← Quay lại trang sách

Hồi 3 Lánh nạn anh hùng lâm khổ cảnh-Tìm thù hào kiệt đánh lầm nhau

Nhắc lại tiêu đầu Đồng Triệu Hòa của Trấn Viễn tiêu cục đang hớn hở dẫn đầu một đám hảo thủ của quan phủ và Trương Triệu Trọng, lại thêm bảy tám tên bộ khoái, đi vội đến Thiết Đảm Trang. Lần này hắn có người đỡ sau lưng nên gan mật càng to, cảm thấy mình oai phong lẫm liệt. Đến trước cửa trang hắn hò hét bọn trang đinh: “Mau mau kêu chủ các ngươi ra đây để nghênh tiếp khâm sai.”

Trang đinh thấy bọn này hung hãn, không biết lai lịch thế nào, bèn quay lưng định chạy vào bẩm báo. Trương Triệu Trọng thì nghĩ, danh tiếng của Chu Trọng Anh rất lớn, không thể coi thường nhân vật đầu não này của võ lâm tây bắc được, bèn vội gọi: “Hãy khoan! Phiền ông bạn vào nói chúng ta từ kinh thành đến, có chút việc công, cần thỉnh giáo Chu lão anh hùng.” Nói xong, y nháy mắt với Hồ Quốc Đống. Hồ Quốc Đống hiểu ý gật đầu, dẫn ngay mấy tên bộ khoái đi vòng ra sau trang viện, để đề phòng khâm phạm theo cửa sau chạy trốn.

Mạnh Kiện Hùng nghe trang đinh vào bẩm báo, tin chắc bọn này đến đây để kiếm Văn Thái Lai, bèn bảo Tống Thiện Bằng ra ngoài tiếp chuyện, còn mình lập tức vào phòng của Văn Thái Lai gọi: “Văn gia! Ngoài kia có bọn ưng trảo của triều đình, không biết đến đây làm gì. Đành phải làm phiền ba vị, tạm thời tránh né một chút”. Y đỡ Văn Thái Lai dậy, đi vào một cái đình ở vườn hoa phía sau trang. Mấy tên gia đinh hợp lực khiêng một cái bàn đá lên, để lộ ra một tấm sắt lớn có gắn vòng. Chúng lại ra sức kéo vòng sắt để nâng tấm sắt lên, thì ra bên dưới có những bậc thang dẫn xuống hầm ngầm dưới đất.

Văn Thái Lai giận dữ nói: “Văn mỗ không phải là kẻ tham sống sợ chết, chẳng lẽ chui rúc vào một chỗ thế này để giữ mạng mình? Làm như thế chỉ tổ cho anh hùng thiên hạ chê cười.”

Mạnh Kiện Hùng khuyên: “Văn gia đừng nói thế. Đại trượng phu phải biết lúc cứng lúc mềm, Văn gia đang bị trọng thương thì tạm thời lánh đi một chút, chẳng ai dám coi thường.”

Văn Thái Lai nói: “Hảo ý của Mạnh huynh, Văn mỗ hiểu rồi. Thôi thì bọn ta cáo từ để tránh liên lụy đến Thiết Đảm Trang.”

Mạnh Kiện Hùng đang không ngớt tìm lời khuyên bảo, bỗng nghe ở cửa sau có người lớn tiếng kêu mở cửa, mà ở phía trước cũng đang ồn ào. Thì ra bọn nha môn quyết vào trang, Tống Thiện Bằng cố gắng cản trở mà không được. Bọn Trương Triệu Trọng cũng có kiêng nể oai danh của Chu Trọng Anh nên né chữ “tra xét”, chỉ nói: “Quý trang kiến trúc đẹp đẽ thế này, vùng biên cương thật là hiếm thấy. Xin Tống bằng hữu hướng dẫn tham quan, cho chúng ta được thêm phần kiến thức.”

Văn Thái Lai thấy Thiết Đảm Trang đã bị bao vây, trước sau đều có địch, bèn nổi giận bảo Lạc Băng và Dư Ngư Đồng: “Chúng ta cùng xông ra!”

Lạc Băng vâng dạ, đưa tay dìu cánh tay phải của chồng. Văn Thái Lai dùng tay trái rút soạt đơn đao, đang định chạy ra ngoài thì cảm thấy thân thể Lạc Băng run rẩy. Chàng nhìn thê tử thì thấy mắt nàng đầy lệ, sắc mặt đau khổ, nên lòng dạ bỗng mềm nhũn đi, khẽ thở dài rồi dịu dàng nói: “Thôi thì tránh né đi một chút.”

Mạnh Kiện Hùng cả mừng, đợi cả ba người xuống hầm liền kéo tấm sắt đậy lại đàng hoàng, rồi hợp sức với hai trang đinh khiêng cái bàn đá đè lại lên tấm sắt. Chú bé Chu Anh Kiệt cũng đứng bên giúp sức.

Mạnh Kiện Hùng nhìn kỹ thấy không còn chỗ nào sơ suất, mới bảo trang đinh ra mở cửa sau. Bọn Hồ Quốc Đống tuy gọi cửa, nhưng cửa mở rồi vẫn cứ đứng ngoài không chịu vào trong. Còn bọn Trương Triệu Trọng đã đi vào vườn hoa.

Mạnh Kiện Hùng thấy Đồng Triệu Hòa cũng ở đó, bèn tức giận nói: “Thì ra là một vị quan gia. Lúc nãy ta thất kính mất rồi.”

Đồng Triệu Hòa nói: “Ta xưa nay vẫn là tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục, lão huynh chưa biết hay sao?” Rồi hắn quay đầu lại nói với Trương Triệu Trọng: “Tiểu nhân chính mắt nhìn thấy ba tên khâm phạm trốn vào trang này. Trương đại nhân hạ lệnh lục soát đi.”

Tống Thiện Bằng nghiêm giọng nói: “Chúng tôi đều là lương dân an phận thủ thường. Chu lão trang chủ là người nổi tiếng ở vùng này, gia đình cùng sản nghiệp trong vòng năm trăm dặm không ai không biết. Chúng tôi che giấu phỉ loạn, mưu đồ bất chính để làm gì? Vừa rồi vị quan gia này có ghé thăm, nhưng trong trang lại không biết để tặng chút lộ phí đi đường. Thế cũng có điều không phải, nhưng vì thế mà buông lời hãm hại thì chúng tôi không gánh nổi đâu.” Y biết bọn Văn Thái Lai đã trốn trong hầm nên nói chuyện mạnh dạn hơn.

Mạnh Kiện Hùng thì giả vờ không biết gì, hỏi tại sao Trương Triệu Trọng đến đây, rồi cười ha hả mà nói: “Hồng Hoa Hội là bang hội lớn vùng Giang Nam, tội nợ gì mà đi chín mười ngàn dặm đến vùng biên cương tây bắc này. Chắc vị tiêu đầu này nằm mơ rồi. Các vị đại nhân tin tưởng hắn thật sao?”

Bọn Trương Triệu Trọng đều lão luyện giang hồ, biết rõ Văn Thái Lai nhất định ở trong trang. Nếu chúng khám xét tỉ mỉ trang này, tìm ra thì không sao, nhưng tìm không ra thì Chu Trọng Anh nhất định không chịu bỏ qua. Mặc dù chúng đều là người có công danh, nhưng cũng có đi lại giang hồ. Đắc tội với lão tiền bối như Chu Trọng Anh không phải là chuyện đùa, nên tên nào cũng có phần do dự.

Đồng Triệu Hòa nghĩ bụng: “Hôm nay mà không bắt được ba tên giặc đó, quay về nhất định ta sẽ bị mọi người oán trách. Người ta thường nói, ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ. Ở đây có thằng bé này, may ra thì gạt được nó nói thật.” Hắn bèn làm mặt vui vẻ, kéo tay Chu Anh Kiệt.

Lúc nãy Chu Anh Kiệt đã gặp hắn rồi, biết thằng cha này lén lút nhất quyết không phải người tốt, bèn dùng sức giật tay ra rồi hỏi: “Ông kéo tay ta làm gì?”

Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Tiểu huynh đệ! Nếu ngươi nói với ta ba người khách đến nhà ngươi đang trốn ở đâu, thì ta cho ngươi cái này để mua kẹo ăn.” Hắn nói xong, lấy một thỏi bạc ra đưa cho cậu.

Chu Anh Kiệt bĩu môi, nhăn mặt hỏi: “Ông coi ta là ai? Người ở Chu gia Thiết Đảm Trang đâu có thèm mấy đồng bạc thối tha này?”

Đồng Triệu Hòa hổ thẹn, giận dữ quát tháo: “Vậy thì bây giờ chúng ta phải lục nát cái trang này ra. Sau khi tìm được ba tên đó, bắt cả thằng bé này đi theo một thể.”

Chu Anh Kiệt cười khẩy: “Ngươi mà dám động đến một sợi lông của ta, coi như là hảo hán. Phụ thân ta chỉ cho một quyền là cái đầu của ngươi nát bét ra.”

Trương Triệu Trọng chỉ nhìn mặt cũng hiểu thằng bé này biết chỗ Văn Thái Lai trốn. Y thấy Mạnh Kiện Hùng và Tống Thiện Bằng tinh anh lão luyện, chỉ còn cách điều tra từ nó. Nhưng chú bé này tuổi nhỏ gan lớn, không dọa được mà phải lừa gạt. Y bèn nói: “Hôm nay nhà cháu có bốn vị khách chứ không phải ba vị, có đúng thế không?”

Chu Anh Kiệt không bị mắc lừa, bèn đáp: “Ta không biết.”

Trương Triệu Trọng nói: “Lát nữa chúng ta tìm được ba tên đó, không những ba người bọn chúng mà cả ngươi và mẹ ngươi cũng bị chém đầu.”

Chu Anh Kiệt nhổ một bãi xuống đất, trợn mắt lên nói: “Ta còn không sợ ngươi, chẳng lẽ cha mẹ ta lại sợ ngươi hay sao?”

Đột nhiên Đồng Triệu Hòa nhìn thấy trên cổ tay trái của Chu Anh Kiệt có một xâu chuỗi, hạt nào cùng vừa sáng vừa tròn rất đẹp, chính là quà của Lạc Băng. Hắn làm nghề bảo tiêu, cả đời đã thấy không ít châu báu, có thể gọi là biết người biết của. Hai ngày nay hắn giương mắt lên nhìn Lạc Băng, biết nữ trang quý giá trên người nàng không có món nào là giả, nên bây giờ xác định được ngay.

Đồng Triệu Hòa cả mừng nói: “Ta nhận ra xâu chuỗi trên tay ngươi rồi, đúng là vật của người nữ khách kia. Thế mà ngươi còn nói dối là họ không đến đây. Nhất định là tên tiểu tặc này ăn cắp của người ta rồi.”

Chu Anh Kiệt tức giận nói: “Ta mà đi ăn cắp hay sao? Rõ ràng là vị thẩm thẩm kia đã tặng cho ta.”

Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Thế thì hay lắm. Vị thẩm thẩm đó đang ở đâu?”

Chu Anh Kiệt nói: “Tại sao ta phải nói cho ngươi biết?”

Trương Triệu Trọng nghĩ bụng: “Thằng nhóc này thật là láo toét. Gia gia của nó thường ngày được thiên hạ tâng bốc quá đáng, nên chính nó cũng tự cao tự đại. Để ta nói khích thử xem sao.” Y bèn nói: “Lão Đồng nói nhiều với thằng nhãi này chỉ tốn hơi, nó không biết gì đâu. Chuyện của người lớn ở Thiết Đảm Trang, dĩ nhiên không cho hạng con nít còn bú mẹ biết. Lúc họ đưa ba người khách trốn vào nơi bí mật, nhất định phải đuổi thằng nhóc này đi chỗ khác chơi.”

Quả nhiên Chu Anh Kiệt bực tức cãi lại: “Sao ta lại không biết?”

Mạnh Kiện Hùng thấy Chu Anh Kiệt bị khích, lo lắng vô cùng bèn nói: “Tiểu sư đệ! Chúng ta vào nhà đi, đừng chơi ở vườn hoa này nữa.”

Trương Triệu Trọng thừa cơ nói tiếp: “Đúng rồi. Chú bé này chẳng biết gì, rời khỏi đây nhanh lên, đừng ở đây vướng tay vướng chân. Ngươi chỉ giỏi khoác lác. Nếu ngươi biết ba người khách đó trốn ở chỗ nào thì ngươi là tiểu anh hùng, nếu không thì ngươi chỉ là đồ tiểu khốn, đồ tiểu cẩu.”

Chu Anh Kiệt giận dữ nói: “Dĩ nhiên là ta biết. Ngươi mới là đồ đại khốn, đồ đại cẩu.”

Trương Triệu Trọng nói: “Ta tin chắc là con tiểu cẩu này không biết.”

Chu Anh Kiệt không nhẫn nại được nữa, hét lớn: “Ta biết. Họ ở ngay trong vườn hoa này, ngay trong cái đình này.”

Mạnh Kiện Hùng kinh hãi hét lên: “Tiểu sư đệ nói bậy rồi. Vào nhà nhanh đi.” Chu Anh Kiệt vừa buông lời đã biết là hỏng bét, sợ quá khóc rống lên, co giò chạy ngay vào nhà.

Trương Triệu Trọng nhìn thấy xung quanh ngôi đình này chỉ toàn là lan can sơn đỏ, trống trơn chẳng có chỗ nào để giấu. Y nhảy lên nóc đình, nhìn tứ phía cũng không thấy bóng người, lúc nhảy xuống thì im lặng không nói gì. Đột nhiên y động tâm, mỉm cười nói với Mạnh Kiện Hùng: “Mạnh gia, võ nghệ của ta thô thiển lắm, chỉ được cái khí lực hơn người. Xin thỉnh giáo Mạnh gia một chút.”

Mạnh Kiện Hùng thấy y không tìm ra nơi giấu thì cũng yên tâm đôi chút, cho rằng y không bắt được người nên nổi giận, trở mặt muốn động thủ với mình. Tuy đối phương người đông thế mạnh, nhưng mình cũng không thể tỏ ra yếu kém, bèn nói: “Không dám! Quyền cước hay binh khí, ông cứ nói một câu. Ta cũng liều cái mạng này thử sức với ông một phen.”

Trương Triệu Trọng cười ha hả nói: “Tứ hải giai huynh đệ, hà tất phải động binh đao quyền cước để tổn thương hòa khí. Chúng ta mượn bàn đá này mà tỉ thí. Ta nâng trước, rồi mời Mạnh gia thử sau. Nếu ta nâng không nổi, xin Mạnh gia đừng có chê cười.”

Mạnh Kiện Hùng ngẩn người kinh hãi, không nghĩ ra cách nào từ chối hay cản trở, chỉ biết ấp úng: “Không… không… cách này không hay lắm…”

Bọn Thoại Đại Lâm, Thành Hoàng thấy Trương Triệu Trọng đột nhiên muốn thử sức với Mạnh Kiện Hùng, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ. Nhưng họ Trương đã vén tay áo lên, tay phải mắm lấy chân cái bàn đá, quát lên một tiếng. Y chỉ dùng một tay mà nâng nổi cái bàn đá nặng hơn ba trăm cân, mọi người đều mở miệng tán dương: “Khí lực Trương đại nhân thật kinh người.”

Tiếng hoan hô chưa dứt, đã đổi sang tiếng la kinh ngạc. Bàn đá vừa được giở lên, phía dưới đã hiện ra tấm sắt.

Văn Thái Lai trốn dưới hầm, biết trên đầu có nhiều người đi qua đi lại mãi không chịu rời khỏi, nhưng không nghe được họ nói gì với nhau. Chàng đang nảy dạ hoài nghi thì đột nhiên nghe mấy tiếng lách cách, rồi ánh sáng chói chang chiếu xuống. Tấm sắt đậy nắp hầm đã được mở ra.

Bọn quan sai nhìn thấy ba người Văn Thái Lai đang trốn trong hầm, nhưng chưa dám xuống ngay. Chúng muốn bắt sống nên cũng không phóng ám khí, chỉ cầm vũ khí đứng trên miệng hầm, lớn tiếng la hét.

Văn Thái Lai khẽ nói với Lạc Băng: “Chúng ta đã bị Thiết Đảm Trang bán đứt rồi. Đã là phu thê, muội phải đồng ý với ta một việc này.”

Lạc Băng đáp: “Đại ca nói đi.”

Văn Thái Lai nói: “Lát nữa ta bảo muội làm gì, muội nhất định phải nghe lời.” Lạc Băng vừa rơi lệ vừa gật đầu.

Văn Thái Lai bèn quát lớn: “Văn Thái Lai ở đây! Các ngươi đứng đó la hét gì thế?” Mọi người nghe chàng quát đều khiếp oai, chẳng ai lên tiếng trả lời. Văn Thái Lai nói tiếp: “Chân của ta bị thương rồi, các ngươi thả dây xuống kéo ta lên.”

Trương Triệu Trọng quay lại định bảo Mạnh Kiện Hùng tìm dây, nhưng không biết họ Mạnh đã biến đâu mất. Y bèn ra lệnh cho bọn trang đinh đi lấy dây.

Thành Hoàng cầm sợi dây, thòng một đầu xuống hầm để kéo Văn Thái Lai lên. Văn Thái Lai chân vừa chấm đất đã vung tay trái giật mạnh một cái, sợi dây tuột khỏi tay Thành Hoàng. Văn Thái Lai hét một tiếng như sấm động lưng trời, cổ tay hất một cái, sợi dây duỗi thẳng ra. Chàng dùng sợi dây làm nhuyễn tiên, lập tức xuất chiêu Phản Thiết Cà Sa, thân hình xoay tít, thân lộng gió xoáy theo, thế công thật khó mà tránh né.

Võ lâm có câu nói: Luyện trường bất luyện đoản, luyện ngạnh bất luyện nhuyễn. Lại có câu: Nhất đao, nhị thương, tam phủ, tứ xoa, ngũ câu, lục tiên, thất trảo, bát kiếm. Theo đó thì muốn luyện được căn bản về đao pháp chỉ cần một năm, nhưng luyện roi phải mất sáu năm. Đó là roi cứng như đơn tiên hay song tiên, còn nhuyễn tiên và phi trảo là loại binh khí mềm dẻo còn khó luyện thành hơn.

Văn Thái Lai đã luyện võ tới mức một thứ thông thì vạn thứ cũng thông, môn nào cũng giỏi. Chàng vận kình lực vào sợi dây, quét ngang tầm đầu mọi người đứng quanh, thế roi rất gấp. Cả bọn đều bất ngờ không kịp chống đỡ, chỉ biết vội vàng cúi đầu tránh né.

Đồng Triệu Hòa từng nếm đòn của Văn Thái Lai, khi thấy chàng lên đã sớm né ra sau lưng người khác, càng lúc càng lẻn ra xa. Nào ngờ vì hắn lùn quá nên trốn càng xa càng bị thiệt thòi. Khi mọi người đứng trước cúi rạp xuống hết, hắn mới nhìn thấy sợi dây quất tới, muốn tránh né cũng không kịp nữa. Hắn vội vàng quay người lại, nhưng đã bị sợi dây cứng như côn sắt đập “bình” một tiếng vào lưng, lập tức té nhào xuống đất.

Thị vệ Thoại Đại Lâm và chưởng môn Ngôn Bá Càn của phái Ngôn Gia Quyền ở Hà Nam, một người cầm đao, một người cầm đôi thiết hoàn, chia hai đường tả hữu tấn công tới.

Lúc này Dư Ngư Đồng đã đề khí, điểm chân vào bậc đá mà vọt người lên, tay vung kim địch đánh tới tổng binh Thành Hoàng. Thành Hoàng sử một cây tề mi côn. Côn dài sáo ngắn, nhưng hắn lại bị Dư Ngư Đồng ép lùi liên tiếp.

Lạc Băng thì phải dùng trường đao làm gậy, chống vào những bậc thang mà lên từng bước một. Sắp lên gần đến nơi thì nàng thấy gần cửa hầm có một hán tử khôi vĩ chống nạnh đứng đó, bèn phóng cho một mũi phi đao. Người kia không thèm tránh né, đợi con phi đao đến cách mũi chừng một tấc mới đưa ba ngón tay ra chụp lại. Lạc Băng thấy người này thảnh thơi đứng đó, tựa như coi phi đao của nàng không phải là vũ khí, bèn hít một hơi múa tít song đao, định mở đường chạy đến chỗ chồng.

Người chặn đường nàng chính là Trương Triệu Trọng. Y hơi chau mày, không muốn rút kiếm ra đấu với nữ nhân, bèn dùng ngọn phi đao dài năm tấc của Lạc Băng làm trủy thủ, tấn công nàng mấy chiêu liên tiếp. Lạc Băng bước đi không vững, may mà song đao đã được gia truyền trọn vẹn, đủ phong tỏa kín thân mình.

Đánh chừng bốn năm hiệp, Trương Triệu Trọng vung tay trái lên tấn công vào bên phải Lạc Băng, quét vẹt song đao của nàng qua một bên, rồi vận sức đẩy ra. Lạc Băng đứng không vững, rơi xuống hầm trở lại.

Văn Thái Lai phải một mình đánh với hai hảo thủ. Vết thương của chàng đang rất đau, thần trí cũng hơi mơ hồ, chỉ biết múa tít sợi dây, quét ra loạn xạ.

Dư Ngư Đồng thi triển kim địch lại chiếm được thượng phong. Trương Triệu Trọng thấy chàng sử kim địch có xen vào mấy chiêu Nhu Vân kiếm pháp, mà thủ pháp dùng sáo điểm huyệt cũng chính là chân truyền của bổn môn. Y thấy kinh ngạc, muốn bước lên hỏi thử. Nào ngờ Dư Ngư Đồng lại ra chiêu Bạch Vân Thương Cẩu, đợi Thành Hoàng đảo người tránh né là nhảy xuống hầm. Thì ra chàng thấy Lạc Băng rơi xuống, không biết nàng có bị thương hay không, bèn nhảy vào cứu ứng.

Dư Ngư Đồng thấy Lạc Băng đã đứng dậy được, bèn hỏi: “Tứ tẩu có bị thương không?”

Lạc Băng đáp: “Không can gì. Đệ mau mau ra giúp tứ ca đi.”

Dư Ngư Đồng nói: “Để đệ dìu tỉ lên.”

Thành Hoàng xách cây côn đồng đứng trên miệng hầm ngăn trở. Thế từ trên đập xuống rất mạnh, nên hắn cản được hai người đi lên. Văn Thái Lai thấy vợ mình khó mà chạy thoát, còn chính mình cũng không còn gượng nổi, nên bước đi loạng choạng rồi ngã thẳng vào sau lưng Thành Hoàng, tiện tay điểm vào hông hắn. Thành Hoàng lập tức bủn rủn tay chân, bị Văn Thái Lai ôm ngang hông. Chàng quát lên một tiếng rồi buông mình rơi xuống, hai người lọt vào trong hầm.

Thành Hoàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, không sao nhúc nhích được. Lúc rơi xuống hầm, Văn Thái Lai nằm đè lên người hắn, nhưng chàng cũng không bò dậy nổi. Lạc Băng vội vã đỡ chồng dậy. Mặt chàng không còn chút huyết sắc, mồ hôi tuôn đầy đầu, nhưng vẫn gượng cười với vợ. Bỗng chàng hộc lên một tiếng, phun ra một ngụm máu lên áo Lạc Băng.

Dư Ngư Đồng đã hiểu ý định của Văn Thái Lai, bèn lớn tiếng nói: “Xin nhường đường một chút!”

Trương Triệu Trọng thấy Dư Ngư Đồng là hậu bối phái Võ Đang, cũng thấy Văn Thái Lai đã bị trọng thương. Y tự trọng không muốn tấn công, nên đẩy Lạc Băng rơi xuống hầm rồi không ra tay tiếp. Nào ngờ chỉ trong khoảnh khắc, Thành Hoàng đã lọt vào tay địch. Tình hình lúc này ném chuột sợ bể đồ, y nghe Dư Ngư Đồng nói vậy, đành vẫy tay bảo mọi người đứng né ra hai bên, chừa đường đi ở giữa.

Dĩ nhiên người đầu tiên lên khỏi hầm là Thành Hoàng. Lạc Băng nắm cổ áo hắn, chĩa mũi đoản đao thẳng vào lưng. Người đi thứ ba là Dư Ngư Đồng, tay trái thì đỡ lưng Lạc Băng, tay phải thì ôm lấy Văn Thái Lai. Cả bốn người đều phải cố gắng mới lên được.

Lạc Băng hét lớn: “Ai dám nhúc nhích thì tên này mất mạng!” Bốn người đi giữa hai hàng binh khí, từ từ tiến tới cửa sau vườn. Lạc Băng nhìn thấy ba con ngựa đang buộc cạnh cây dương liễu, trong lòng mừng rỡ, âm thầm cảm ơn trời đất. Ba con ngựa này là của Hồ Quốc Đống cưỡi đến để chặn cửa sau.

Trương Triệu Trọng nhìn thấy khâm phạm sắp trốn thoát, bèn nghĩ bụng: “Tên Thành Hoàng vô dụng có sống hay chết cũng không liên can gì đến ta. Bắt Văn Thái Lai đưa về Bắc Kinh mới là việc chính, mới là đại công.” Y bèn nhặt lấy sợi dây của Văn Thái Lai đang rơi dưới đất, vận nội lực vung ra. Nghe vèo một tiếng, sợi dây đã quấn chặt lấy Văn Thái Lai đi sau cùng.

Trương Triệu Trọng giật mạnh một cái, kéo được Văn Thái Lai rời khỏi tay Dư Ngư Đồng. Lạc Băng nghe chồng la lên lập tức phân tâm, bỏ mặc Thành Hoàng mà quay lại cứu chồng, nhưng chân nàng đang bị thương nên chỉ bước được hai bước đã té nhào xuống đất.

Văn Thái Lai kêu lớn: “Chạy đi mau lên.”

Lạc Băng đáp ngay: “Muội quyết cùng sống chết với huynh.”

Văn Thái Lai giận dữ nói: “Vừa rồi muội đã đồng ý nghe lời ta mà…” Chàng chưa nói dứt câu đã bị bọn Thoại Đại Lâm nhảy lên đè chặt.

Dư Ngư Đồng bay tới ôm lấy Lạc Băng, chạy thẳng qua khu vườn. Một tên bộ khoái cầm thiết xích chạy ra cản đường, Dư Ngư Đồng phóng cước đá cho một phát vào ngực, hất hắn văng ra năm sáu bước.

Lạc Băng thấy chồng bị bắt, hoàn toàn không tự chủ được nữa, cũng không biết mình đang ở đâu. Dư Ngư Đồng vội chạy đến bên cây liễu, đặt nàng lên ngựa rồi kêu lớn: “Phóng phi đao nhanh lên.”

Lúc này Ngôn Bá Càn và hai tên bộ khoái đã rượt tới cửa vườn. Ba mũi phi đao của Lạc Băng phóng ra như nỏ liên châu, một tiếng kêu thê thảm vang lên, một tên bộ khoái đã trúng đao vào vai. Ngôn Bá Càn giật mình dừng bước.

Dư Ngư Đồng tháo xong dây cương của ba con ngựa, bèn nhảy lên lưng một con, quay đầu con ngựa thứ ba lại phía cửa vườn, dùng kim địch quất mạnh lên mông nó một cái. Con ngựa bị đau, lồng lên xông thẳng tới bọn Ngôn Bá Càn, cản trở bọn người truy đuổi ở chỗ cửa vườn hoa.

Trong lúc hỗn loạn, hai con ngựa của Dư Ngư Đồng và Lạc Băng đã chạy xa rồi. Bọn Trương Triệu Trọng bắt được yếu phạm Văn Thái Lai, đang mừng rỡ nên không muốn truy đuổi tiếp.

Lạc Băng nằm mọp trên lưng ngựa, hồn xiêu phách tán. Mấy lần nàng muốn quay đầu ngựa chạy về Thiết Đảm Trang, nhưng đều bị Dư Ngư Đồng quất roi cho ngựa chạy về phía trước. Chạy được sáu bảy dặm, quay lại không thấy ai đuổi theo, Dư Ngư Đồng mới không thúc ngựa chạy gấp nữa.

Đi khoảng ba bốn dặm nữa, thì phía trước có bốn con ngựa tiến đến. Người đi đầu là một lão già tóc đã bạc phơ, chính là Thiết đảm Chu Trọng Anh. Vừa thấy Dư Ngư Đồng và Lạc Băng, ông đã kinh ngạc kêu lên: “Quí khách! Xin dừng bước, ta đã mời đại phu đến đây rồi.”

Lạc Băng đang cơn hận, bắn về phía ông một mũi phi đao. Chu Trọng Anh đột nhiên thấy phi đao bay tới phải giật mình, vì không phòng bị nên không kịp chống đỡ, chỉ vội cúi người mọp xuống lưng ngựa, phi đao bay sạt trên lưng. Đệ tử An Kiện Cương đi phía sau gấp rút vung đao lên gạt, phi đao bay xéo ra, cắp phập vào một cành liễu bên đường. Ánh chiều đỏ ngầu như máu, soi lên lưỡi đao phát ra những tia sáng nhấp nháy.

Chu Trọng Anh đang muốn hỏi, Lạc Băng đã lớn tiếng chửi mắng: “Tên lão tặc này lòng lang dạ sói, mua danh cầu phúc! Các ngươi hại chết chồng của ta, ta quyết thí mạng với ngươi.” Nàng vừa la vừa khóc, hay tay cầm song đao giục ngựa lên phía trước.

Chu Trọng Anh bị mắng mà không hiểu gì cả, đứng ngẩn ra nhìn. An Kiện Nhân thì thấy nữ nhân này nặng lời thóa mạ sư phụ của mình, không nhịn nổi bèn vung đơn đao bước lên đón đánh. Nhưng Chu Trọng Anh đưa tay cản lại rồi bảo: “Có chuyện gì hãy nói trước đã.”

Dư Ngư Đồng cũng khuyên giải: “Cứu người là quan trọng. Chúng ta tìm cách cứu Tứ ca trước đã, rồi mới đốt Thiết Đảm Trang sau.” Lạc Băng nghe nói có lý, nên quay đầu ngựa lại, nhổ một bãi nước bọt xuống đất rồi quất ngựa chạy đi.

Chu Trọng Anh ngang dọc giang hồ, mọi lúc mọi nơi đối đãi với người đều lấy nhân nghĩa làm đầu. Thật sự là ông không bao giờ chuốc oán gây thù, lại thích kết giao bằng hữu, nên cả hai đạo hắc bạch chỉ cần nhắc đến Thiết đảm Chu Trọng Anh là không ai không giơ ngón tay cái lên mà khen ngợi. Nào ngờ hôm nay ông bị phóng phi đao, rồi lại bị mắng chửi mà không hiểu tại sao, thật là chuyện lạ cả đời chưa gặp.

Ông thấy Lạc Băng nộ khí xung thiên, quyết ý liều mạng, biết chắc là có chuyện, liền hỏi tên trang đinh đã lên thị trấn mời y sĩ. Nhưng gã này chỉ nói là phu nhân cùng Mạnh gia ở nhà tiếp khách rất đàng hoàng, hoàn toàn không có tranh chấp gì.

Chu Trọng Anh rầu rĩ trong lòng, gấp rút quất ngựa chạy về. Ông vừa đến cửa Thiết Đảm Trang, trang đinh lập tức kéo ra nghênh đón. Chu Trọng Anh thấy thần sắc mọi người khác lạ, biết rằng đã xảy ra chuyện lớn, bèn bước nhanh vào trong trang, quát tháo gọi Mạnh Kiện Hùng lại hỏi.

Một tên gia đinh trả lời: “Mạnh gia đang bảo vệ phu nhân cùng tiểu thiếu gia trốn ở hậu sơn.” Chu Trọng Anh nghe vậy lại càng kinh ngạc.

Bọn trang đinh cứ người này một câu, người kia một câu kể chuyện đã xảy ra, nói là bọn công sai đã bắt Văn Thái Lai đi, rời khỏi trang chưa được bao lâu. Hẳn là bọn này không đi theo đường cái, nên Chu Trọng Anh không gặp. Bọn trang đinh còn nói: “Sau khi công sai đi hết, bọn tiểu nhân đã cử người đi thông báo cho Mạnh gia, chắc là ông ấy sắp quay trở lại.”

Chu Trọng Anh hỏi: “Ai làm lộ chuyện ba vị khách trốn dưới hầm?” Bọn trang đinh nhìn nhau, không ai dám nói. Chu Trọng Anh giận dữ, vung roi ngựa quất túi bụi lên đầu chúng. An Kiện Cương thấy sư phụ nổi trận lôi đình, cũng không dám mở miệng khuyên can.

Chu Trọng Anh mới đánh được mấy roi đã ngồi phịch xuống ghế mà thở hổn hển, buông hai viên thiết đảm lăn loảng choảng dưới đất. Mọi người không dám thở mạnh, chỉ biết đứng bên chờ đợi.

Chu Trọng Anh hét lên: “Bọn bay đứng đây làm gì? Sao không đi gọi Mạnh Kiện Hùng đến đây cho lẹ?”

Ông chưa nói dứt câu, Mạnh Kiện Hùng đã chạy vào la lớn: “Sư phụ về rồi đấy ư?”

Chu Trọng Anh nhảy chồm lên, quát hỏi: “Ai làm lộ chuyện? Ngươi nói đi! Ngươi nói đi!”

Mạnh Kiện Hùng thấy sư phụ giận đến nỗi nói không ra lời, mất hết khí độ ung dung hào sảng ngày thường, dĩ nhiên không dám khai ra cậu tiểu sư đệ. Y chần chừ một lúc rồi mới đáp: “Bọn ưng trảo tự tìm thấy.”

Chu Trọng Anh đưa tay trái túm lấy cổ áo của y, còn tay phải vung roi định quất vào mặt, nhưng cuối cùng cũng kìm lại được, chỉ giận dữ mắng: “Chỉ nói bậy! Cái hầm của ta bí mật như thế, bọn cẩu tặc kia làm sao tìm thấy được?” Mạnh Kiện Hùng không dám trả lời, cũng không dám nhìn thẳng vào mắt sư phụ. Lúc này Chu phu nhân thấy chồng mình giận dữ, bèn dẫn con đến khuyên can.

Chu Trọng Anh đảo mắt nhìn qua mặt Tống Thiện Bằng, hét lên: “Chắc là ngươi bị bọn công sai quát nạt, sợ hãi mà nói ra. Có phải vậy không?” Ông biết Mạnh Kiện Hùng vốn là người nghĩa hiệp, dù bị chém đầu cũng không bán đứng bằng hữu. Còn Tống Thiện Bằng thì đã không biết võ công lại nhát gan, sợ liên lụy, phần nhiều là hắn sợ bọn công sai uy hiếp nên đã khai ra chân tướng.

Tống Thiện Bằng thấy lão trang chủ oai khí kinh người, cứ như sắp đập mình một chưởng, không nén nổi phải run rẩy toàn thân, gan mật vỡ ra mà lắp bắp: “Không… không phải tiểu nhân, là… là… là… tiểu công tử nói ra.”

Chu Trọng Anh điếng người, run giọng gọi con: “Ngươi qua đây.”

Chu Anh Kiệt sợ sệt đi đến trước mặt phụ thân. Chu Trọng Anh hỏi: “Cái hầm ba người khách trốn trong vườn hoa, có phải là ngươi chỉ cho bọn công sai hay không?”

Chu Anh Kiệt chưa bao giờ dám nói dối trước mặt cha, nhưng việc này thì cậu không dám thẳng thắn thừa nhận. Chu Trọng Anh vung roi lên hét: “Ngươi nói hay không?”

Chu Anh Kiệt hoảng sợ muốn khóc nhưng lại không dám khóc, chỉ đưa mắt nhìn mẹ. Chu phu nhân bèn đi đến cạnh thằng bé, tìm lời khuyên giải: “Lão gia! Đừng giận dữ nữa. Chị của nó mới hay làm ông nổi giận, còn thằng bé này ngoan ngoãn ở nhà, ông không nên bắt nó hoảng sợ như thế.”

Chu Trọng Anh không lý gì đến bà, cứ vẫy roi vun vút trên không, quát lên: “Ngươi không chịu nói thì ta phải đánh chết thằng lộn giống này.”

Chu phu nhân cãi: “Lão gia hồ đồ mất rồi. Con trai của ông sinh ra, sao lại mắng là thằng lộn giống?” Cả đám Mạnh Kiện Hùng nghe nói cũng phải tức cười, nhưng không ai dám cười cả.

Chu Trọng Anh nắm vai vợ mình xô ra rồi nói: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa.”

Mạnh Kiện Hùng thấy tình hình không sao giấu giếm được nữa, bèn cố lấy giọng bình tĩnh nói: “Sư phụ! Tên cẩu tặc Trương Triệu Trọng rất gian xảo, dùng lời khích bác, nói là nếu tiểu sư đệ không biết chuyện này thì tiểu đệ chỉ là tiểu… tiểu khốn, tiểu cẩu.”

Biết con không ai bằng cha. Chu Trọng Anh hiểu con trai mình tuổi nhỏ nhưng luôn luôn muốn làm anh hùng hảo hán, bèn hét lên: “Thằng tiểu khốn kia! Ngươi muốn làm anh hùng nên đã nói ra phải không?”

Khuôn mặt nhỏ bé dễ thương của Chu Anh Kiệt bây giờ tái nhợt, cắt không còn giọt máu, khẽ đáp: “Gia gia, con không muốn làm tiểu khốn…”

Cơn giận của Chu Trọng Anh đã không sao kìm được nữa. Ông thét lên: “Làm như thế mà là anh hùng hảo hán hay sao?” Trong cơn giận dữ điên cuồng, ông vung tay phải quăng hai trái thiết đảm lên vách tường đối diện. Nào ngờ ngay lúc đó Chu Anh Kiệt lại chạy tới, sà vào lòng cha năn nỉ xin cha.

Chu Trọng Anh ném hai trái thiết đảm là để trút cơn giận dữ, nên kình lực vô cùng. Nghe hai tiếng keng keng, một trái thiết đảm gắn sâu vào tường, còn trái kia dội ngược lại, văng trúng ngay đầu Chu Anh Kiệt. Máu tươi lập tức bắn tóe ra.

Chu Trọng Anh kinh hãi ôm lấy con trai. Chú bé Chu Anh Kiệt còn cố thều thào năn nỉ: “Gia gia… Con… con không dám nữa… Xin… xin gia gia… đừng đánh…” Nói chưa xong, hơi thở cậu đã tắt rồi. Tất cả mọi người trong đại sảnh đều ngơ ngác.

Chu phu nhân ôm lấy con kêu gọi: “Hài nhi, hài nhi!” Bà thấy nó không thở nữa, ngẩn ra một lúc, rồi điên cuồng phóng tới Chu Trọng Anh, vừa khóc vừa gào lên: “Tại sao… tại sao phải giết chết hài nhi…”

Chu Trọng Anh lắc đầu, lùi lại hai bước, lắp bắp: “Ta… ta không…”

Chu phu nhân đặt xác con xuống đất, rút phắt thanh đơn đao cài bên hông An Kiện Cương, chạy tới vung đao chém xuống đầu chồng.

Lúc này Chu Trọng Anh không còn phản ứng gì. Ông không tránh né cũng không lùi bước, hai mắt nhắm nghiền mà nói: “Thôi thì chúng ta cùng chết với nhau cho xong.” Chu phu nhân thấy chồng như vậy, tay chân run bắn lên, quăng đao xuống đất, rồi vừa khóc rống vừa chạy ra ngoài.

Lạc Băng cùng Dư Ngư Đồng sợ gặp phải bọn người ở công môn, nên chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi, chưa được bao xa thì trời đã tối. Ở vùng biên cương hoang dã này thì đừng nói khách sạn, ngay cả một hộ nông gia cũng không sao tìm thấy. Hai người đã vất vả rất lâu nên không kén chọn nữa, tìm một tảng đá lớn để ngả lưng.

Dư Ngư Đồng thả ngựa đi ăn cỏ, lại cầm cây trường đao của Lạc Băng đi cắt một ít cỏ phủ xuống đất rồi nói: “Giường đã có rồi, chỉ thiếu lương khô và nước. Chúng ta đành chịu đói, chờ đến sáng rồi tính sau.”

Trong lòng Lạc Băng đang mãi lo lắng cho chồng, cho dù trước mặt có sơn hào hải vị cũng không thể nuốt trôi, lệ tuôn không ngớt. Dư Ngư Đồng luôn miệng an ủi: “Ngày mai là Lục sư thúc đến An Tây. Quần hùng Hồng Hoa Hội nhất định dốc toàn lực ra viện trợ, không chừng sẽ đuổi kịp bọn ưng trảo để cứu tứ ca.”

Hôm nay Lạc Băng phải ác chiến rồi chạy trốn, mệt mỏi lắm rồi. Nàng nghe Dư Ngư Đồng khuyên can cũng thấy thoải mái đôi chút, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ, nàng mường tượng như phu quân nhẹ nhàng ôm nàng vào lòng, khẽ hôn lên môi nàng. Lạc Băng sung sướng vô cùng, lỏng người cho chồng ôm lấy, lại thì thầm: “Huynh cực khổ quá. Những vết thương trên người huynh đã lành hết chưa?” Dường như Văn Thái Lai ấp úng mấy câu gì đó, rồi ôm nàng chặt hơn, nụ hôn càng lúc càng nóng bỏng.

Lạc Băng đang mơ màng hạnh phúc thì đột nhiên giật mình tỉnh dậy. Dưới ánh sao trời, nàng thấy người mình đang ôm không phải là phu quân mà là Dư Ngư Đồng, kinh hãi không sao tả xiết, liền cố sức giãy giụa thoát ra. Nhưng Dư Ngư Đồng vẫn không chịu buông, ôm nàng khẽ nói: “Ta nghĩ đến muội nhiều lắm.”

Lạc Băng vừa hổ thẹn vừa giận dữ, xoay tay tát lên mặt chàng một phát thật nặng. Dư Ngư Đồng còn ngơ ngác, Lạc Băng lại đánh thêm một quyền vào giữa ngực, giãy ra khỏi vòng tay của chàng rồi lăn sang một bên, quờ tay muốn rút đao nhưng không thấy đao đâu, thì ra đã bị Dư Ngư Đồng lấy cất rồi. Nàng càng thêm kinh hãi, liền thò tay vào bọc tìm phi đao, may mà còn hai lưỡi. Lạc Băng lấp tức nắm chặt lấy đao, giận dữ hỏi: “Ngươi muốn gì?”

Dư Ngư Đồng run rẩy nói: “Tứ tẩu! Tỉ nghe đệ nói…”

Lạc Băng quát luôn: “Ai là Tứ tẩu của ngươi? Tứ đại giáo điều của Hồng Hoa Hội chúng ta là gì, ngươi nói đi!” Dư Ngư Đồng cúi gằm mặt xuống, không dám lên tiếng.

Tuy rằng bản tính Lạc Băng vui tươi thoải mái, nhưng mọi hành động của nàng đều đàng hoàng ngay thẳng, dĩ nhiên không thể để người ta trêu ghẹo như thế. Nàng lớn tiếng quát hỏi: “Lão tổ Hồng Hoa họ gì?”

Dư Ngư Đồng chỉ còn cách trả lời: “Hồng Hoa lão tổ vốn họ Chu, hạ phàm để cứu chúng sinh.”

Lạc Băng lại hỏi: “Huynh đệ chúng ta phải kính nể những thánh nhân nào?”

Dư Ngư Đồng nói: “Một kính Lưu Quan Trương đào viên kết nghĩa, hai kính liệt vị anh hùng Ngõa Cang Trại, ba kính một trăm lẻ tám hảo hán Thủy Bạc Lương Sơn.”

Hai người một hỏi một đáp một loạt giáo điều của Hồng Hoa Hội. Mỗi khi khai đường nhập hội, hay khi tuyên án xử phạt, người có địa vị cao nhất trong hội đều hỏi những câu này, mọi người phải đồng thanh cung kính trả lời. Trong hội thì địa vị của Lạc Băng cao hơn Dư Ngư Đồng. Nàng hỏi một loạt câu này, cơn đam mê của Dư Ngư Đồng đã chuyển sang sợ sệt, không dám không trả lời.

Lạc Băng dõng dạc hỏi tiếp: “Hồng Hoa Hội phải cứu giúp bốn loại người nào?”

Dư Ngư Đồng đáp: “Một cứu nghĩa sĩ nhân giả, hai cứu hiếu tử hiền tôn, ba cứu tiết phụ trinh nghĩa, bốn cứu lê dân khổ nạn.”

Lạc Băng hỏi: “Hồng Hoa Hội phải giết bốn loại người nào?”

Dư Ngư Đồng đáp: “Một giết tẩu cẩu Mãn Thanh, hai giết tham quan ô lại, ba giết thổ hào ác bá, bốn giết hung đồ ác đảng.”

Lông mày của Lạc Băng chau lại, hỏi tiếp: “Tứ đại giáo điều của Hồng Hoa Hội là gì?”

Dư Ngư Đồng run giọng trả lời: “Đầu hàng Thanh triều phải giết, phạm thượng bản hội phải giết, bán đứt bằng hữu phải giết, dâm ô vợ người phải giết.”

Lạc Băng kết luận: “Muốn tốt thì mau tự đâm mình ba đao sáu lỗ, ta sẽ dẫn ngươi đi năn nỉ Thiếu đà chủ. Nếu không thì ngươi cứ việc chạy trốn đi, xem thử Thập nhị lang Quỉ Kiến Sầu có tìm được ngươi hay không.”

Theo hội qui của Hồng Hoa Hội, huynh đệ trong hội nếu hồ đồ nhất thời mà phạm vào đại tội, thành tâm hối cải thì trước khi mở hương đường chấp pháp có thể dùng dao nhọn tự đâm ba nhát vào đùi. Ba đao này phải xuyên thủng đùi từ trước ra sau, nên mới gọi là ba đao sáu lỗ. Sau đó tội nhân cầu xin tổng đà chủ và hương chủ chấp pháp tha cho, thì hy vọng được xử nhẹ hơn. Còn nếu không ăn năn hối cải thì chạy trời cũng không thoát.

Ngồi ghế thứ mười hai trong hội là Quỉ kiến sầu Thạch Song Anh. Người này mặt sắt vô tư, chấp chưởng hình đường. Ai phạm phải hội qui, cho dù trốn tận chân trời góc bể cũng chắc chắn sẽ bị y sai người đi bắt về xử tội. Hết thảy mấy chục ngàn huynh đệ Hồng Hoa Hội, nhắc đến ba chữ Quỉ Kiến Sầu là không ai không hoảng sợ dựng tóc gáy lên.

Dư Ngư Đồng bèn nói: “Muội giết chết ta giùm đi. Được chết dưới tay muội, ta cũng cam lòng.” Lạc Băng nghe chàng vẫn giở giọng si mê, lại càng giận dữ. Nàng đưa phi đao lên trước ngực, vận kình lực vào cổ tay muốn phóng ra.

Dư Ngư Đồng run giọng nói: “Muội không biết hay sao? Năm sáu năm nay ta đã khổ tâm lắm rồi. Lần đầu tiên gặp muội ở Tổng hương đường Thái Hồ, lòng dạ ta đã… đã không phải là của bản thân mình nữa.”

Lạc Băng giận dữ nói: “Lúc đó ta đã là người của Tứ ca rồi, chẳng lẽ ngươi không biết?”

Dư Ngư Đồng nói: “Ta… ta biết. Nhưng ta không kiềm chế được mình nên cũng không dám gặp muội thường xuyên. Hễ trong hội có việc phải đi xa, ta đều xin tổng đà chủ phái ta đi. Người khác chỉ nghĩ rằng ta không sợ mệt mỏi gian nan, coi ta là hảo huynh đệ. Chẳng ai biết ta dùng cách đó để trốn tránh muội. Nhưng ta bôn ba khắp chốn, cũng chẳng có giờ nào ngày nào không nghĩ đến muội.” Nói đến đó, chàng xắn tay áo lên, để lộ cánh tay trái rồi bước lên hai bước mà tiếp: “Ta rất hận bản thân mình, thường tự mắng mình là đồ lòng dạ cầm thú. Mỗi khi hận mình đến cực điểm, ta lại dùng trủy thủ đâm vào đây một nhát. Muội xem đây.”

Dưới ánh sao lờ mờ, quả nhiên Lạc Băng nhìn thấy trên cánh tay chàng đầy sẹo, không nén nổi phải mềm lòng lại.

Dư Ngư Đồng lại nói: “Ta cũng thường hận ông trời không chịu thương mình, cho ta được gặp muội khi muội chưa thành gia thất. Tuổi tác muội với ta tương đối phù hợp, còn Tứ ca lại chênh lệch với muội rất nhiều.”

Lạc Băng thấy chàng si mê quá, đã hơi thương xót. Nhưng nghe đến hai câu cuối cùng, nàng lại nổi giận lên nói: “Tuổi tác chênh lệch thì đã sao? Tứ ca là bậc anh hùng hảo hán, đại nhân đại nghĩa, đâu có giống như ngươi…”

Nàng nhịn lại được không chửi mắng nữa, chỉ hừ một tiếng rồi khập khiễng đi đến chỗ con ngựa, cố trèo lên yên. Dư Ngư Đồng chạy tới định đỡ, nhưng Lạc Băng quát đuổi đi, rồi tự mình lên ngựa.

Dư Ngư Đồng hỏi: “Bây giờ Tứ tẩu đi đâu?”

Lạc Băng nói: “Ngươi cứ mặc kệ ta. Tứ ca đã bị bọn ưng trảo bắt đi rồi, ta cũng không muốn sống nữa. Mau trả đao cho ta.” Dư Ngư Đồng cúi đầu, đưa cặp Uyên Ương đao cho nàng.

Lạc Băng nhìn lại thấy chàng đứng đó không biết làm gì, trong lòng đột nhiên thấy bất nhẫn bèn nói: “Chỉ cần sau này ngươi ra sức làm việc cho hội, không vô lễ với ta nữa, thì việc đêm nay ta sẽ không nói cho ai biết cả. Sau này ta sẽ để ý tìm cho ngươi một hảo cô nương tài mạo song toàn.” Nói xong, nàng bỗng cười khúc khích rồi quất ngựa chạy đi.

Cái tính thích cười của nàng thật là bất trị, tiếp tục làm hại Dư Ngư Đồng. Chàng nhìn nụ cười dịu dàng khả ái đó mà tiêu hồn lạc phách, người lảo đảo mấy cái rồi ngã lăn xuống đất. Nhìn theo bóng nàng mất hút trong đêm mà tim chàng đập loạn lên như nồi nước sôi bùng. Lúc thì chàng tự thương thân trách phận, hận lão tặc thiên thích đùa giỡn trêu người. Lúc thì chàng cho rằng số kiếp của mình xúi quẩy đến cực điểm. Lúc thì chàng lại tự hối hận, trách mình đường đường là hán tử mình cao sáu thước mà vô hạnh vô sỉ, không bằng cả con heo con chó. Đột nhiên chàng đập đầu binh binh vào một gốc cây, rồi ôm lấy cái cây đó mà la hét điên cuồng.

° ° °

Lạc Băng cưỡi ngựa chạy hơn một dặm, bèn nhìn sao Bắc Đẩu phía chân trời để phân biệt phương hướng. Bây giờ đi hướng tây thì sẽ gặp huynh đệ ở Hồng Hoa Hội để hiệp lực cứu người, còn đi hướng đông thì có thể âm thầm theo dấu chồng mình đang bị bắt để thừa cơ giải cứu. Nàng biết rõ ràng mình đã bị thương, thế cô sức mỏng, cứu người chắc chắn không thể được. Nhưng nghĩ đến chồng đang lê lết từng bước đi về hướng đông, thì nàng làm sao có thể đi ngược về hướng tây, bèn cứ mặc kệ con ngựa muốn đi đâu thì đi. Khoảng bảy tám dặm, Lạc Băng tin rằng mình đã cách Dư Ngư Đồng khá xa, mà y chắc không dám đến quấy rầy nữa, bèn xuống ngựa, buộc cương ngồi nghỉ trong một khu rừng.

Lúc nhỏ nàng ở với cha, lấy chồng thì ở với chồng. Cả thân phụ lẫn trượng phu đều võ công cao cường, đối với nàng cưng chiều hết mực. Nàng đi lại giang hồ, trước nay đều ở thế thượng phong, chưa bao giờ lép vế trước ai. Về sau gia nhập Hồng Hoa Hội, thì Hồng Hoa Hội người đông thế mạnh, nàng lại được huynh đệ quí mến. Hai mươi hai năm nay, Lạc Băng có thể gọi là giang hồ kiêu nữ, không gì là không đạt được, không gì là không thuận lợi.

Phen này là khổ sở nhất trong đời nàng. Chồng bị bắt, mình bị thương, lại bị Dư Ngư Đồng quấy rầy, nên cứ tức tối than thở, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong đêm sâu hoang vắng, nàng bỗng thấy người mình nóng như lửa đốt, mơ hồ kêu gọi: “Nước… Ta muốn uống nước…” Ở đó làm gì có ai lo lắng cho nàng?

Ngày hôm sau bệnh càng nặng hơn. Nàng muốn gắng gượng đứng dậy, nhưng mới ngồi lên đã thấy đầu đau như cắt, chỉ còn cách nằm lại xuống đất. Nhìn thấy mặt trời lên tới đỉnh đầu rồi lặn xuống hướng tây, đói khát mà không sao lên ngựa, Lạc Băng nghĩ bụng: “Thôi thì ta chết ở đây cũng không sao.” Nhưng nghĩ chuyện không được gặp chồng lần nữa, nàng đau lòng ngất xỉu ngay lập tức.

Không biết đã hôn mê bao lâu, Lạc Băng bỗng nghe tiếng nói: “Hay lắm! Đã tỉnh lại rồi!” Nàng từ từ mở mắt ra, nhìn thấy một thiếu nữ đứng trước mặt mình. Da mặt cô này hơi đen, mắt to miệng nhỏ, mặt mũi cũng thanh tú, khoảng mười tám mười chín tuổi. Thiếu nữ thấy Lạc Băng tỉnh dậy liền tỏ vẻ vui mừng, quay lại bảo a hoàn đứng cạnh: “Mau đem cháo tới đây cho vị phu nhân này ăn trước đã.”

Lạc Băng định thần một lúc, biết mình đang nằm trên giường, chăn đệm ấm áp, đồ đạc bài trí trong phòng rất đẹp đẽ, rõ ràng là nhà của người giàu có. Nàng nghĩ đến tình cảnh mình hôn mê mà được cứu, cảm kích bèn hỏi: “Xin hỏi quí tính đại danh của cô nương là chi?”

Thiếu nữ kia đáp: “Ta họ Chu! Phu nhân cứ nghỉ ngơi một lúc, lát nữa sẽ nói chuyện sau.” Rồi cô nhẹ nhàng lui ra. Lạc Băng ăn hết một chén cháo loãng, lại nhắm mắt ngủ thiếp đi.

Lúc nàng tỉnh dậy lần nữa thì trong phòng đã thắp đèn, ngoài cửa phòng có tiếng nữ nhân nói: “Bọn đó đã ức hiếp người ta như thế, còn dám đến quấy rầy Thiết Đảm Trang, vậy mà lão gia nhịn được. Nhưng ta quyết dạy cho chúng một bài học.” Lạc Băng nghe thấy ba chữ Thiết Đảm Trang, trong lòng hơi kinh hãi, chẳng lẽ mình đang ở trong Thiết Đảm Trang hay sao.

Rồi có hai người vào phòng, chính là thiếu nữ ban nãy và một đứa a hoàn. Thiếu nữ đi đến bên giường vén màn ra nhìn, Lạc Băng nhắm mắt vờ ngủ say. Thiếu nữ quay người, với lấy thanh đao treo trên tường.

Lạc Băng đã thấy cặp Uyên Ương Đao của mình đặt trên bàn, bèn ngầm chuẩn bị. Nếu thiếu nữ kia quay lại chém, nàng sẽ tung chăn phủ lên đầu cô ta, rồi đoạt lấy cặp Uyên Ương Đao mở đường máu chạy đi.

Con a đầu kia bỗng mở lời khuyên: “Cô nương đừng gây họa nữa. Trong lòng lão gia đã khó chịu lắm rồi, cô đừng trêu cho lão gia nổi giận.” Lạc Băng nghe thấy, đoán chắc cô nương này là con gái của Chu Trọng Anh.

Thiếu nữ này chính là đại tiểu thư Chu Ỷ của Thiết Đảm Trang. Nàng tính tình hào phóng, khí phách y hệt cha mình, cũng thích nhúng tay vào chuyện của thiên hạ, thấy việc bất bình quyết không chịu làm ngơ. Vì dung mạo nàng khá đẹp, nên được giới võ lâm tây bắc tặng cho ngoại hiệu là Tiêu Lý Lục. Hôm trước nàng lỡ đả thương người khác, sợ cha trách mắng nên không dám về nhà, chịu cực ngủ một đêm ngoài trang, định chờ cha bớt giận rồi mới trở về. Không ngờ dọc đường gặp Lạc Băng nằm hôn mê dưới đất, nàng bèn cứu về đây. Khi về trang, nghe nói em trai bị cha đánh chết, còn mẹ bỏ đi, dĩ nhiên nàng đau khổ vô cùng.

Chu Ỷ lấy đơn đao xuống rồi lớn tiếng nói: “Hừ! Ta cứ mặc kệ!” Nàng xách đao nhảy ra ngoài, đứa a hoàn cũng theo ra.

Lạc Băng ngủ được hai ngày, tinh thần hồi phục, cơn sốt đã đứt. Nàng chỉnh đốn y phục, mang giày, cầm lấy song đao rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, nghĩ bụng: “Chúng đã bán đứt đại ca cho quan phủ, không hiểu còn cứu ta làm gì. Chắc là có âm mưu gì khác.”

Lúc này Lạc Băng còn ở trong hiểm địa, vết thương ở đùi cũng chưa lành hẳn, dĩ nhiên không dám sơ ý chút nào. Nàng đã đến đây một lần, vẫn còn nhớ đường đi lối lại, định lén ra vườn hoa rồi vượt cửa hậu ra ngoài. Đi được một quãng xa, nàng nghe phía trước có tiếng hai người đang nói chuyện. Đợi một lúc, hình như hai người này không định rời khỏi đó, nên nàng quay trở lại, lén lút đi qua hai căn phòng. Trong đêm tối, may mà nàng không gặp phải ai.

Lạc Băng đi vòng qua hành lang, thấy trong đại sảnh đèn đuốc vẫn sáng trưng, có người lớn tiếng nói chuyện. Nghe thanh âm hơi quen, nàng bèn ghé mắt vào khe cửa, thấy Chu Trọng Anh đang nói chuyện với hai người. Một người hình như nàng đã gặp nhưng nhất thời không nghĩ ra là ai, còn người kia chính là kẻ đã từng trêu ghẹo nàng, rồi dẫn công sai quan phủ đến bắt phu quân nàng, chính là Đồng Triệu Hòa.

Nhìn thấy kẻ thù, lại nghĩ đến chồng mình đang phải chịu đựng những gì, Lạc Băng không sao lo lắng đến chuyện sống chết của bản thân mình được nữa. Nàng đưa tay trái đẩy cửa đại sảnh ra, phóng thẳng tới Đồng Triệu Hòa một mũi phi đao.

° ° °

Nhắc lại sau khi Chu Trọng Anh lỡ tay đánh chết đứa con trai duy nhất, vợ ông đau lòng bỏ chạy khỏi Thiết Đảm Trang. Chu phu nhân vốn là con gái của một quyền sư võ công bình thường, gia đình bên ngoại cũng chẳng còn ai, không biết bà dựa dẫm nơi nào. Vợ đi, con chết, Chu Trọng Anh thương tâm cực điểm, u uất trong nhà suốt hai ngày.

Hoàng hôn hôm nay, trang đinh vào báo có hai người cầu kiến, Chu Trọng Anh bèn lệnh cho Mạnh Kiện Hùng đón tiếp. Thì ra đó là tên đầu tội Đồng Triệu Hòa, đi cùng Vạn Khánh Lan, tổng giáo đầu dạy võ ở Trịnh vương phủ. Hôm trước tên này cũng tham gia vụ đến Thiết Đảm Trang bắt người.

Mạnh Kiện Hùng vừa sợ vừa nghi, rõ ràng đây không phải là chuyện tốt. Hai tên này nhất định đòi gặp Chu Trọng Anh. Mạnh Kiện Hùng nói: “Lão trang chủ không được khỏe, hai vị có việc gì cứ nói, tại hạ sẽ chuyển lời thì cũng vậy thôi.”

Đồng Triệu Hòa cười ha hả rồi nói: “Lần này bọn ta bỏ công đến đây là do hảo ý, Chu trang chủ muốn gặp hay không thì tùy. Thiết Đảm Trang sắp gặp họa diệt môn, còn ngồi đó làm bộ ta đây gì nữa.”

Sau khi Văn Thái Lai bị bắt, Mạnh Kiện Hùng vẫn lo lắng trong lòng, sợ Thiết Đảm Trang bị liên lụy. Nghe nói vậy, y chỉ còn cách vào trong bẩm báo. Chu Trọng Anh tung tung hai quả thiết đảm loảng xoảng trên tay, nộ khí đằng đằng, bước ra ngoài lớn tiếng: “Ai nói Thiết Đảm Trang sắp bị họa diệt môn thế? Lão phu phải thỉnh giáo một phen!”

Vạn Khánh Lan lấy trong bọc ra một tờ giấy, đặt lên bàn rồi nói: “Chu lão anh hùng cứ xem thử!” Hai tay hắn vẫn chặn lên tờ giấy đó, dường như sợ Chu Trọng Anh đoạt lấy. Chu Trọng Anh đưa mắt nhìn xuống, thì ra đó là một lá thư của Miên lý châm Lục Phi Thanh phái Võ Đang viết cho ông, nhờ ông chiếu cố cho mấy bằng hữu Hồng Hoa Hội đang cơn nguy cấp. Lá thư này Văn Thái Lai chưa có dịp đưa cho Chu Trọng Anh. Sau khi bắt chàng, chúng lục soát lấy được.

Lục Phi Thanh phạm thượng gây loạn, tội danh rất lớn, cũng là một yếu phạm bị truy nã lâu nay chưa bắt được. Thì ra họ Lục lại còn cả gan cấu kết với cả Thiết Đảm Trang. Bọn Thoại Đại Lâm thương lượng được một lúc, cảm thấy nếu báo lên quan trên thì cũng chưa chắc bắt được Lục Phi Thanh, còn bọn mình lại phải vác thêm một gánh nặng. Không bằng bây giờ cầm lá thư này đi gõ cửa Chu Trọng Anh kiếm ít tiền, chia chác nhau thì thực tế hơn. Thiết Đảm Trang đã dám giấu khâm phạm, bây giờ lại có bằng chứng là quan hệ với tội phạm, dĩ nhiên phải ngoan ngoãn lòi bạc ra cho được yên thân.

Trương Triệu Trọng cùng Lục Phi Thanh là sư huynh đệ, tuy đã tuyệt giao từ lâu, nhưng vẫn có nghĩa đồng môn. Y cũng biết họ Lục lợi hại nên không dám làm càn. Khi nghe bọn Thoại Đại Lâm bàn chuyện moi tiền Chu Trọng Anh, y cũng thấy là chuyện tổn hại nhân phẩm, không ra vẻ anh hùng hảo hán. Nhưng trong chốn quan trường không tiện cản trở người khác phát tài, nên y bèn mặc kệ chúng muốn làm gì thì làm, còn bản thân mình quyết không chia một đồng xu để khỏi hủy hoại danh tiếng Hỏa Thủ Phán Quan.

Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đều là người có công danh, không tiện công nhiên ra mặt, nên cả bọn đề cử Vạn Khánh Lan và Đồng Triệu Hòa đến đây đòi tiền.

Chu Trọng Anh đọc thư xong, trong lòng cũng hơi kinh hãi, bèn hỏi: “Hai vị có gì chỉ giáo?”

Vạn Khánh Lan nói: “Chúng ta ngưỡng mộ Chu lão anh hùng đã lâu, ai cũng thán phục ông trượng nghĩa sơ tài lại thích kết giao bằng hữu. Nghe nói ông vì bằng hữu mà phải tốn chín mười vạn lạng cũng quyết chẳng chau mày. Ông cũng biết rồi, nếu lá thư này đến tay quan phủ thì sẽ hậu hoạn vô cùng, Huynh đệ ta đọc xong thư, ai cũng muốn liều mình kết giao với một bằng hữu như Chu lão anh hùng. Mọi người quyết định hủy lá thư này, không nhắc nửa chữ đến việc Thiết Đảm Trang che giấu khâm phạm Văn Thái Lai và kết giao với phản tặc Lục Phi Thanh, chịu lấy cái tội không bẩm báo với quan trên.”

Chu Trọng Anh đáp: “Vậy thì ta phải đa tạ rồi.”

Vạn Khánh Lan nói thêm mấy câu hoa mỹ chẳng liên quan gì, cuối cùng thì buồn bã kết luận: “Chỉ vì huynh đệ ta lần này rời kinh công cán, dọc đường chi tiêu tốn kém nên ai cũng nợ đầy mình. Giả tỉ Chu lão anh hùng lấy tình nghĩa võ lâm mà ra tay giúp đỡ một chút, chúng ta sẽ vô cùng cảm kích.”

Chu Trọng Anh chau mày, hứ một tiếng.

Vạn Khánh Lan tiếp: “Món nợ này cũng không lớn lắm, mấy chục người cộng lại chỉ đến sáu bảy chục ngàn lạng bạc là cùng. Chu lão anh hùng gia tài trăm vạn, vàng bạc đầy nhà, ruộng tốt ngàn mẫu, lừa ngựa cả bầy, là bậc hào phú vùng Hà Tây. Con số nhỏ nhoi như thế, chắc ông không thèm đắn đo. Người xưa nói rất hay: Của đi thay người. Lại có câu: Tiểu tài không bỏ ra thì đại tài sẽ không đến.”

Chu Trọng Anh thấy bọn công sai đến Thiết Đảm Trang bắt người, hoàn toàn không nể mặt mình, vốn đã giận dữ rồi. Ông lại nghĩ đến chỗ anh em đồng đạo giang hồ gặp nạn đến đây nhờ vả, mình không bảo vệ được, trong lòng rất áy náy vì có lỗi với bằng hữu. Đứa con yêu quí của ông mất mạng, suy cho cùng thì cũng do bọn công sai này gây nên. Hai ngày nay ông cũng muốn tìm cách cứu được Văn Thái Lai để trị bọn công sai cho hả dạ, chỉ vì vợ đi con mất, thần tình rối loạn, nên nhất thời không quyết định được gì.

Bây giờ hai tên này dám đến quấy nhiễu, lại còn cả gan mở miệng tống tiền, thật là đổ dầu vào lửa. Chu Trọng Anh bèn lạnh nhạt nói: “Lão phu cũng có chút ít gia sản, nhưng cả đời chỉ dùng để giúp đỡ những bậc anh hùng hảo hán, có cốt cách nghĩa khí mà thôi.” Không những ông mở miệng là cự tuyệt ngay, lại còn chửi bọn này không đáng xu nào.

Đồng Triệu Hòa bật cười: “Chúng ta là tiểu nhân, chuyện đó không sai. Nhưng chắc Chu lão anh hùng hiểu rõ, tiểu nhân làm thì dở mà phá thì giỏi. Xây dựng một đại trang viện như thế này, thì đúng là chúng ta không đủ bản lãnh. Nhưng muốn hủy hoại nó thì…”

Hắn nói chưa dứt câu đã có một người xông vào giận dữ quát: “Ngươi hủy hoại Thiết Đảm Trang như thế nào, bản cô nương phải coi thử.” Đó chính là Chu Ỷ.

Chu Trọng Anh bèn nháy mắt với con gái một cái, đi ra ngoài đại sảnh. Chu Ỷ cũng theo ra. Chu Trọng Anh khẽ bảo: “Con đi dặn Kiện Hùng, Kiện Cương, tuyệt đối không để hai tên ưng trảo này ra khỏi trang.”

Chu Ỷ cả mừng đáp: “Hay quá! Con đứng ngoài, càng nghe càng tức!”

Chu Trọng Anh quay vào đại sảnh, Vạn Khánh Lan bèn nói: “Chu lão anh hùng đã không nể mặt, chúng ta xin cáo từ vậy.” Nói xong hắn xé vụn lá thư của Lục Phi Thanh. Chu Trọng Anh ngẩn ra, chuyện này thật là ngoài dự liệu của ông.

Vạn Khánh Lan tiếp: “Đây chỉ là bản sao, phải xé đi lỡ người khác nhìn thấy không tiện. Còn bản chính đang ở trong tay Hỏa thủ phán quan Trương đại nhân.” Câu nói này tỏ ý cho Chu Trọng Anh biết, dù có giết hai người thì cũng không hủy được chứng cớ chắc như ngọn núi.

Chu Trọng Anh trừng mắt giận dữ nhìn hắn, nghĩ bụng: “Ngươi muốn Chu mỗ bỏ tiền mua mạng, quá xem thường ta rồi.”

Đúng lúc này, Lạc Băng xô cửa phóng phi đao về phía Đồng Triệu Hòa.

Chu Trọng Anh không biết ai ra tay. Tuy ông rất hận Đồng Triệu Hòa, nhưng cũng không muốn hắn mất mạng như thế. Không kịp nghĩ nhiều, cứu người là gấp, ông lập tức ném một quả thiết đảm về hướng phi đao. Nghe keng một tiếng, cả phi đao lẫn thiết đảm cùng rơi xuống đất.

Lạc Băng thấy Chu Trọng Anh ra tay cứu kẻ thù, bèn lớn tiếng thóa mạ: “Hay lắm! Quả nhiên là cùng một bọn. Tên lão tặc này đã hại chồng của ta, thì giết luôn ta đi cho xong.” Nàng khập khiễng tiến vào đại sảnh, vung Uyên Ương song đao lên chém vào đầu Chu Trọng Anh.

Trong tay Chu Trọng Anh không có binh khí, ông vội xách một cái ghế lên, vừa chống đỡ vừa hô: “Nói chuyện rõ ràng trước đã, khoan hãy động thủ!” Lạc Băng đã quyết liều mạng, không thèm nghe gì nữa, cả song đao đều ra những chiêu thức tấn công.

Chu Trọng Anh cũng biết Hồng Hoa Hội ngộ nhận rằng mình bán đứt Văn Thái Lai. Ông chỉ muốn tìm cách giải thích, dứt khoát không đả thương người để gây nợ, nên cứ lùi mãi mà không đánh trả. Còn Lạc Băng thì một trường đao một đoản đao vun vút chém tới, đao nào cũng nhằm chỗ yếu hại mà tấn công.

Lạc Băng nhìn thấy địch thủ đã lùi đến chân tường, không thể lùi được nữa, thì đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió rít lên. Nàng biết có người đánh lén, vội cúi người tránh né. Nghe vù m?