← Quay lại trang sách

Chương 2 Kẻ đáng ngờ

Mori Miyako nói hai ba ngày nữa lên đường, rốt cuộc là chẳng mấy khi rời thôn nên cô tranh thủ đi mua sắm, thăm bạn bè ở Osaka và Kobe, lại lâu rồi chưa xem kịch nên nấn ná thêm một ngày. Tới 25 tháng Sáu chúng tôi mới khởi hành về thôn Tám Mộ.

Tính ra 25 tháng Năm là lần đầu tôi gặp luật sư Suwa sau bản tin tìm người trên đài. Vỏn vẹn một tháng mà bao nhiêu sự kiện xảy ra, tất bật đến hoa cả mắt. Mỗi ngày tôi đều ghé nhà luật sư Suwa cho tới khi lên đường, đôi khi Miyako gọi điện rủ tôi đi mua sắm hoặc xem kịch chung, khiến một kẻ từ nhỏ đã ít tiếp xúc với phái nữ như tôi vui sướng rộn ràng. Đồng thời, bất an lo lắng sợ hãi (mà có lẽ là hỗn hợp các cảm xúc mơ hồ manh nha từ trước) dần dà bắt rễ sâu xuống lại làm tôi ủ ê tuyệt vọng.

Sớm muộn gì người ta cũng sẽ cho tôi biết về xuất thân của mình. Luật sư Suwa và Miyako hẳn đã nhận định rằng việc tiết lộ toàn bộ câu chuyện sẽ khiến tôi bị sốc, cho nên trong khoảng thời gian tôi tất bật chạy qua chạy lại chuẩn bị cho ngày xuất phát, họ đã kể lần lượt từng chút một lịch sử khủng khiếp liên quan đến sự ra đời của tôi.

Lịch sử đó đã được trình bày ở đầu sách rồi nên tôi xin phép không viết ra nữa. Mà đúng hơn là tôi không thể chịu đựng được việc viết lại lần nữa xung đột thê thảm và thương tâm của cha mẹ mình. Người mẹ đáng thương! Bây giờ tôi mới biết nguyên nhân khiến mẹ lên cơn ban đêm, cảnh tượng giằng xé tim tôi thời thơ ấu. Đồng thời cũng hiểu ra nguồn cơn những vết sẹo đáng sợ trên cơ thể mình.

Hai sự việc đó, nặng nề và đau đớn như chì nghiến nát lồng ngực tôi. Nhưng giày vò hơn cả là kết cục rùng rợn với cuộc thảm sát 32 thôn dân. Dường như gắng sức để không làm tôi thất kinh, luật sư Suwa và Miyako kể lại mọi chuyện thật ôn tồn và điềm đạm, nhưng lại càng khiến tôi sốc đến mức không ngôn từ nào diễn tả được. Nghe xong, người tôi lạnh toát, hơi thở tắc nghẽn. Tôi nín lặng như hóa đá, cố sức kìm nén mà không ngăn nổi mình run lên bần bật.

“Đúng là một nhiệm vụ đáng ghét. Đáng lẽ ông Ushimatsu sẽ kể cho cậu cơ, nếu ông không gặp chuyện bất hạnh. Sau khi bàn bạc với nhau, chúng tôi quyết định gánh trách nhiệm thay ông. Tôi rất tiếc. Mà không, tôi thấy rất tàn nhẫn. Tuy nhiên, cậu cần biết trước khi về thôn. Cậu đừng khó chịu nhé.”

Miyako ân cần rào đón trước và quan sát tôi với vẻ đau lòng. Tôi cố nuốt trôi cục nghẹn ở họng và cất tiếng. “Không đâu, sao tôi lại khó chịu chứ... Tôi cảm kích còn chưa hết. Dù sao thì đây vẫn là chuyện sớm muộn gì cũng phải nghe một lần, chi bằng được nghe từ những người tử tế ân cần. Nhưng chị Miyako này...”

“Vâng…”

“Thôn dân nghĩ gì về tôi? Bây giờ tôi mà về thì họ cảm thấy thế nào?”

Miyako và luật sư Suwa nhìn nhau, rồi luật sư nhẹ nhàng khuyên, “Tốt nhất là cậu đừng băn khoăn chuyện ấy. Cứ bận tâm người khác nghĩ gì về mình thì không sống nổi một ngày ở đó đâu.”

“Bác Suwa nói đúng đấy. Hơn nữa, cậu chẳng làm gì nên tội cả.”

“Cảm ơn hai vị quan tâm, tôi vẫn muốn biết.”

Luật sư Suwa và Miyako lại nhìn nhau, cuối cùng Miyako gật đầu.

“Được rồi, có khi biết trước lại hơn. Chuẩn bị tinh thần nhé... Thành thật mà nói, người trong thôn không ưa cậu lắm. Nghe qua vô lý, vì cậu chẳng có lỗi gì cả. Nhưng xét từ góc độ những người có cha mẹ hoặc con cái bị thảm sát thì dễ hiểu thôi. Tệ hơn là, một năm thành phố bằng mười năm thôn quê. Ở thành phố, người ta gặp gỡ rồi chia ly khá thường xuyên nên mọi chuyện thường chóng phai nhạt. Dân quê thì loanh quanh một chỗ, chuyện chẳng đáng gì cũng nhớ dai dẳng từ năm này qua năm khác. Việc cậu sắp về thôn cũng bị bàn ra tán vào.”

“Cả thôn đều biết tôi sắp về rồi ư?”

“À thì... Khác với thành phố, ở quê rất khó giữ bí mật, trước sau gì cũng lộ ra thôi... Một khi đã lộ là cả thôn biết hết. Tuy nhiên cậu không cần bận tâm quá, người thành phố nào về quê chả bị nói này nọ. Ngay như tôi, ngần này tuổi vò võ phòng không nên cũng bị đơm đặt nhiều, cứ để ý từng li từng tí thì chẳng biết bao giờ mới hết, nên tôi quyết định nghe tai nọ ra tai kia luôn. Thực sự là người ở quê nhiễu sự lắm.”

“Trường hợp của hai người cơ bản là khác nhau... Chẳng may bị thôn dân thù ghét thật, cậu phải can đảm lên và chuẩn bị tâm lý sẵn sàng nhé.”

Tôi nghe mà lòng nặng như chì đổ, cố xua đuổi nỗi bất an đang tấn công mình để trả lời, “Cảm ơn hai vị đã cho biết nhiều điều. Đây là một gánh nặng đối với tôi, nhưng đúng như luật sư nói, biết rồi thì tâm lý cũng sẵn sàng phần nào. Nhân tiện, chị Miyako này!”

“Vâng…”

“Tôi hỏi nhiều quá rồi, song vẫn còn một việc tôi rất muốn biết...”

“Vâng, việc gì ạ?”

“Thôn dân không ưa tôi, nhưng chị có nghĩ ra ai trong số đó đặc biệt căm ghét tôi hơn hẳn những người khác không? Căm ghét đến nỗi không muốn tôi về thôn, tìm cách xua tôi ra thật xa ấy...”

“Tôi không rõ... Sao cậu lại hỏi thế? Không phải tất cả mọi người trong thôn đều oán hận cậu đâu. Đừng nghĩ quá lên. Nếu cậu hiểu chuyện tôi vừa kể theo hướng này thì tôi phải đính chính lại rồi.”

“Có lý do nên tôi mới hỏi. Hai vị nhìn đây. Hôm mùng 5, tôi nhận được thư này.” Tôi chìa ra lá thư cảnh cáo nhận được vào sáng ngày ông ngoại bị hạ độc, ngày mà tôi không thể nào quên.

Trông thấy lá thư, luật sư Suwa và Miyako mở to mắt nhìn nhau.

“Chị Miyako, nội dung thư và cái chết của ông tôi dường như liên quan đến nhau? Phải chăng có người không muốn tôi về thôn nên đang mưu toan chuyện gì?”

Miyako tái mặt, không trả lời ngay.

Luật sư Suwa nhíu mày, “Ra thế, cứ xét lá thư này thì việc giết hại ông Ushimatsu phải có căn nguyên sâu xa. Miyako, cháu có nghĩ ra được ai viết không?”

“Cháu không…”

“Shintaro thì sao? Cháu quen cậu ta từ lúc còn ở Tokyo, đúng không? Cậu ta có phải là loại người nghĩ ra mấy chuyện thế này không?”

“Không thể nào...”

Miyako ngắt lời luật sư, gò má thoáng ửng đỏ, môi run khẽ. Phản ứng đó không thoát khỏi mắt tôi và luật su Suwa.

“Shintaro có phải là em họ cháu.”

“Đúng thế. Cậu ta từng là thiếu tá. Miyako, cháu vừa chợt nghĩ ra điều gì phải không?”

“Chuyện như thế... làm sao cháu nghĩ ra điều gì được. Cháu chỉ không hiểu... Anh ta đã hoàn toàn thay đổi... Hồi xưa hiên ngang biết bao, bây giờ lọm khọm như ông già, từ khi về thôn chẳng mở miệng nói câu nào. Không chỉ cháu, mà chắc cả thôn chẳng ai trò chuyện thân thiết với anh ta được. Đúng, Shintaro trở nên ghét con người. Vì vậy suy nghĩ, cảm giác của anh ta, cháu không đoán ra được. Nhưng... nhưng mà... cháu không nghĩ anh ta có thể mưu toan một vụ thế này. Ngay với tính khí ngày xưa thì cũng.” Nghe chừng Miyako đang cố biện hộ cho Shintaro, nhưng lời lẽ mỗi lúc một hỗn loạn cho thấy chính cô cũng đang phân vân. Phải chăng lý trí thì phủ định, còn cảm tính vẫn mang máng nhận ra điều gì không thể bác bỏ? Ý nghĩ này khiến tôi sinh nghi.

Satomura Shintaro hẳn là người không muốn tôi về quê nhất ở thôn Tám Mộ. Tôi sẽ nhớ kĩ điều đó, nhớ cả trạng thái tinh thần hỗn loạn đáng ngờ khi nãy của Miyako.

25 tháng Sáu, ngày chúng tôi lên đường về thôn Tám Mộ, bầu trời mùa mưa [*] âm u báo hiệu một cơn mưa sắp đến. Kể cả trời có đẹp đi nữa thì hành trình này vẫn làm tôi căng thẳng, áp lực và khổ sở. Thành thật mà nói, trong lúc đợi tàu lăn bánh ở ga Sannomiya, tôi thấy ủ rũ không chịu được. Luật sư Suwa ra ga tiễn tôi, mặt cũng xanh xao lạ lùng.

“Cậu cẩn thận nhé. Tôi không muốn nói mấy điều xúi quẩy vào lúc xuất phát, nhưng tôi có cảm giác việc tìm người thân lần này chỉ là bề ngoài. Có thể bên trong còn ẩn giấu ý nghĩa sâu sắc đến mức chúng ta chưa hình dung được. Tôi vẫn rất băn khoăn về cái chết của ông cậu và lời cảnh cáo kì lạ kia, cùng kẻ dò la tính cách hành vi của cậu nữa.”

[*] Mùa mưa tại Nhật thường kéo dài từ tháng Năm đến tháng Bảy.

Luật sư muốn nhắc đến người mà vợ bạn tôi và trưởng phòng nhân sự từng kể lúc trước. Để làm rõ vấn đề, gần đây tôi đã xác nhận lại thì được biết ông không cử ai đi cả, và còn tỏ ra rất ngạc nhiên.

“Vì trách nhiệm đối với thân chủ, tôi có điều tra nhanh về con người cậu, nhưng tôi dùng cách đơn giản đến mức cậu sẽ nhận ra ngay. Hừm... Vậy là ngoài chúng tôi còn có người khác tìm hiểu về cậu, và người này trông như ở quê xuống. Miyako, cháu có nghĩ ra ai không?”

“Cháu cũng không biết...” Miyako nhíu mày.

Luật sư Suwa nói, “Cậu Tatsuya này, con người quả là sinh vật kì lạ. Một tháng trước chúng ta là hai kẻ xa lạ, chẳng biết gì về sự tồn tại của nhau. Vậy mà lại từ từ gắn kết vì có người tìm cậu, rồi còn lần lượt trở thành nghi phạm của cùng một vụ giết người. Tự dưng tôi có cảm giác cậu như người trong nhà. Nói ra hơi lạ, nhưng tôi bắt đầu cảm thấy quý mến cậu rồi. Về thôn mà có gì khó khăn hay cần giúp đỡ, cứ báo cho tôi biết, đừng ngại. Dù bận tôi cũng sẽ thu xếp đến ngay.”

Lời nhắn nhủ ân cần của luật sư Suwa làm lòng tôi se thắt. Trong buổi sáng lên đường đi đến tương lai mịt mù ấy, tôi vô cùng xúc động, cổ họng nghèn nghẹn, ngoài im lặng gật đầu ra không biết nên làm gì khác.

Người vui vẻ nhất trong chúng tôi là Miyako. Cô vận trang phục đi đường nhẹ nhàng cùng áo khoác xanh lá nổi bật, rất hợp với thân hình cao ráo, cứ như một bông hoa nở rộ trên sân ga sắp mưa.

“Hai người đang nói gì thế? Cứ làm như chuyện không hay chắc chắn sẽ ập xuống đầu cậu Tatsuya vậy... Ngốc thật. Không sao đâu. Khi biết chân tướng sự việc, thể nào mọi người cũng thở phào nhẹ nhõm ‘Ra là thế cho mà xem. Vả lại, thậm chí...” Miyako liếc mắt qua lại một cách tinh nghịch. “Nếu có gì xảy ra thật, đừng quên là còn tôi đây. Trông thế này thôi chứ tôi mạnh lắm. Tôi ghét thua cuộc, dù đối thủ là ai đi nữa, nên mọi người đừng lo lắng quá. Chuyện gì phải đến sẽ đến thôi.”

“Ừm... Thế trông cậy cả vào Miyako nhé.” Luật sư Suwa gượng cười.

Tàu sắp lăn bánh, chúng tôi chia tay luật sư.

Tuy bồn chồn về chặng đường phía trước, tôi vẫn rất tận hưởng chuyến đi này, vì Miyako là một mỹ nhân, lại còn toát ra sức hấp dẫn đáng kể.

Cô có khuynh hướng hay chăm sóc người khác, thích được người ta nhờ vả, trông cậy vào mình. Vừa quen nhau mà cô đã như lãnh luôn trách nhiệm giám hộ tôi, bảo ban từng tí một như chị gái với em trai. Gần đến ngày xuất phát, cô còn mạnh tay vung tiền sắm sửa trang phục đi đường cho tôi.

“Không sao đâu, đừng lo. Đây là tiền hai bà giữ hộ cậu bấy lâu nay mà. Ở quê, ấn tượng đầu tiên rất quan trọng, khúm núm quá người ta xem thường. Dù là phục trang hay thái độ cũng phải đường hoàng cho họ thấy. Cậu cứ ấp a ấp úng là không được đâu.”

Tuy có cảm giác mình bị dắt mũi kéo đi, tôi vẫn lâng lâng vì khoan khoái và háo hức lạ lùng, lòng say như điếu đổ vì sức hút mãnh liệt của Miyako.

Trên tàu hỏa, lần đầu tiên tôi được nghe chuyện riêng của cô. Như đã nói qua, thôn Tám Mộ có hai phú hộ là nhà Tajimi và nhà Nomura. Miyako là em dâu của Sokichi chủ nhà Nomura. Nói cách khác, Tatsuo em trai Sokichi là chồng trước của cô.

“Chồng chị trước kia làm gì?”

“Anh ấy điều hành nhà máy sản xuất trang thiết bị điện. Tôi không rõ thiết bị điện là sản phẩm gì, nhưng thời chiến làm ăn khá tốt. Tóm lại là phất lên nhờ nhu cầu quân sự.”

“Anh ấy qua đời khi nào?”

“Năm thứ ba của Chiến tranh Thái Bình Dương, lúc vận mệnh nước Nhật đang trên đà suy vong. Anh ấy xuất huyết não do uống nhiều rượu quá.”

“Khi đó anh ấy còn trẻ ạ?”

Nghe tôi hỏi, Miyako bật cười thành tiếng, “Anh ấy hơn tôi mười tuổi có lẻ cơ, nhưng đúng là khi mất anh ấy còn trẻ thật. Tôi đã cuống cà kê, chẳng biết xoay xở thế nào trước sự ra đi đột ngột này. May thay, người hợp tác điều hành công ty với chồng tôi rất hào hiệp, quản lý chia phần sòng phẳng nên tôi vẫn có tiền vào đều đều, không gặp khó khăn trong sinh hoạt..”

“Chị quen biết Shintaro lâu chưa?”

Tôi cố hỏi một cách bình thường, mà vẫn không thoát được cái liếc mắt sắc như tia chớp xuyên người của Miyako.

“Không lâu lắm. Chẳng qua vì là... đồng hương nên cũng biết tên, biết anh ta là quân nhân. Chúng tôi chính thức quen biết nhau là do chồng tôi giới thiệu. Chẳng gì thời chiến quân nhân cũng là nhất mà. Hơn nhau ở chỗ có nắm bắt được nơi tập trung quyền lực của họ hay không thôi. Vậy nên chúng tôi hay mời anh ta đến nhà, hoặc cùng nhau ăn ngoài...”

“Sau khi chồng mất chị vẫn giao thiệp với Shintaro chứ?”

Miyako lại liếc nhanh về phía tôi bằng ánh mắt sắc sảo, đoạn nở một nụ cười bí ẩn, “Chúng tôi gặp nhau còn nhiều hơn trước nữa. Chồng mới mất nên tôi khá cô đơn, vả lại là người cùng quê thì cũng thân thuộc. Thú thật, tôi ghét quân nhân lắm, nhưng tiếp xúc với người của bộ tổng tham mưu thì thu được nhiều thông tin mà... Nghe lợi dụng nhỉ!”

Sau này tôi mới biết có tin đồn rằng khi nhận ra thời cuộc bất lợi, Miyako đã thu mua kim cương đá quý để tích trữ, số châu báu đó giờ thành tài sản của cô, hơn nữa có giá trị khá lớn. Miyako có máu liều và sự quyết đoán, những phẩm chất hiếm thấy ở phụ nữ Nhật Bản.

“Nghe nói Shintaro còn độc thân, giờ sống ở nhà Tajimi a?”

“Anh ta độc thân nhưng không sống một mình. Shintaro còn một người em gái tên Noriko. Đúng rồi, Noriko quả nhiên...”

Nói đến đoạn “quả nhiên”, Miyako đột ngột tắt tiếng, khiến tôi bất giác nhìn sang. Không hiểu sao cô lộ vẻ lúng túng, tôi tò mò hỏi, “Quả nhiên... thế nào?”

Miyako gượng cười, “Xin lỗi cậu, tôi không cố ý nhắc đến chuyện này, nhưng nói nửa chừng mà dừng thì kì quá nhi. Tôi đành kể tiếp vậy. Noriko chào đời vào lúc... cha cậu gây ra vụ bê bối kia. Mẹ Noriko sốc quá nên sinh non. Bấy giờ cái thai mới được tám tháng, lọt lòng mẹ chưa bao lâu thì mẹ lại mất, ai cũng cho rằng Noriko sẽ yểu mệnh thôi, lạ thay em ấy vẫn lớn lên bình thường, tuy nhiên... Chỉ kém cậu một tuổi mà trông em ấy như mới mười chín hai mươi vậy. Shintaro mang em ấy về thôn, cùng ở ngôi nhà do người thân giữ hộ và theo nghề nông.”

Tim tôi lại trĩu nặng. Tội lỗi cha gây ra để lại hậu quả dai dẳng quá! Hẳn là còn nhiều nạn nhân giống Noriko ở thôn Tám Mộ. Bây giờ tôi quay về, chẳng biết sẽ khuấy động sóng to gió lớn nhường nào, mới tưởng tượng đã lạnh sống lưng.

Ở Okayama, chúng tôi đổi tàu từ tuyến Sanyo sang tuyến Hakubi, đi thêm vài tiếng thì xuống ga N. Bấy giờ đã hơn 4 giờ chiều. Trên tuyến Sanyo chúng tôi ngồi ghế hạng hai nên khá thoải mái, nhưng tuyến Hakubi không có ghế hạng hai nên đông đúc khó chịu, được xuống tàu tôi nhẹ cả người. Tuy nhiên, khi biết rằng để đi đến thôn Tám Mộ còn phải mất một tiếng xe buýt và nửa tiếng đi bộ, tôi đâm ra chán ngán.

May thay xe buýt rất vắng. Trên chuyến xe này, lần đầu tiên tôi gặp cư dân của thôn Tám Mộ.

“Ái chà, không phải mợ trẻ Tây gia đây sao?”

Một người đàn ông lớn tiếng gọi mà chẳng ngó ngàng đến xung quanh (một đặc trưng của dân vùng này) và ngồi xuống trước mặt Miyako. Ông ta chừng ngũ tuần, khuôn mặt và thân hình thô kệch cứng nhắc, thể chất tương đồng với ông ngoại mới mất của tôi. Có lẽ đây cũng là một đặc trưng của cư dân vùng này. Ngay quần áo cũng giống ông tôi nốt.

“Ồ, chào bác Kichizo. Bác đi đâu thế?”

“Tôi có việc phải đến N một chuyến, bây giờ đang về thôn. Mợ đi Kobe về à? Khổ thân ông Ushimatsu quá!”

“Bớt đi một đối thủ cạnh tranh, chắc bác thở phào nhẹ nhõm nhỉ!”

“Ấy, không đùa thế được đâu.”

“Hai người tranh giành địa bàn làm ăn khá gay gắt còn gì?”

Theo như tôi biết về sau, Kichizo và ông tôi là hai thương lái ở thôn Tám Mộ. Ở đây dù là thương lái hay nông dân thì đều trọng đạo lý đã chọn nghề nào là theo nghề ấy đến cùng. Tuy nhiên sau chiến tranh, nhiều nề nếp đảo lộn, ngay cả ở nơi lề thói bảo thủ như vùng núi xa xôi này. Nông dân tự ý chuyển nghề thương lái, thương lái không ngại giẫm lên phạm vi kinh doanh của nhau. Cái đó gọi là tranh giành địa bàn làm ăn. Địa bàn ở đây có lẽ là ngựa, một mặt hàng béo bở.

Nghe Miyako nói, Kichizo trợn mắt như chạm nọc, “Mợ đừng nói bừa. Chuyện đó gây ra cho tôi biết bao phiền phức. Bị cảnh sát điều tra đã đủ kinh, lại còn bị người trong thôn soi mói nghi kị... Hai chúng tôi đều lấn sân mà. Đâu phải lỗi riêng mình tôi. Ông Ushimatsu tự nhiên nhảy vào nên tôi mới bực.”

“Được rồi, tôi hiểu mà. Không phải ai cũng nghĩ bác giết ông Ushimatsu đâu. Sau đó tình hình ở thôn thế nào? Không có gì thay đổi chứ?”

“Thầy Arai thỉnh thoảng bị cảnh sát triệu tập, khổ thân.”

“À, thầy Arai là bác sĩ điều trị chính của ông Ushimatsu nhỉ! Đời nào có chuyện bác sĩ hạ độc bệnh nhân? Làm thế là lộ tẩy ngay ấy chứ. Vả lại thầy Arai cũng đâu có thù oán gì với ông….

“Thì thế, nên có lẽ triệu tập để làm nhân chứng thôi, vì rõ ràng là thuốc do thầy bào chế đã bị tráo. Nhưng mà mợ này...” Kichizo chợt hạ giọng thì thầm. “Dẫu thầy Arai không giết người đi nữa, ông Ushimatsu vẫn là uống nhầm thuốc mà chết. Lập tức có kẻ rêu rao rằng uống thuốc của thầy Arai thì sẽ chết đấy. Gần đây thầy vắng khách hẳn đi.”

“Thật độc mồm độc miệng! Ai lại đi đơm đặt như thế nhị!”

“Tôi không dám chắc, nhưng hình như là thầy Kuno.”

“Không đời nào...”

“Sao lại không! Từ lúc thầy Arai về đây tản cư và mở phòng mạch, người đến khám chỗ thầy Kuno giảm đi nhiều.”

Miền quê nào cũng thế, người oai nhất là thầy thuốc. Nông dân e dè thầy thuốc còn hơn cả trưởng thôn hay hiệu trưởng trường làng. Thêm vào đó, ít người làm nghề y ở đâu mà kiêu căng ngạo mạn như ở quê, kén chọn bệnh nhân, miễn khám đêm tại gia trừ phi bệnh nhân giàu có. Dù vậy, đó là lề thói tồn tại đã lâu nên chẳng ai thấy lạ cả.

Tuy nhiên, từ khi chiến tranh sắp kết thúc, thôn quê trên khắp nước Nhật đã thay đổi hẳn. Các bác sĩ thành phố có nhà bị cháy theo người quen di dân xuống nông thôn. Để thu hút bệnh nhân mới, họ khám bệnh với phong cách niềm nở như ở thành phố. Người miền quê tuy trọng lề thói, nhưng lẽ thường con người thích được ve vuốt hơn là bị xem thường; thêm vào đó sau chiến tranh, đời sống khó khăn khiến nhiều lề thói thành ra lỗi thời; và quan trọng nhất là dân cư yêu thích các bác sĩ cẩn thận, tinh tế hơn là các thầy thuốc lề mề, chậm chạp... Thành ra chẳng mấy chốc, bác sĩ tản cư đã áp đảo thầy thuốc bản địa ở mọi miền quê. Xem chừng tình hình ở thôn Tám Mộ cũng không phải ngoại lệ, cả về thương lái tranh địa bàn và bác sĩ giành bệnh nhân. Tôi chăm chú lắng nghe những xích mích làng quê với hứng thú sâu sắc.

“Mà thầy Kuno cũng phách lối quá cơ. Gieo nhân nào gặt quả nấy. Ở quê không nên làm mếch lòng bệnh nhân. Dưới thị trấn nửa đêm bỏ đi còn được, chứ trên núi thì biết chạy đi đâu. Thầy ấy hợm hĩnh đó giờ nên khó mà hạ mình ngay được. Xưa người ta khám chữa xong vẫn trả bằng gạo, nhưng gần đây toàn trả bằng tiền, còn gạo đem bán chui sẽ có lợi hơn. Nhà thầy ấy lại đông con nên hình như đang gặp khó khăn về cái ăn. Gần đây vợ thầy bắt đầu nấu độn khoai. Vợ thầy thuốc mà phải làm nông thì thôi rồi.” Dường như có hiềm khích, Kichizo kể về khó khăn của Kuno bằng giọng vô cùng hả hê, đoạn hạ giọng, “Thầy Kuno ghét thầy Arai sâu đậm lắm, nghe bảo còn đi đơm đặt rất quá đáng. Tôi nghĩ có khi nào người đầu độc ông Ushimatsu là thầy Kuno không.”

“Trời!” Miyako bất giác nín thở. “Nhưng ghét Arai thì sao lại hạ độc người không liên quan như ông Ushimatsu?”

“Sao lại không?! Làm thế để đổ tội cho thầy Arai. Và lại ông Ushimatsu cũng đâu hẳn không liên quan. Khi thầy Arai về đây mở phòng mạch, ông Ushimatsu đến khám đầu tiên, sau đó còn đi khắp thôn tuyên truyền rằng thuốc của thầy rất hiệu nghiệm. Thầy Kuno bực tức cũng phải thôi. Với lại ở miền quê này, ngoài thầy thuốc ra còn ai có thuốc độc nữa đâu.”

“Thôi nào. Bác Kichizo, chuyện này không thể đoán bừa rồi đi nói lung tung được. Hơn nữa, người ngồi đây là họ hàng thân thích của thầy Kuno đấy.”

Lần đầu tiên Kichizo đưa mắt sang tôi, và đôi mắt nhanh chóng ngập tràn kinh ngạc, “À, đây là con của...”

“Đúng vậy. Cậu ấy mang tro cốt của ông Ushimatsu về thôn đấy. Cậu ấy sẽ đi chào hỏi mọi người sau, mong được bác giúp đỡ.”

Kichizo lập tức thôi bép xép và rơi vào trầm tư, thỉnh thoảng liếc tôi, cuối cùng chồm tới, “Tôi cứ nghĩ là không, ai dè mợ đi đón người này thật. Thôn dân bảo nhau cậu ta sẽ không ngoan ngoãn nói gì làm nấy đâu, hóa ra vẫn dẫn xác về.”

Tim tôi lạnh buốt đi như bị đâm thấu, sắp về tới thôn mà nghe câu chào hỏi như thế thì vui vẻ làm sao được.

Kichizo còn muốn nói thêm, nhưng Miyako nhìn đi chỗ khác tỏ ý không nghe, ông ta đành im lặng, chỉ khoanh tay bặm môi một cách khó chịu, bộ dạng bất mãn, thỉnh thoảng ném vào tội ánh mắt đầy ác ý. Tim tôi cứ thắt lại, lòng nặng như đeo đá.

Cuối cùng chúng tôi cũng đến lối vào thôn Tám Mộ. Xe vừa dừng, Kichizo đã ba chân bốn cẳng lao xuống trước. Miyako và tôi bất giác nhìn nhau. Tôi biết, hẳn là Kichizo muốn về thôn sớm hơn chúng tôi để loan tin đây.

Miyako thở dài, “Bác Suwa nói đúng. Chuyến đi này cần rất nhiều dũng khí. Cậu không sao chứ?”

Có lẽ mặt tôi tái xanh rồi, nhưng lòng tôi đã quyết. Tôi gật đầu kiên định thay cho câu trả lời. Đường vào thôn phải băng qua một con đèo, không cao lắm nhưng gập ghềnh nên xe buýt không đi được, muốn thì đi xe đạp thôi. Được hai mươi phút, chúng tôi lên tới đỉnh đèo. Đến tận bây giờ tôi vẫn nhớ rõ cảm giác u ám trong khoảnh khắc đứng đó nhìn về phương Bắc.

Thôn Tám Mộ giống một lòng chảo, bán kính tầm bảy tám cây số, bốn bề núi non vây bọc. Sườn núi làm ruộng bậc thang, từ chân núi đến giữa lòng chảo thì làm ruộng lúa nước bé tí tẹo, và kì lạ là thửa ruộng nào cũng rào cọc xung quanh. Sau này tôi mới biết sinh kế chính của cư dân nơi đây là chăn bò nên cả thôn là bãi thả. Bò bạ đâu ngủ đấy nên người ta rào cọc quanh ruộng để chúng không vào được.

Vậy là, tầm chạng vạng một ngày mùa mưa, 25 tháng Sáu, là lần đầu tôi nhìn thấy thôn Tám Mộ từ xa. Trời không mưa, nhưng mây bay là là trên các ngôi nhà tường nhám [*] rải rác ở lòng chảo như điềm báo chẳng lành, làm tôi bất chợt rùng mình.

“Nhìn kìa, thấy cơ ngơi đồ sộ ở chân núi kia không? Nhà cậu đấy. Và cây liễu sam to bên trên nữa? Đó là do thần Tám Mộ... Hồi xưa có hai cây liễu sam nên được gọi là cây song sinh, nhưng cuối tháng Ba, một tia sét mùa xuân hiếm thấy đã chẻ đôi một cây tới tận gốc. Thành thử thôn dân lo sợ là sắp có chuyện xui xẻo xảy ra.”

Một cơn rùng mình lại chạy dọc sống lưng tôi. Chúng tôi im lặng đi xuống đèo, chẳng mấy chốc đã thấy đám đông lố nhố tụ tập ở chân núi, trông đều như mới lớp ngóp dưới ruộng lên, tôi bặm môi khi bắt gặp bóng dáng Kichizo lẫn trong đó.

Cả đám đang bàn tán rầm rì, rồi có kẻ phát hiện ra chúng tôi và hô lên, ai nấy im bặt, đồng loạt nhìn về phía này. Những người khi nãy hăm hở nói giờ lại tỏ vẻ ngập ngừng, riêng một kẻ ăn mặc dị hợm bỗng hét lên the thé, “Không được đến đây! Xéo về đi!”

[*] Tường sơn bằng đất trộn với rơm.

Tôi điếng người, Miyako liền nắm chặt cánh tay tôi như động viên, “Không sao. Đi thôi. Ni Chè Đặc đấy mà. Đầu óc hơi trục trặc một tí, nhưng không làm gì đâu.”

Khi lại gần tôi mới nhận ra đó quả là một ni cô, vô cùng xấu xí, trên năm mươi tuổi, môi chẻ ba lật ngược lên, lấp ló hàm răng lởm chởm vàng khè to như răng ngựa. Khi chúng tôi đến gần, bà ta vung vẩy nắm tay, giậm chân và tiếp tục thét lớn, “Không được đến đây! Không được đến đây! Xéo về đi! Xéo về đi! Thần Tám Mộ sẽ nổi cơn thịnh nộ. Mày đến đây thì thôn Tám Mộ sẽ lại nhơ nhuốc vì máu. Thần Tám Mộ cần tám người hiến tế. Mày, mày, tao đã bảo không được đến đây mà... Mày có biết vì sao ông mày chết không? Ông ta là người hiến tế đầu tiên đấy. Sẽ có người thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm... Chẳng mấy chốc sẽ có tám người chết. Mày, mày...”

Ni Chè Đặc vừa la hét vừa lẵng những theo chúng tôi băng ngang thôn, cắt qua khe núi đến tận cổng nhà Tajimi. Nối gót bà ta là các thôn dân với bộ mặt vô hồn như loạn trí.

Đây là màn chào đón đầu tiên dành cho tôi ở thôn Tám Mộ.

“Cậu cứ mặc kệ họ. Người nhà quê chỉ giỏi to mồm chứ chẳng có gan làm gì đâu. Cậu mà e ngại thì họ sẽ được đằng chân lân đằng đầu đấy. Mạnh mẽ vào!”

Ban nãy có Miyako đi cùng, tôi mới cố gồng để giữ thể diện, chứ đi một mình thì chưa biết ra sao, có khi lại nổi cơn mê sảng rồi lồng lên bỏ chạy ấy chứ. Thật ra khi đến cổng nhà Tajimi, người tôi đã đẫm mồ hôi.

“Ni Chè Đặc là ai? Sao cứ dai dẳng bám theo tôi thế?”

“Bà ta là một trong các nạn nhân của vụ thảm sát năm đó. Chồng và con bị giết... bà ta xuất gia, sống trong am ở khu Chè Đặc. Sau khi tận mắt chứng kiến một trong hai cây liễu sam song sinh bị sét chẻ đôi, đầu óc mới thành ra trục trặc.”

“Chè Đặc là địa danh ạ?”

“Đúng. Hồi xưa ở khu này có một nhà tu nữ, hễ có khách thì nữ tu sẽ pha chè đặc đem mời. Bàn dân bèn gọi họ là nữ tu Chè Đặc, không biết từ khi nào nó thành địa danh luôn. Ni cô khi nãy thật ra tên là Myoren [*] , nhưng chẳng ai gọi bằng cái tên thần bí như thế cả. Thiên hạ hay gọi là ‘ni Chè Đặc’, ‘bà lão Chè Đặc’... Bà ta hơi dở người, cậu đừng để ý thì hơn.”

Tuy nhiên, lời lẽ của ni Chè Đặc lại na ná từ ngữ trong lá thư cảnh cáo ghê rợn mà tôi nhận được. Bà ta điên khùng, có lẽ sẽ không viết được lá thư như thế. Phải chăng người viết bắt chước giọng điệu bà ta và ráp lại thành thư? Dù sao thì tôi cũng quyết định sẽ nhớ kĩ chuyện này.

Tạm gác ni Chè Đặc sang bên, đây là lần đầu tôi trông thấy ngôi nhà thân sinh, bề thế hơn tôi tưởng nhiều. Nó toát ra sức nặng và vững vàng như một tảng đá khổng lồ. Bao quanh cơ ngơi là tường đất, trong khuôn viên dày đặc những cây liễu sam cao chọc trời. Chúng tôi bước qua cổng, sắp tiến tới tiền sảnh rộng rãi thì một cô gái trông như người giúp việc ló ra từ cửa gỗ bên hông nhà.

[*] Diệu Liên. Hoa sen bí ẩn.

“A, mợ chủ Tây gia. Ngoài cổng sao ồn thế ạ?”

“Không sao đâu, mặc kệ đi! Shima này, em vào báo là Miyako đã dẫn cậu Tatsuya về rồi nhé.”

“Cậu chủ Tatsuya...” Shima mở to mắt nhìn tôi, mặt ửng hồng, rồi chạy bước nhỏ và mất hút vào trong cửa gỗ. “Nào, mời cậu đi lối này.”

“Vâng.” Tôi bước vào tiền sảnh, không khí yên ắng lạnh lẽo của ngôi nhà cổ ngấm ngay vào người. Tim tôi đập dồn do căng thẳng.

Đợi một lát thì cô giúp việc khi nãy xuất hiện, theo sau là một phụ nữ khoảng băm lăm băm sáu tuổi, tóc xơ xác và mặt trắng bệch, không chút sinh khí.

“Ôi, chào mợ Tây gia. Nào, xin mời, xin mời.”

Cách nói chuyện hình như là đặc trưng của phụ nữ vùng này, âm thanh cao và hơi gắn. Giọng không mấy ấm áp, động tác cũng chậm chạp, không hẳn là vì thiếu nhiệt tình mà có vẻ là do thể trạng. Chẳng biết có phải tại tim yếu hay không, nhưng mặt chị xanh xao phù nề, ánh mắt cũng vô hồn.

“A, chị Haruyo, tôi dẫn cậu Tatsuya về đây. Mọi người đợi lâu rồi nhỉ. Cậu Tatsuya, đây là Haruyo, chị của cậu.”

Miyako có vẻ rất thân với gia đình này, giới thiệu dứt đã tháo giày bước lên nhà. Hai chúng tôi, người trên kẻ dưới, im lặng cúi chào nhau. Haruyo xem chừng khá dè dặt, ngay lập tức nhìn đi nơi khác.

Đây là lần gặp đầu tiên giữa tôi và người chị cùng cha khác mẹ, ấn tượng không đến nỗi tệ. Haruyo không phải là mỹ nhân, nhan sắc thuộc loại trung bình thôi. Dẫu vậy, là cô chiêu nhà phú hộ, chị có cung cách ôn hòa dễ chịu, khiến tôi giảm bớt căng thẳng, thậm chí nhẹ nhõm như cởi bỏ được gánh nặng trong lòng.

“Chị Haruyo, ấn tượng về em trai thế nào?”

“À, rất ra dáng người lớn..”

Haruyo thoáng nhìn tôi, má bỗng ửng hồng như thiếu nữ rồi cúi đầu cười tủm tỉm. Phản ứng cho thấy chị có ấn tượng tốt về tôi, và điều đó khiến tôi dễ chịu.

“Nào, hai bà đang đợi chúng ta đấy.”

Chúng tôi theo chị đi dọc một hành lang dài. Nhìn bên ngoài đã thấy nhà cao cửa rộng rồi, nhưng vào trong mới càng thấm thía sự mênh mang của nó. Đi hết hành lang dài gần 30 mét, tôi có ảo giác mình đang ở trong một ngôi chùa hay dinh thự nào đó.

“Chị Haruyo, hai bà đang ở nhà ngang à?”

“Vâng, hôm nay đón Tatsuya nên hai bà chọn nơi đó...”

Đến cuối hành lang, chúng tôi bước lên ba bậc thềm và tới một phòng kiểu Nhật gồm hai gian, rộng lần lượt 16 và 20 m 2 . Sau này tôi mới biết rằng vào thời Mạc phủ [*] , nhà Tajimi đã từng đón tiếp lãnh chúa, nên mới xây nhà ngang này.

Koume và Kotake, hai người đứng đầu nhà Tajimi đang ngồi ngay ngắn bên gian 16 m 2 , ngoài thường phục là haori có hình gia huy, trông như thể vừa khoác vội vào.

Nhìn thấy hai bà từ hành lang, tôi đã có cảm giác kì dị. Nghe bảo có hai kiểu sinh đôi: cùng trứng và khác trứng. Hai bà của tôi giống nhau rõ rệt, hẳn là sinh đôi cùng trứng. Tuổi chắc đã ngoài tám mươi, tóc bạc trắng búi tròn sau gáy, lưng còng thành vòng cung, khuôn mặt và vóc dáng nhỏ đến mức tưởng gói gọn vào lòng bàn tay được, trông như hai con khỉ đang ngồi. “Trông như khỉ” ở đây là nói về kích thước cơ thể, chứ không có ý nói hai bà xấu, thậm chí gương mặt hai bà còn đọng lại những đường nét cho thấy sắc đẹp thời thanh xuân. Thần thái đường bệ, cách chúm môi lại như miệng túi dây rút để che đi hàm răng đã mất cũng rất tao nhã.

Nhưng nói gì thì nói, trông hai bà giống nhau như đúc vẫn thấy rùng mình. Sinh đôi không phải hiện tượng hiếm gặp ở thế hệ trẻ, không có gì mới mẻ cả. Tuy nhiên, một cặp song sinh đã trên tám mươi lại còn giống hệt thế này, thay vì khơi gợi cảm giác hiếm lạ thì lại có phần khiến người ta sờ sợ. Giống nhau khi sinh đã đành, nhưng những nét về sau mới xuất hiện như nếp nhăn, đồi mồi cũng y hệt, khiến người ta không khỏi nghĩ rằng một người cười thì các cơ trên mặt người còn lại cũng giãn ra như thế.

[*] (1192-1867), thời kì thực quyền nằm trong tay tướng quân (tổng tư lệnh quân đội), còn thiên hoàng chỉ làm bù nhìn.

“Thưa hai bà,” Haruyo quỳ xuống ngoài cửa. “Mợ Miyako bên Tây gia đã dẫn Tatsuya về rồi ạ.”

Đây có lẽ là nề nếp gia đình. Thái độ của Haruyo với hai bà kính cẩn đến mức thiếu tự nhiên. Tôi cũng quỳ xuống chào ngay tại hành lang, Miyako thì chỉ đứng cười toe toét.

“Thế à, cháu vất vả rồi.” Một trong hai bà lưng cong vòng cất tiếng, miệng đóng kín như túi dây rút. Bấy giờ tôi vẫn chưa phân biệt được ai là ai, sau này mới biết đó là bà Koume.

“Nào, vào đây. Miyako, cực thân cháu rồi.” Bà Kotake tiếp lời mà không mở miệng.

“Không đâu ạ, chúng cháu về trễ nên đã để hai bà đợi lâu.” Miyako chẳng màng đến nề nếp, vào đến phòng là ngồi phịch xuống, hai chân xếp sang một bên. “Tatsuya, vào đây đi. Hai bà của cậu đấy. Bên này là bà Koume, bên kia là bà Kotake.”

“Miyako, cháu nhầm rồi. Tôi là Kotake, kia mới là Koume.” Một bà nhẹ nhàng đính chính.

“A, cháu xin lỗi. Lúc nào cháu cũng nhầm nhỉ. Thưa hai bà, đây là cậu Tatsuya mà mọi người đã đợi từ lâu.”

Tôi ngồi trước mặt hai bà, im lặng cúi chào. “ A... đây là Tatsuya đấy Kotake.”

“Vâng thưa chị, đúng là cháu nó rồi.”

“Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Giống Tsuruko như đúc.”

“Thật thế. Mắt miệng giống hệt Tsuruko khi đó. Tatsuya, mừng cháu về nhà.”

Tôi im lặng cúi chào đáp lại.

“Gian phòng này là nơi cháu sinh ra. Từ bấy đến nay đã hai mươi sáu năm trôi qua, nhưng mọi thứ vẫn được giữ nguyên như ngày đó. Cửa kéo, bình phong, tranh cuộn treo tường, cả vách ngăn [*] trên kia nữa... nhỉ, Kotake.”

“Đúng thế, hai mươi mấy năm nghe thì dài, nhưng trôi đi nhanh thật.” Tháng năm dâu bể như thấp thoáng qua mắt hai bà.

Miyako cất tiếng, “Thưa hai bà, cậu Tatsuya...”

“À đúng rồi, Tatsuya. Anh cháu đang dưỡng bệnh, ngày mai hai đứa gặp nhau nhé. Nó cũng không sống được bao lâu nữa.”

“Đã tệ đến thế rồi ạ?”

“Kuno Tsune cứ bảo không sao, nhưng cái tay lang băm ấy thì biết gì. Chẳng rõ có qua được mùa hè này không.”

“Anh bị bệnh gì ạ?” Đây là lần đầu tôi mở miệng.

“Anh cháu bị lao. Haruyo thì bị thận, không sinh con được nên nhà chồng trả về. Thành ra là Tatsuya, cháu phải ráng giữ gìn sức khỏe. Cháu mà không vững vàng, nhà ta sẽ suy vong mất.”

[*] Ranma. Phần vách bằng gỗ gần trần nhà, ngăn giữa các phòng với nhau, dùng để đón sáng và thông khí cho phòng. Ở các gia đình giàu có, vách ngăn này thường được chạm khắc hoa văn tinh xảo.

“Ổn rồi chị Koume à. Cháu nó lớn khôn thế kia, mình không phải lo chuyện người thừa kế nữa. Tiếc thay cho những kẻ mơ tưởng đến vị trí này, hô hô hô.”

“Ừ, Kotake nói đúng lắm. Cuối cùng chị cũng an tâm rồi. Hô hô hô.”

Hai bà bật cười. Tiếng cười vang vọng trong gian phòng kiểu truyền thống giữa bóng chiều chạng vạng, tôi nghe mà gai người, sống lưng lạnh toát khi nhận ra nét điềm đạm trong giọng họ nãy giờ đột ngột thay đổi, bộc lộ rõ tà khí và sự nham hiểm.

Thế là tôi đã đặt chân vào ngôi nhà thân sinh, dấn thân vào truyền thuyết cổ xưa cùng những kí ức chân thực gắn liền với một thảm kịch ở vùng núi hẻo lánh này.

Đêm đó, tôi không ngủ được.

Vốn nhạy cảm với những thay đổi nhỏ, tôi vật vã mãi vì lạ giường. Cơ thể rã rời vì chuyến đi dài, nhưng đầu óc thì tỉnh như sáo.

Nghĩ cũng phải. Với một kẻ hôm qua còn nằm co ro trong xó phòng 7 m 2 nhỏ xíu lỉnh kỉnh tủ kệ với hành lý ở nhà bạn, gian phòng 20 m 2 này quá rộng rãi. Rộng mà khiến tôi chẳng biết nằm sao cho vừa, trằn trọc trở mình mãi trong chăn. Càng muốn ngủ thì đầu óc càng tỉnh táo như trêu tức, và trong tâm trí tỉnh táo ấy, các sự việc trong ngày chạy quanh chạy quẩn như đèn kéo quân.

Phút chia tay ở ga Sannomiya, Miyako xinh đẹp trong trang phục đi đường, cuộc gặp với thương lái Kichizo trên xe buýt, ni Chè Đặc xấu xí cùng thôn dân, bà Koume và Kotake giống hai con khỉ... Các bóng hình và cảnh tượng thoắt ẩn thoắt hiện trong đầu tôi chẳng theo một trật tự nào. Và hình ảnh cuối cùng trong chuỗi sự kiện này là câu chuyện kì lạ chị tôi kể.

Do đã lớn tuổi, hai bà gặp mặt chào hỏi xong là rút về phòng luôn. Tôi đi tắm, khi quay ra thì Haruyo cùng cô giúp việc Shima bưng hai mâm cơm đến.

“Từ mai em sẽ ăn ở bên kia, hôm nay em còn là khách nên dùng bữa ở đây chung với mợ nhà Tây gia nhé.”

“A, tôi cũng được ăn cơm à?”

“Vâng, mời mợ. Nhà chẳng có gì đãi khách nhưng cũng đến giờ cơm rồi... Lát nữa muộn sẽ cho người đưa mợ về.”

“Ồ, vậy tôi không khách sáo nữa.”

Thế là tôi ăn tối cùng Miyako, thầm cảm kích vì được ở cạnh cô lâu hơn một chút. Sau bữa tối, Miyako không về ngay mà nán lại chuyện phiếm với Haruyo và tôi. Tất nhiên cô là người hoạt ngôn nhất, vui vẻ nói những chuyện vô thưởng vô phạt. Nhờ đó, tinh thần hay sa sút của tôi được vực dậy, đồng thời làm dịu sự tiếp xúc có phần cứng nhắc giữa tôi và Haruyo. Cuối cùng, dù rất khôn khéo, Miyako cũng hết chuyện để nói và rơi vào trầm tư. Tôi bâng quơ nhìn khắp phòng, đoán chừng cuộc trò chuyện sắp kết thúc rồi.

Tuy không nhớ rõ khi nãy là bà nào nói, nhưng những lời miêu tả vẫn đọng lại rõ rệt trong tôi.

“Gian phòng này là nơi cháu sinh ra. Từ bấy đến nay đã hai mươi sáu năm trôi qua, nhưng mọi thứ vẫn được giữ gìn nguyên vẹn. Cửa kéo, bình phong, tranh cuộn treo tường, cả vách ngăn trên kia nữa...” Tức là bấy giờ, người mẹ tội nghiệp của tôi đã ngắm nhìn những vật dụng này mỗi ngày. Lòng bỗng dâng trào một hoài niệm đau đớn, bất giác tôi chú ý nhìn kĩ từng món một.

Ở hốc tường [*] có treo một bức Bách Y Quan Âm. Nghĩ đến tình cảnh đáng thương và khổ sở của mẹ hồi đó, tôi cảm nhận được mẹ đã cầu nguyện đức Quan Âm với tất cả lòng nhiệt thành như thế nào. Mẹ tôi là một tín đồ của Phật Quan Âm, hốc tường luôn đặt tượng nhỏ, sáng tối đều cầu nguyện không lỡ bữa nào.

Nhìn sang chái kệ [*] , trên tường có treo hai mặt nạ kịch Noh, một là mặt nạ nữ quỷ gớm ghiếc, một là mặt nạ tinh tinh [*] , cứ như quỷ và Phật cùng cư ngụ trong gian phòng này vậy. Chẳng biết có phải vì thế hay không mà ở vách ngăn bên trên có khắc bốn chữ “Tay quỷ tâm Phật”. Trên cửa kéo có vẽ một bức tranh sơn thủy kết hợp phong cách tranh thời Hán và Yamato-e [*] . Bức tranh khá cũ và đã ngả màu.

[*] Toko no ma. Nơi trang trọng nhất trong phòng truyền thống Nhật, hơi thụt vào so với tường, sàn bằng gỗ cao hơn một chút so với sàn nhà, thường trang hoàng bằng tranh, kimono, bình hoa nghệ thuật, kiếm...

[*] Tokowaki. Bố trí kế bên góc toko, gồm một kệ cao và một kệ thấp nối với nhau bằng thanh gỗ nhỏ, ở trên cùng là tủ cửa kéo nhỏ, sàn gỗ, trên sàn cũng có tủ cửa kéo nhỏ.

[*] Shojo. Một vai trong kịch Noh, sinh vật giống đười ươi, sống ở biển, uống rượu không bao giờ say.

Ngoài ra, còn một vật dụng nữa thu hút sự chú ý của tôi: bình phong sáu tấm. Mặt trước vẽ hình ba người Trung Quốc thời xưa xúm quanh một cái lu, kích cỡ như người thật.

Tôi đang lơ đãng nhìn bình phong thì Haruyo lên tiếng như sực nhớ ra.

“À, gần đây có một chuyện khá kì lạ liên quan đến bức bình phong này.” Người kiệm lời nhất buổi trò chuyện tự dưng cất tiếng, khiến tôi bất giác nhìn sang.

“Việc gì kì lạ ạ?” Miyako cũng ngồi thẳng dậy.

“À... Nói ra thì buồn cười, nhưng người trong bình phong bước ra ngoài đời thật đấy.”

“Trời!”

Miyako trố mắt nhìn Haruyo. Tôi thì hết nhìn Haruyo lại nhìn bình phong.

“Nội dung bình phong là gì thế ạ? Hình như liên quan đến giai thoại lịch sử?”

“Ừm... Chị không rành lắm.” Mặt Haruyo ửng đỏ. “Bình phong này tên là Tam Toan Đồ [*] . Nghe nói ba người kia là Tô Đông Pha [*] , Hoàng Lỗ Trực [*] và thiền sư Phật Ấn [*] trụ trì chùa Kim Sơn [*] . Một hôm Tô Đông Pha rủ Hoàng Lỗ Trực đến thăm Phật Ấn. Thiền sư rất vui, lấy giấm đào ra đãi khách. Sau khi nếm thử, cả ba cùng nhăn mặt. Tô Đông Pha theo Nho giáo, Hoàng Lỗ Trực theo Đạo giáo, Phật Ấn tất nhiên theo Phật giáo. Cả ba nhăn mặt vì cùng một lý do: giấm đào. Nói cách khác, tuy Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba tôn giáo khác nhau, nhưng đều quy về cùng một điểm... Ấy là chị nghe nói thế.”

[*] Tranh cổ điển Nhật Bản, lấy cảm hứng từ tranh nhà Đường của Trung Quốc, thể thức và phong cách được hoàn thiện vào cuối thời Heian (794-1185).

[*] Bức tranh ba người và gián.

“Hừm... Đúng là cách suy nghĩ của người Trung Quốc thời xưa nhỉ. Nhưng chị bảo người trong tranh bước ra khỏi bình phong là thế nào?” Miyako tỏ ra hứng với chi tiết này hơn mấy giai thoại lịch sử. Tất nhiên là tôi cũng thế.

“Chuyện nghe chừng nhảm nhí, chẳng rõ có phải thật không, nhưng đúng là hơi kì quặc.”

Trước ánh nhìn động viên của chúng tôi, Haruyo tiếp tục kể.

“Nhà ngang bình thường luôn đóng kín, nhưng để tránh ẩm mốc, ba ngày một lần chúng tôi lại mở cửa cho thoáng. Khoảng hai tháng trước, tôi và Shima đến mở cửa thì thấy dấu hiệu rất lạ, giống như có người bên ngoài lẻn vào vậy. Bấy giờ tôi không bận tâm lắm. Hai ba ngày sau tôi đến mở cửa thì không phớt lờ được nữa, đúng là có người lẻn vào thật. Bình phong lệch khỏi vị trí bình thường, cửa kéo của tủ nhỏ ở chái kệ đóng chưa kín... Vậy mà cửa chớp lại không có dấu vết gì đáng ngờ. Cho rằng mình nhầm, nhưng vẫn băn khoăn, nên tôi và Shima đã mở hé cửa tủ nhỏ, đặt bình phong vào chỗ cố định trên mép chiếu. Nếu thực sự có ai lẻn vào và đụng đến tủ nhỏ hoặc bình phong thì chúng tôi sẽ biết ngay. Hôm sau, tôi đến kiểm tra thì thấy.”

[*] Tô Thức (1037-1101), từ nhân, văn hào thời Tống.

[*] Hoàng Đình Kiên (1045-1105), nhà thơ, họa sĩ thời Tống.

[*] Liễu Nguyên (1032-1098), thiền sư, bạn thâm giao với Tô Đông Pha, được biết đến nhiều qua những màn đối đáp dí dỏm mang đậm tinh thần Thiền tông giữa ông và Tô Đông Pha.

[*] Ở tỉnh Giang Tô, Trung Quốc.

“Tủ nhỏ hay bình phong xê dịch à?”

“Không, tất cả vẫn bình thường, nên tôi nghĩ đều là tại mình tưởng tượng thôi. Nhưng hai ba ngày tiếp theo, tôi đến xem thử thì”

“Thế nào? Có chuyện gì xảy ra à?”

“Vâng, bình phong lệch khỏi mép chiếu, còn cửa tủ nhỏ kéo kín lại.”

“Trời!” Miyako và tôi nhìn nhau. “Cửa chớp có dấu vết bị cạy mở không...?”

“Không có. Trước khi mở cửa tôi đã xem kĩ chốt từng cánh, thấy vẫn đóng cẩn thận và không có dấu hiệu bị cạy mở.”

Tôi và Miyako lại nhìn nhau, “Chỉ có thể vào gian nhà này từ sân thôi ạ?”

“Đúng thế, hoặc bằng hành lang dài em đi khi nãy. Cửa thông ra hành lang có ổ khóa hướng về nhà chính. Có hai chìa khóa, chị giữ một cái, hai bà giữ cái còn lại.”

“Liệu có ai trong nhà...”

“Tuyệt đối không có. Anh cả nằm liệt giường, không thể đi lại. Hai bà không lý nào lại làm vậy. Shima thì chắc chắn chẳng có việc gì ở phòng này.”

“Lạ thật.”

“Đúng thế.”

“Vâng, hết sức kì quái. Tôi cũng thấy hơi sợ, nhưng không thể kể bừa với mọi người được. Sau khi suy nghĩ kĩ, tôi quyết định nhờ Heikichi nhóm Núi đến ngủ ở đây.”

Về sau tôi được biết là trong dinh thự rộng lớn này có cất riêng chỗ ăn ở cho người làm, chia ra làm các nhóm “Núi”, “Bò”, “Sông”. Nhóm Núi phụ trách lên núi chặt cây làm than củi. Nhóm Bò, hẳn các bạn cũng đoán được, chịu trách nhiệm chăm sóc bò. Nhóm Sông chất than và gỗ lên thuyền rồi chở đến ga N. Gần đây chỉ cần chở đến ga N thôi, chứ ngày xưa phải đem xuống tận hạ lưu con sông.

“Sau đó thế nào? Có việc gì lạ lùng xảy ra nữa không?”

“À, Heikichi có tật nghiện rượu, nên cậu ta đến đây ngủ với điều kiện sẽ được uống rượu. Hai ba hôm đầu thì không có gì bất thường. Sáng sớm ngày thứ tư, tôi đến xem tình hình thì không thấy Heikichi đâu. Hơn nữa, một cánh cửa chớp mở toang. Quá kinh ngạc, tôi đi tìm Heikichi thì thấy cậu ta đã về ngủ ở phòng mình, trùm chăn kín mít từ đầu đến chân. Tôi gọi dậy hỏi chuyện thì...”

“..?” Chúng tôi im lặng, chăm chú nhìn Haruyo làm chị đột nhiên đỏ mặt.

“Cậu ta bảo... nửa đêm có người trong tranh bước ra.”

“Ôi trời!” Chúng tôi bất giác quay lại nhìn bình phong. “Cả ba người trong tranh này?”

“Không, nghe nói chỉ một người bước ra thôi, là ông sư, không rõ sự thật thế nào. Như tôi vừa nói, Heikichi nghiện rượu, phải có hơi men mới ngủ được, hơn nữa không say bí tỉ là không chịu nổi, vì vậy giải thích nghe không hiểu gì luôn. Đại loại là nửa đêm cậu ta choàng tỉnh thì thấy có ánh sáng mờ ảo từ đâu đó hắt tới. Vì đã tắt đèn trước khi ngủ, cậu ta không khỏi ngạc nhiên nhìn quanh, ai dè bắt gặp bóng người lù lù chỗ bình phong. Cậu ta kinh ngạc hỏi ‘Ai đấy?’, người nọ giật mình quay lại. Heikichi cam đoan đó là sư trong tranh.”

“Thú vị thật. Sau đấy Heikichi làm gì?” Miyako nhoài người tới. Tôi cũng nuốt nước bọt nhìn chằm chằm vào Haruyo.

Chị phì cười, “Đối với Heikichi thì chẳng thú vị chút nào. Người nọ giật mình, vội quay phắt đi, rồi biến mất. À không, ánh sáng mờ ảo vụt tắt, không gian tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì nữa... Nhưng Heikichi cảm thấy có kẻ ráng lách qua rìa nệm của mình. Cậu ta tỉnh rượu, run lập cập một lúc, rồi thu hết can đảm bật đèn. Bình phong vẫn nguyên vẹn ba người, cũng không thấy dấu hiệu nào bất thường. Vì thế Heikichi trấn tĩnh đôi phần, đột nhiên nhớ ra cửa chớp nên đi kiểm tra, thấy chốt cửa vẫn đóng. Cậu ta cũng xem xét cửa ra vào phía hành lang dài, nó vẫn khóa nguyên vẹn từ hướng nhà chính, không hề hấn gì. Vì không có dấu vết ai ra vào phòng nên chỉ có thể là người từ trong tranh bước ra thôi... Heikichi phát hoảng, mở cửa chớp bỏ chạy.”

“Lạ thật.”

“Đúng thế.”

Chúng tôi lại nhìn nhau.

“Vâng, đúng là quái đản. Heikichi còn nói thêm, đêm ấy là lần đầu cậu ta nhìn thấy người trong tranh bước ra, nhưng những đêm trước, khi bừng tỉnh, không hiểu sao đều ngờ ngợ như có người nhìn mình chằm chằm, nên đã nhiều lần rùng mình ớn lạnh. Cậu ta quả quyết chính là người trong tranh nhìn. Heikichi nói này nói nọ về bình phong hẳn là tại tưởng tượng thôi, nhưng đúng là có kẻ thỉnh thoảng lẻn vào nhà ngang đấy. Tôi có chứng cứ đây.”

“Ồ, là cái gì thế?” Dường như điều đó đã khơi dậy trí tò mò của Miyako. Cô nhích người tới trước một chút.

“Nghe Heikichi kể xong, tôi dặn cậu ta tuyệt đối không được nói cho người khác biết, sau đó quay lại đây kiểm tra kĩ lần nữa, và phát hiện một mảnh giấy lạ rơi phía sau bình phong”

“Mảnh giấy lạ...?”

“Tôi cũng không rõ lắm, hình như là bản đồ, vẽ bằng bút lông trên giấy Nhật đã cũ, đôi chỗ ghi chú như kiểu địa danh, nào là ‘Khỉ Ngồi’, nào là ‘Mũi Tengu [*] ’, kế bên có ghi các câu giống như một bài thơ.”

[*] Thiên cẩu. Một sinh vật trong truyền thuyết, thường được mô tả là có mũi dài, mặt đỏ, có cánh và biết bay.

Tôi bất giác “Á!” một tiếng. Miyako dường như cũng bị sốc, liếc nhanh tôi rồi lập tức che giấu ánh mắt bằng cách nhìn chăm chăm xuống chiếu. Phản ứng cho thấy cô đã biết tôi có mảnh giấy tương tự đựng trong túi bùa bình an. Tôi không nhớ là đã đề cập với Miyako về việc này, hẳn là luật sư Suwa cho cô biết thôi, vì ông từng trông thấy rồi.

Chừng như nhận ra thái độ bất thường của chúng tôi, Haruyo nhìn tôi rồi lại nhìn Miyako, “Hai người sao thế? Chẳng lẽ nghĩ ra điều gì về mảnh giấy đó à?”

Vì Miyako đã biết nên tôi không muốn giấu nữa, “Thật ra... em cũng có một mảnh giấy giống thế. Không rõ là thần chú hay gì, nó nằm sẵn trong túi bùa bình an em đeo từ nhỏ. Khác một chỗ là giấy của em không có ‘Khỉ Ngồi’ hay ‘Mũi Tengu...”

Tôi toan lấy giấy cho họ xem, phân vân một lát lại thôi. Hai người cũng không đề nghị, tuy nhiên, chắc Haruyo nhận định rằng mảnh giấy mang ý nghĩa đặc biệt nên nói, “Chà, thật kì lạ. Chị vẫn giữ mảnh giấy, bữa nào chúng ta đối chiếu với nhau nhé.”

Sau đó cả hai người phụ nữ đều chìm vào yên lặng. Haruyo có vẻ hối hận vì sự khinh suất của mình. Ban đầu chỉ định góp vui bằng câu chuyện lạ cỏn con, nhưng lại vô tình phơi bày bí ẩn liên quan đến xuất thân của tôi trước mặt người ngoài. Có lẽ Miyako cũng hiểu được cảm xúc của chị. Không còn thời gian để bàn luận thêm về danh tính bất minh của kẻ xâm nhập nữa, cô vội vàng ra về. Nệm ngủ của tôi nhanh chóng được trải ra ở nhà ngang, tâm điểm của cuộc trò chuyện khi nãy. Chỉ một mình tôi ngủ ở đây, buồn phiền với nhiều ngờ vực và bất an...

Tờ mờ sáng tôi mới ngủ được. Khi mở mắt, ánh nắng chói chang đã xuyên qua khe cửa chớp. Đồng hồ đeo tay bên cạnh nệm chỉ 10 giờ. Tôi giật mình bật dậy.

Lúc ở thành phố, do xung quanh luôn ồn ào nên đêm trước có thức khuya đến mấy tôi cũng chưa bao giờ dậy muộn thế này. Đêm đầu tiên nghỉ tại đây mà ngủ nướng, không biết mọi người đánh giá tôi ra sao nữa. Tôi cuống cuồng rời nệm đi mở cửa chớp. Nghe động, Haruyo từ phía nhà chính đi lại, “Em dậy rồi à? Không sao đâu, cửa đó để Shima mở cho.”

“Chào chị. Em ngủ quên mất.”

"Hôm qua hẳn là em mệt lắm nhỉ. Chị còn kể mấy chuyện kì lạ nữa... Em ngủ ngon không?”

“Vâng…”

“Chắc là không ngon rồi? Mắt đỏ hết lên kìa. Đáng lẽ chị không nên kể mấy chuyện linh tinh. Mà em không chạy qua nhà chính nhỉ?”

Tối qua trước khi ngủ, chị Haruyo nói sẽ không khóa cửa cuối hành lang, dặn tôi có gì bất thường thì chạy về hướng nhà chính. Dù chúng tôi mới gặp nhau chiều qua, cách nói chuyện thong thả và có phần kiêu hãnh của chị đã chứa đựng ít nhiều chân thành. Tôi rất vui vì có cảm giác chị đã mở lòng với mình.

Haruyo dẫn tôi qua nhà chính và đem bữa sáng đến. Vì dậy trễ nên chỉ có mình tôi ngồi ăn.

“Hai bà đâu rồi ạ...?”

“Hai bà có tuổi nên dậy sớm lắm. Đợi em mãi đấy.”

“Em xin lỗi.”

“Không cần xin lỗi từng li từng tí thế đâu... Đây là nhà em mà, em cứ tự nhiên. Dù sao thì bọn chị cũng là người miền quê, có lẽ không chăm sóc em được chu đáo, nhưng em chịu khó sống ở đây lâu dài nhé.”

Không hiểu sao câu nói đó tưới đẫm tâm hồn cô độc của tôi như nước thấm vào đất. Tôi im lặng nhìn chị rồi cúi đầu tỏ ý cảm ơn, thế là mắt chị chợt đỏ hoe, hướng ngay ánh nhìn xuống đầu gối. Trong khi ăn tôi nóng lòng chờ đợi câu chuyện về tấm bản đồ hôm qua, nhưng rốt cuộc chị chẳng đề cập đến. Về phần mình, tôi cũng kiềm chế không nhắc tới. Không việc gì phải vội. Từ giờ trở đi tôi sẽ sống ở đây mà...

Tôi ăn xong, Haruyo ngần ngừ mở lời, “Ừm... Hai bà đang đợi em. Sáng nay hai bà muốn em gặp anh cả.”

“Vâng…” Hôm qua hai bà đã đề cập đến, và tôi cũng chuẩn bị tinh thần rồi.

Haruyo càng ngần ngừ hơn, “Khi gặp anh em nhớ chú ý nhé. Anh không phải người xấu tính, nhưng dù sao cũng đã nằm liệt giường quá lâu nên khá khó chiều... Hơn nữa, hôm nay cậu Satomura Shintaro cũng đến...”

Tự dưng tôi đâm ra hồi hộp.

“Ừ, Shintaro là em họ chúng ta, nhưng không hiểu sao cả hai bà và anh cả đều ghét cậu ấy... Hễ Shintaro đến đây là anh lại cau có bực bội. Hôm nay em về nên nhà mình cho người báo tin, thế là Shintaro cất công sang chơi. Noriko em cậu ấy cũng đi cùng”

Tóm lại, hai bà đang tích cực loan tin tôi đã về. Nếu đơn thuần vì tình cảm với tôi thì thật đáng biết ơn, tiếc rằng còn lẫn dụng ý làm bẽ mặt Shintaro nữa, và việc đó làm lòng tôi nặng trĩu.

“Khách hôm nay chỉ có thế thôi ạ?”

“Không, bác Kuno Tsune cũng đến. Bác ấy là anh họ của cha...”