nghĩ cũng giống như những bạn trẻ ngày nay, sự chán nản là điều mà anh sợ nhất trong thế giới này, nhưng tôi có thể bảo đảm rằng, còn có nhiều thứ tồi tệ hơn”.

“Ví dụ là gì?”

Giọng của Ted Latimer mềm mại và dịu dàng, nhưng nó ngầm ám chỉ điều gì đó, một điều không dễ nhận ra.

“Ồ, tôi để anh mặc sức tưởng tượng, anh Latimer à. Tôi sẽ không mạo muội khuyên anh đâu, anh biết mà. Lời khuyên của những con người cổ hủ như tôi lúc nào cũng bị khinh rẻ. Có lẽ cũng có lý, ai mà biết được? Nhưng những người già bất tài như chúng tôi thường nghĩ rằng kinh nghiệm sẽ dạy cho chúng ta điều gì đó. Anh biết không, chúng tôi luôn chú tâm nhiều đến khóa học cuộc đời”.

Một đám mây kéo đến che khuất mặt trăng. Con đường trở nên tối tăm. Trong bóng tối đó, có bóng dáng một người đàn ông đi về phía họ.

Đó là Thomas Royde.

“Chỉ là muốn tản bộ xuống phà một chút”, giọng anh nghe khá lạ vì đang ngậm tẩu thuốc giữa hai hàm răng.

“Nhà trọ của ông đây à?” anh hỏi cụ Treves. “Có vẻ như ông bị nhốt bên ngoài rồi”.

“Ồ, tôi không nghĩ vậy đâu” cụ Treves nói.

Cụ vặn nắm đấm và cánh cửa mỡ ra.

“Chúng tôi muốn thấy ông đến nơi an toàn” Royde nói.

Ba người bước vào đại sảnh. Một bóng đèn điện tỏa sáng mờ ảo. Chẳng có ai trong sảnh, chỉ có mùi hương của bữa ăn tối còn phảng phất, mùi bụi, mùi nước bóng trên đồ gỗ xộc vào mũi họ.

Đột nhiên cụ Treves hét lên bực bội.

Ở thang máy trước mặt họ có treo biển báo:

THANG MÁY HỎNG

“Khổ thân tôi” cụ Treves nói. “Thật là bực mình quá. Tôi sẽ phải đi thang bộ lên đó”.

“Tệ quá” Royde nói. “Không có cầu thang chuyển hàng sao?”

“Tôi e là không. Cái này dùng chung cho tất cả. Vậy đó, tôi phải đi từ từ vậy. Chúc hai người ngủ ngon”.

Cụ từ từ lên cầu thang bộ. Royde và Latimer cùng chúc cụ ngủ ngon, rồi họ bước trờ ra con đường mờ tối.

Có một thoáng im lặng, rồi Royde đột ngột nói:

“Chúc ngủ ngon”.

“Tạm biệt, mai gặp lại”.

“Vâng”.

Ted Latimer lướt nhẹ nhàng xuống đồi hướng về chiếc phà. Thomas Royde đứng nhìn anh ta một lúc, rồi từ từ đi ngược về phía Gull’s Point.

Mặt trăng lại ló ra và Saltcreek lại rực rỡ ánh bạc.

VII

“Cứ như mùa hè vậy” Mary Aldin lầm bầm.

Cô và Audrey đang ngồi trên bãi biển phía trước khách sạn Easterhead Bay hùng vĩ. Audrey mặc bộ đồ bơi màu trắng trông rất thanh lịch. Mary không tắm. Xa họ một chút là Kay đang nằm sấp tắm nắng.

“Kinh quá” cô ngồi dậy. “Nước lạnh kinh khủng” cô nói với vẻ buộc tội.

“À vâng, tháng Chín mà” Mary nói.

“Ở Anh lúc nào cũng lạnh” Kay bất mãn nói. “Tôi ước gì chúng ta đang ở miền Nam nước Pháp. Ở đó thật sự nóng”.

Ted Latimer ở bên kia cô lầm bầm:

“Mặt trời ở đây không phải là mặt trời”.

“Anh không tắm hả, Latimer?” Mary hỏi.

Kay cười lớn:

“Ted không bao giờ xuống nước. Chỉ tắm nắng giống như thằn lằn thôi”.

Cô duỗi ngón chân ra thúc vào anh.

“Lên đi bộ thôi, Kay. Tôi lạnh rồi”.

Họ cùng nhau đi dọc bờ biển.

“Giống thằn lằn sao? Một sự so sánh chẳng phù hợp tí nào” Mary Aldin thì thầm sau lưng họ.

“Có phải đó là điều cô nghĩ về anh ta không?” Audrey hỏi.

Mary Aldin cau mày:

“Không hẳn vậy. Thằn lằn gợi lên điều gì đó khá hiền lành. Tôi không nghĩ anh ta như vậy”.

“Đúng” Audrey trầm ngâm nói, “Tôi cũng cho là vậy”.

“Họ cũng hợp nhau lắm đấy chứ” Mary nói, nhìn theo cặp đôi đang đi xa dần. “Họ xứng đôi mà, phải không?”

“Tôi nghĩ vậy”.

“Họ thích mọi thứ giống nhau” Mary tiếp tục. “Và có cùng quan điểm và... và cùng ngôn ngữ. Ngàn lần đáng tiếc là...”

Cô dừng lại.

Giọng Audrey sắc bén:

“Là thế nào?”

Mary từ tốn nói:

“Tôi nghĩ tôi định nói là thật đáng tiếc là Nevile và cô ấy không có điểm chung”.

Audrey đứng dậy một cách kiên quyết. “Vẻ mặt lạnh băng của Audrey” mà Mary từng nói với chính mình đã xuât hiện trên khuôn mặt Audrey. Mary vội nói:

“Tôi xin lỗi, Audrey. Tôi không nên nói điều đó”.

“Nếu cô không phiền thì... tôi không muốn nói đề tài đó nữa”.

“Tất nhiên, tất nhiên rồi. Tôi đúng là ngớ ngẩn mà. Tôi... tôi hy vọng là cô đã quên rồi, tôi nghĩ vậy”.

Audrey từ từ quay đầu lại. Với gương mặt vô cảm cô nói:

“Tôi bảo đảm với cô là chẳng có gì phải vượt qua cả. Tôi... tôi chẳng có cảm xúc gì với những việc thế này. Tôi hy vọng... tận đáy lòng tôi hy vọng rằng Kay và Nevile sẽ hạnh phúc mãi mãi”.

“Ồ, cô thật tử tế, Audrey à”.

“Chẳng tử tế gì đâu. Đó là sự thật. Nhưng tôi nghĩ, ừm, chẳng lợi ích gì nếu cứ nhìn lại quá khứ và nghĩ ‘Thật tiếc khi việc này việc kia xảy ra!’ Giờ mọi thứ kết thúc rồi. Tại sao ư? Vì chúng ta phải sống cho hiện tại chứ”.

“Tôi nghĩ rằng,” Mary nói đơn giản, “với tôi, những người như Kay và Ted rất hấp dẫn vì họ khác những người mà tôi từng gặp trước đây”.

“Ừm, tôi nghĩ họ rất thú vị”.

“Cả cô nữa,” Mary đột ngột nói cay đắng, “sống và trải qua những kinh nghiệm mà tôi có thể chẳng bao giờ có được. Tôi biết cô không hạnh phúc - rất không hạnh phúc - nhưng tôi không thể không cảm thấy rằng thậm chí như vậy còn tốt hơn là không có. Trống rỗng!”

Cô đặc biệt nhấn mạnh từ cuối cùng.

Đôi mắt mở to của Audrey có vẻ hoảng hốt.

“Tôi chưa bao giờ nghĩ cô cảm thấy như vậy”.

“Không à?” Mary Aldin cười biện hộ. “Ồ, chỉ nhất thời cảm thấy vậy thôi, Audrey thân mến. Tôi không hề có ý đó đâu”.

“Không thể vui khi sống như cô được” Audrey từ tốn nói. “Chỉ sống ở đây với Camilla, vui vẻ làm mọi việc cho bà ấy. Đọc sách cho bà ấy nghe, quản lý người làm, chẳng bao giờ đi đâu”.

“Tôi được ăn ở mà” Mary nói. “Có hàng ngàn phụ nữ thậm chí còn không được như vậy. Và thật sự, Audrey à, tôi khá hài lòng. Tôi có...” một nụ cười xuất hiện trên môi cô, “trò giải trí riêng của mình”.

“Bí mật xấu hả?” Audrey mỉm cười hỏi lại.

“Ồ, tôi lên kế hoạch mọi thứ” Mary nói mơ hồ. “Tất cả ở trong đầu tôi. Và thỉnh thoảng tôi thích thử nghiệm trên người khác. Cô biết đó, chỉ để xem liệu tôi có thể làm họ phản ứng với những điều tôi nói theo cách mà tôi muốn người ta làm hay không”.

“Cô có vẻ tàn bạo quá, Mary à. Tôi thật sự biết về cô quá ít”.

“Ồ, nhưng hoàn toàn vô hại mà. Chỉ như những trò giải trí trẻ con thôi”.

Audrey tò mò hỏi:

“Cô đã thử tôi chưa?”

“Chưa. Cô là người duy nhất mà tôi luôn không tính trước được. Cô thấy đó, tôi không bao giờ biết được điều cô đang nghĩ”.

“Có thể,” Audrey nghiêm túc nói, “vậy cũng tốt”.

Thấy cô rùng mình, Mary vội nói:

“Cô lạnh rồi”.

“Vâng. Tôi đi mặc thêm áo đây. Dù sao cũng là tháng Chín mà”.

Còn lại một mình, Mary Aldin ngắm nhìn những hình ảnh phản chiếu trên mặt nước. Thủy triều đang nít. Cô nằm duỗi người trên cát, nhắm mắt lại.

Họ đã có bữa trưa tuyệt vời ở khách sạn, khách du lịch vẫn khá đông dù đã qua mùa cao điểm. Có nhiều người trông khá lạ lùng. À đúng rồi, hôm nay là ngày nghỉ mà. Phải làm điều gì đó để phá vỡ sự đơn điệu ngày này sang ngày khác. Đó cũng là một cách giải tỏa để thoát khỏi cảm giác căng thẳng, thoát khỏi không khí ngột ngạt ở Gull’s Point gần đây. Không phải là lỗi của Audrey, mà là Nevile...

Suy nghĩ của cô đột ngột bị cắt đứt khi Ted Latimer ngồi phịch xuống cạnh cô trên bãi biển.

“Kay đâu rồi?” Mary hỏi.

Ted trả lời ngắn gọn:

“Bị người chồng hợp pháp đòi lại rồi”.

Có điều gì đó trong giọng nói của anh làm Mary Aldin ngồi bật dậy. Cô liếc nhìn qua dải cát vàng óng ánh tới nơi Nevile và Kay đang đi dọc mép nước. Rồi cô liếc nhanh người đàn ông ngồi bên cạnh mình.

Cô đã nghĩ anh là người điềm tĩnh, kỳ lạ và thậm chí còn nguy hiểm nữa. Giờ đây, lần đầu tiên cô thoáng nhận ra một anh chàng trẻ tuổi đang bị tổn thương. Cô nghĩ:

“Anh ta yêu Kay, thật sự yêu cô ấy, và rồi Nevile đến và cướp cô ấy đi...”

Cô nhẹ nhàng nói:

“Tôi hy vọng anh thích nơi này”.

Đó là những từ ngữ lịch sự. Mary Aldin hiếm khi dùng cách nói khác ngoài những từ ngữ lịch sự - đó là phong cách của cô. Nhưng giọng của cô - lần đầu tiên - nghe khá thân thiện. Ted Latimer trả lời:

“Có lẽ tôi nên tận hưởng nhiều hơn dù ở bất cứ nơi đâu”.

Mary nói:

“Tôi xin lỗi”.

“Nhưng cô không thật sự quan tâm tí nào cả. Tôi là người ngoài cuộc, và chuyện đó là gì mà người ngoài phải bận tâm suy nghĩ chứ”.

Cô quay đầu lại nhìn người đàn ông đang đau khổ đó.

Anh nhìn lại cô thách thức.

Cô từ từ nói như một người vừa mới khám phá ra một việc:

“Tôi biết rồi. Anh không thích chúng tôi”.

Anh ta cười khẩy:

“Cô mong tôi thích các người à?”

Mary nói nghiêm túc:

“Anh biết mà, tôi nghĩ là tôi đã mong như vậy. Dĩ nhiên, một người đã nhận được quá nhiều thì người khác sẽ nhận được ít hơn. Đúng vậy, tôi nghĩ là anh không thích chúng tôi. Chúng tôi cố gắng tiếp đón anh với tư cách là bạn của Kay”.

“Đúng vậy... như là bạn của Kay”.

Sự gián đoạn đến cùng lúc với sự xót xa.

Mary nói sau khi nguôi giận:

“Tôi ước gì anh có thể nói với tôi - thật sự tôi ước vậy đó - lý do vì sao anh không thích chúng tôi? Chúng tôi đã làm gì? Chúng tôi làm sai điều gì?”

Ted Latimer nói, nhấn mạnh vào một từ: “Quá tự mãn!”

“Tự mãn ư?” Mary thắc mắc không ác ý gì, sẵn sàng chịu trách nhiệm cho sự đánh giá đó.

“Đúng vậy” cô thừa nhận. “Có lẽ chúng tôi như vậy thật”.

“Các người như vậy đó. Các người nhận được những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Các người hạnh phúc và cao quý hơn những người xung quanh. Các người nhìn những người như tôi như thể tôi là một trong những con vật ngoài kia vậy!”

“Tôi xin lỗi” Mary nói.

“Đúng vậy chứ?”

“Không, không hẳn vậy. Có lẽ chúng tôi ngớ ngẩn, không biết tưởng tượng... nhưng chúng tôi không có ác ý. Chính tôi là người rất bình thường và hời hợt, tôi dám nói, đó là điều anh cho là tự mãn. Nhưng anh biết không, thật sự tôi cũng có những cảm xúc con người mà. Giờ phút này đây, tôi rất xin lỗi vì anh không được vui, và giá mà tôi có thể làm điều gì đó cho anh”.

“À... nếu vậy... cô thật là tử tế”.

Có một thoáng im lặng, rồi Mary nhẹ nhàng nói:

“Anh yêu Kay phải không?”

“Rất nhiều”.

“Còn cô ấy?”

“Tôi nghĩ cũng vậy... cho tới khi Strange xuất hiện”.

Mary lại nhẹ nhàng nói:

“Và giờ anh vẫn còn yêu cô ấy?”

“Tôi nghĩ chuyện đó quá rõ ràng rồi”.

Sau một hai phút, Mary nói nhỏ nhẹ:

“Vậy chẳng phải anh nên đi khỏi nơi đây sao?”

“Tại sao?”

“Vì ở đây anh chỉ làm mình đau khổ thêm thôi”.

Anh nhìn cô và cười:

“Cô đúng là quá tử tế” anh nói. “Nhưng cô không biết nhiều về những kẻ luôn rình mò ngoài kia. Có khá nhiều chuyện sẽ xảy ra, sớm thôi”.

“Đại loại là chuyện gì?” Mary hỏi ngay.

“Cứ chờ mà xem”.

VIII

Khi Audrey thay xong quần áo, cô men theo bãi biển, bước dọc ra một mũi đá đến chỗ Thomas Royde, anh đang hút thuốc, quay ống điếu đối diện với Gull’s Point trắng phau đang đứng lặng yên ở bờ bên kia.

Thomas quay đầu lại khi Audrey tới, nhưng anh không di chuyển. Cô im lặng ngồi xuống cạnh anh, giữa họ là sự yên lặng dễ chịu của hai người hiểu nhau rất rõ.

“Trông nó gần quá” cuối cùng Audrey cũng cất tiếng phá vỡ sự yên lặng.

Thomas nhìn Gull’s Point.

“Đúng vậy, chúng ta có thể bơi về nhà”.

“Không phải vào lúc thủy triều như vậy. Camilla từng có một hầu gái. Cô ấy là một người bơi rất cừ, từng bơi qua bơi về lúc thủy triều đẹp. Phải là nước lớn hoặc nước ròng - nhưng khi nó đang rút, nó cuốn anh xuống cửa sông. Một hôm cô ấy bị như vậy, may mắn là cô ấy có thể giữ đầu trên mặt nước và tới bờ an toàn ở Easter Point, hoàn toàn kiệt sức”.

“Chẳng thể tin được là ở đây có gì đó nguy hiểm”.

“Không phải bên bờ này, mà là dòng chảy ở bờ bên kia. Dưới bờ đá kia sâu lắm. Năm ngoái có một vụ tự tử suýt chết, anh ta ném mình xuống Stark Head, nhưng bị kẹt lại vì có một nhánh cây lưng chừng bờ đá và bảo vệ bờ biển đến cứu anh ta kịp lúc”.

“Tội nghiệp” Thomas nói. “Anh cá là anh ta đã chẳng cám ơn họ. Cũng phải thất vọng lắm mới quyết định nhảy ra khỏi bờ đá để rồi lại bị cứu sống. Làm cho anh ta trở thành kẻ ngốc”.

“Có lẽ giờ anh ta đang rất vui”. Audrey mơ màng nói.

Cô mơ hồ tự hỏi giờ anh ta đang ở đâu và đang làm gì.

Thomas hút lập bập tẩu thuốc. Quay đầu rất khẽ, anh có thể nhìn Audrey. Anh chú ý tới gương mặt chăm chú trang nghiêm của cô khi cô liếc nhìn qua mặt nước. Đôi mi dài màu nâu không lay động phía trên gò má, và vành tai hình vỏ sò.

Nó nhắc nhở anh một việc gì đó.

“À, nhân tiện, anh tìm được bông tai của em rồi đây, chiếc mà em làm mất đêm hôm đó”.

Bàn tay anh lần tìm trong túi.

“Tốt quá, anh tìm được ở đâu vậy? Trên ban công sao?”

“Không. Gần chỗ cầu thang. Hẳn là em làm mất nó khi xuống ăn tối. Anh đã không thấy em đeo nó trong bữa tối rồi”.

“Tìm lại được nó em vui quá”.

Cô cầm lấy chiếc bông tai. Thomas góp ý rằng đó là một chiếc bông tai quá lớn so với đôi tai nhỏ của cô. Đôi bông tai hôm nay cô mang cũng lớn nữa.

Anh nhận xét:

“Ngay cả lúc tắm em cũng mang bông tai. Em không sợ mất sao?”

“À, những cái này rẻ lắm. Em luôn mang bông tai vì chuyện này nè”.

Cô sờ tai trái. Thomas nhớ lại.

“Đúng rồi. Lần đó Bouncer già cắn em”.

Audrey gật đầu.

Họ yên lặng, hồi tưởng lại ký ức thời thơ ấu. Audrey Standish (tên của cô lúc đó) là đứa trẻ có đôi chân dài thẳng băng, đã ôm lấy Bouncer già có cái móng bị đau. Nó đã cắn cô một miếng ác hiểm. Cô đã phải may vết thương, và giờ thì cũng chẳng có gì to tát, chỉ là một vết sẹo rất nhỏ.

“Cô gái của tôi ơi,” anh nói, “hầu như không thể thấy cái vết đó. Sao em lại sợ chứ?”

Audrey im lặng trước khi trả lời rất thật thà.

“Là vì... vì em không thể chịu đựng được việc đó”.

Thomas gật đầu. Chuyện này rất hợp với tính cách của Audrey, một người có tính cầu toàn. Chính cô là một tạo vật quá hoàn hảo.

Đột nhiên anh nói:

“Em đẹp hơn Kay nhiều”.

Cô lập tức quay lại.

“Ôi không, Thomas. Kay... Kay thật sự rất đáng yêu”.

“Chỉ có bề ngoài, chứ không đẹp bên trong”.

“Anh đang ám chỉ,” Audrey nói với một chút thích thú, “đến vẻ đẹp tâm hồn của em phải không?”

Thomas đổ tro trong ống điếu.

“Không” anh nói. “Anh cho là anh đang nói tới xương của em”.

Audrey bật cười.

Thomas bỏ thuốc vào đầy ống điếu mới. Họ yên lặng trong khoảng năm phút, nhưng thỉnh thoảng Thomas liếc nhìn Audrey, và anh kín đáo đến nỗi cô không hề nhận ra.

Cuối cùng anh cũng nói nhỏ giọng:

“Có chuyện gì vậy, Audrey?”

“Chuyện gì à? Ý anh nói chuyện gì là sao?”

“Có chuyện với em. Có điều gì đó”.

“Không, không có gì. Không có gì cả”.

“Nhưng có mà”.

Cô lắc đầu.

“Em không nói với anh sao?”

“Chẳng có gì để nói cả”.

“Anh nghĩ anh là kẻ đần, nhưng anh phải nói điều này...” Anh dừng lại. “Audrey... em không thể quên sao? Em không thể để nó qua đi sao?”

Cô đập hai bàn tay nhỏ bé vào đá.

“Anh không hiểu, anh không thể hiểu được đâu”.

“Nhưng Audrey, em này, anh hiểu. Là vậy đó. Anh biết”.

Cô quay gương mặt nghi ngờ lại nhìn anh.

“Anh biết chính xác em đã phải trải qua những gì. Và... và điều đó có ý nghĩa gì với em”.

Cô trở nên trắng bệch, đôi môi tái đi.

“Em hiểu rồi” cô nói. “Em không nghĩ... có bất cứ ai biết”.

“À, anh biết. Anh... anh sẽ không nói về điều đó nữa. Nhưng điều mà anh muốn nhấn mạnh với em đó là mọi chuyện đã kết thúc rồi, mọi chuyện đã qua và đã kết thúc”.

Cô thấp giọng:

“Có vài thứ không thể trôi qua được”.

“Nhìn đây, Audrey, nghiền ngẫm và nhớ lại nó cũng chẳng ích gì. Cứ như vậy em sẽ rất khổ sở. Cứ lặp đi lặp lại một chuyện trong đầu thì không tốt tí nào. Hãy nhìn về phía trước chứ không phải nhìn lại sau lưng. Em còn trẻ, còn cả một cuộc đời để sống và tất cả đều đang ở phía trước em. Hãy nghĩ về ngày mai, không phải ngày hôm qua”.

Cô nhìn anh chằm chằm bằng đôi mắt to luôn che giấu ý nghĩ thật của cô.

“Vậy giả sử,” cô nói, “rằng em không thể làm được điều đó thì sao?”

“Nhưng em phải làm được”.

Audrey nhẹ nhàng nói:

“Em nghĩ anh không hiểu. Em nghĩ... em không thấy mọi thứ bình thường”.

Anh nói thô lỗ:

“Nhảm nhí. Em...” Anh dừng lại.

“Em... gì chứ?”

“Anh đang nghĩ về em trước đây... trước khi em cưới Nevile. Sao em lại cưới Nevile?”

Audrey mỉm cười.

“Vì em yêu anh ấy”.

“Đúng vậy, đúng vậy, anh biết điều đó. Nhưng tại sao em yêu anh ta? Anh ta có điều gì lôi cuốn em vậy?”

Cô nheo mắt như thể đang cố gắng nhìn bằng đôi mắt của một xác chết.

“Em nghĩ,” cô nói, “bởi vì anh ấy quá năng động. Anh ấy luôn luôn trái ngược với những gì trong con người em. Em luôn cảm thấy như cái bóng... không thực. Nevile lại rất thực. Rất hạnh phúc và tự tin về bản thân mình và còn nhiều nữa, mọi thứ mà em không có”. Cô mỉm cười nói thêm: “Và rất đẹp trai”.

Thomas Royde nói một cách cay đắng:

“Đúng vậy, một người Anh lý tưởng... giỏi thể thao, giản dị, đẹp trai, luôn là người tốt nhất... có mọi thứ anh ta muốn”.

Audrey ngồi thẳng lên và liếc nhìn anh.

“Anh ghét anh ấy” cô chậm rãi nói. “Anh ghét anh ấy lắm phải không?”

Anh tránh ánh mắt cô, quay đi bẻ cong que diêm trong tay khi anh thắp lại ống điếu đã tắt.

“Anh ghét anh ta thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên phải không?” anh nói một cách mơ hồ. “Anh ta có mọi thứ mà anh không có. Anh ta có thể chơi thể thao, bơi và khiêu vũ, và nói chuyện. Anh là một kẻ ngốc hay mắc cỡ với cánh tay tàn tật. Anh ta luôn xuất sắc và thành công còn anh luôn là một con chó đần. Và anh ta cưới cô gái duy nhất mà anh quan tâm”.

Cô bật ra một âm thanh yếu ớt. Anh nói gay gắt:

“Em luôn biết điều đó, đúng không? Em biết anh thích em từ lúc em mới mười lăm tuổi. Em biết anh vẫn yêu em...”

Cô ngăn anh lại.

“Không, không phải lúc này”.

“Ý em... không phải lúc này là sao?”

Audrey đứng dậy. Cô nói bằng giọng khá trầm:

“Bởi vì... bây giờ... em đã khác rồi”.

“Khác thế nào?”

Anh cũng đứng dậy và đối diện với cô.

Audrey nín thở nói nhanh:

“Giá mà anh biết... em không thể nói với anh... Không phải lúc nào em cũng chắc chắn về bản thân mình. Em chỉ biết...”

Cô bỏ lửng và quay ngoắt lại, đi rất nhanh qua bãi đá về phía khách sạn.

Khi rẽ ở góc bờ đá cô đụng phải Nevile. Nevile đang nằm dài nhìn chăm chú vào một hốc đá. Anh ngước lên và cười:

“Chào Audrey”.

“Chào Nevile”.

“Anh đang xem một con cua. Con ranh năng động kinh khủng. Nhìn này, nó đó”.

Cô quỳ xuống và liếc nhìn chỗ anh vừa chỉ.

“Thấy không?”

“Thấy rồi”.

“Em hút thuốc không?”

Cô gật đầu và anh mồi thuốc cho cô. Sau một vài giây, suốt thời gian đó cô không nhìn anh, anh nói, hơi lo lắng:

“Anh nói này, Audrey?”

“Vâng”.

“Ổn mà, đúng không? Ý anh là, chuyện hai chúng ta”.

“À. Vâng, tất nhiên rồi”.

“Ý anh là... tất cả chúng ta là bạn”.

“Ồ, vâng... vâng, tất nhiên”.

“Anh muốn chúng ta là bạn”.

Anh nhìn cô lo lắng, cô mỉm cười bối rối.

Anh nói một cách thân mật:

“Một ngày thú vị đúng không? Thời tiết đẹp và mọi thứ?”

“À, vâng... đúng vậy”.

“Trời tháng Chín khá nóng”.

Một thoáng im lặng trôi qua.

“Audrey...”

Cô đứng dậy.

“Vợ anh đang đợi. Cô ấy đang gọi anh kìa”.

“Ai... à, là Kay”.

“Em đã nói là vợ anh”.

Anh rướn người đứng dậy và nhìn cô.

Anh nói bằng một giọng rất trầm:

“Em là vợ anh, Audrey...”

Cô quay đi. Nevile chạy xuống bãi biển, băng qua bãi cát đến với Kay.

IX

Khi họ về tới Gull’s Point, Hurstall ra khỏi đại sảnh và nói với Mary:

“Cô có lên gặp lệnh bà ngay bây giờ không, thưa cô? Bà ấy đang rất buồn và muốn gặp cô ngay khi cô về”.

Mary vội vã lên lầu. Cô thấy bà Tressilian trắng bệch và run cầm cập.

“Mary ơi, cháu về ta mừng quá. Ta cảm thấy quá đau khổ. Ông Treves đáng thương đã chết rồi”.

“Chết sao?”

“Đúng vậy, chẳng phải là quá kinh khủng sao? Quá bất ngờ. Rõ ràng là tối qua ông ấy còn chưa kịp thay đồ ra nữa. Hẳn là ông ấy ngã gục ngay khi vừa về nhà”.

“Ôi trời, cháu rất tiếc”.

“Tất nhiên, người ta biết rằng ông ấy quá mong manh. Một trái tim quá yếu. Không có gì xảy ra trong khi ông ấy ở đây chứ? Bữa tối có quá khó tiêu không?”

“Cháu nghĩ không phải đâu... không, cháu chắc chắn là không có gì cả. Dường như ông ấy khá khỏe và tinh thần rất tốt”.

“Ta thật sự rất đau khổ. Mary à, ta muốn cháu tới Balmoral Court và hỏi bà Rogers vài chuyện. Hỏi bà ấy xem chúng ta giúp được gì không. Và rồi dự đám tang. Vì Matthew, ta muốn làm bất cứ điều gì trong khả năng. Ở khách sạn mà có những chuyện như thế này thì thật là bất tiện”.

Mary trấn an bà:

“Bà Camilla ơi, thật sự bà không cần phải lo lắng đâu. Chuyện này đã là một cú sốc với bà rồi”.

“Thật sự là như vậy”.

“Cháu sẽ tới Balmoral Court ngay và rồi cháu sẽ kể lại cho bà mọi thứ”.

“Cám ơn cháu, Mary à, cháu luôn rất thực tế và thấu hiểu ta”.

“Giờ bà cố gắng nghỉ ngơi đi. Những cú sốc thế này không tốt với bà đâu”.

Mary Aldin ra khỏi phòng và xuống lầu. Cô vào phòng khách và tuyên bố: “Ông cụ Treves đã chết, ông ta chết vào đêm qua sau khi về nhà”.

“Ông già tội nghiệp” Nevile nói. “Chuyện gì vậy?”

“Rõ ràng là vì tim thôi, ông gục chết ngay khi vừa vào phòng”.

Thomas Royde trầm ngâm nói:

“Tôi thắc mắc không biết có phải cầu thang bộ đã hại ông ấy hay không”.

“Thang bộ hả?” Mary nhìn anh thắc mắc.

“Đúng vậy. Khi Latimer và tôi ra về thì ông ấy bắt đầu lên lầu. Chúng tôi có nhắc ông ấy nên đi chậm”.

Mary la lên:

“Nhưng ông ấy điên hay sao mà không đi thang máy”.

“Thang máy bị hỏng”.

“Ồ, tôi hiểu rồi. Thật không may. Tội nghiệp ông già”.

Cô nói thêm: “Giờ tôi đến đó đây. Camilla muốn biết liệu chúng ta có giúp được gì không”.

Thomas nói: “Tôi đi với cô”.

Họ đi bộ cùng nhau, vòng qua một góc đường tới Balmoral Court. Mary nói:

“Tôi thắc mắc không biết ông ta có bà con họ hàng gì cần được báo tin không?”

“Chẳng hề nghe ông ta nhắc tới ai”.

“Vâng, người ta thường không làm như vậy. Họ thường nói ‘cháu gái tôi’, hay là ‘anh em họ của tôi’.”

“Ông ta có gia đình không?”

“Tôi nghĩ là không”.

Họ bước vào cánh cửa đang mở của Balmoral Court.

Bà Rogers, chủ khách sạn, đang nói chuyện với một người đàn ông trung niên có vóc người cao, ông vẫy chào Mary rất thân thiện.

“Chào cô Aldin”.

“Chào bác sĩ Lazenby. Đây là ông Royde. Chúng tôi đến gửi lời nhắn của bà Tressilian xem chúng tôi có thể g