← Quay lại trang sách

Hồi 8 Thiên quân không dám vây hồ rộng-Thần triều hung hãn khiếp chí tôn

Một lúc sau, mọi thuyền trên hồ đã cập hết vào bờ. Lý Khả Tú nhảy lên trước, đưa hai tay dìu Càn Long lên bờ, bọn thị vệ vây quanh thành nửa vòng tròn, hộ vệ ba mặt. Trần Gia Lạc cũng lên theo.

Lý Khả Tú lấy tù và ra thổi ba tiếng tu tu, mấy trăm ngự lâm quân Kiêu Kỵ Doanh vội vàng chạy tới. Một tên thị vệ dắt bạch mã đến, quỳ chân phải xuống đỡ Càn Long lên ngựa. Quân sĩ bốn phía từ từ tiến lại, bao vây anh em Hồng Hoa Hội và Trần Gia Lạc vào giữa.

Càn Long nháy mắt ra hiệu, Lý Khả Tú liền gân cổ lên quát mắng quần hào Hồng Hoa Hội: “Bọn ngươi thật là lớn mật! Nhìn thấy hoàng thượng mà dám không thi lễ ư?”

Từ Thiên Hoằng vẫy tay, cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình lập tức lấy pháo lưu tinh ra phóng veo véo lên trời. Mấy ngôi sao băng vừa rơi trở xuống mặt Tây Hồ, bốn phương tám hướng lập tức nổi lên tiếng reo hò vang dội. Dưới tán cây, dưới mái nhà, dưới gầm cầu, người nào cũng đầu cắm hoa hồng, tay cầm binh khí.

Từ Thiên Hoằng lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Tồng đà chủ Hồng Hoa Hội đã đến đây, huynh đệ mau mau tiến lên tham kiến.” Hội chúng Hồng Hoa Hội cất tiếng hoan hô như sấm động, mỗi người bước lên một bước.

Binh sĩ Kỳ Doanh và ngự lâm quân vội lắp tên vào cung, rút đao khỏi vỏ, đề phòng mọi người xông đến. Hai bên đối địch với nhau, đều đứng yên không động đậy. Lý Khả Tú lại thổi tù và, tiếng vó ngựa rộn rã nổi lên xen lẫn tiếng người hô ngựa hí, thì ra binh sĩ Kỳ Doanh và Lục Doanh đang trú phòng ở Hàng Châu cũng đến rồi. Lý Khả Tú lên ngựa chỉ huy binh mã bao vây quần hào Hồng Hoa Hội, chỉ chờ Càn Long ra lệnh là động thủ bắt người.

Trần Gia Lạc không nói tiếng nào, từ từ bước tới bên một tên lính ngự lâm quân, đưa tay đón lấy cương ngựa đang nắm trong tay hắn. Tên lính này bị oai khí của chàng nhiếp phục, không tự chủ được bất giác giao cương ngựa. Trần Gia Lạc nhảy lên ngựa, lấy trong người ra một đóa hoa hồng cài lên ngực. Đóa hoa này to bằng miệng chén, kết bằng chỉ vàng và vải nhung, lại dùng bảo thạch khảm lên, sáng lấp láng dưới ánh đuốc. Đây chính là phù hiệu tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, giá trị như soái kỳ trong quân đội vậy. Hội chúng Hồng Hoa Hội chưa từng gặp mặt đại thủ lĩnh, người nào cũng phấn chấn hẳn lên, cúi mình thi lễ, hoan hô như sấm động.

Kỳ Doanh và Lục Doanh vốn đang xếp hàng tể chỉnh, đột nhiên có một số binh lính bỏ hàng ngũ chạy ra. Đám quân này chạy đến trước mặt Trần Gia Lạc, bắt chéo tay trước ngực, khom lưng thi hành đại lễ bái kiến tổng đà chủ. Trần Gia Lạc chắp tay đáp lễ.

Đám quân phía trước thi lễ xong chạy về đội ngũ, lại có một đám khác phía sau chạy ra thi lễ. Nhóm này rút về nhóm kia lại đến, hồi lâu mới hết. Thì ra thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, nhiều binh sĩ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh cũng nhập hội rồi. Số người Hán trong Kỳ Doanh và Lục Doanh không phải là ít.

Càn Long thấy binh sĩ của mình chạy ra thi lễ với Trần Gia Lạc, không khỏi giật mình kinh hãi. Nếu đêm nay động võ, y chỉ có thể dựa vào mấy doanh ngự lâm quân hộ giá đến đây, nhưng trong đó chưa chắc không có đệ tử Hồng Hoa Hội. Dù sao thì cũng không nắm chắc phần thắng, mà bản thân mình lại đang ở trong hiểm địa, nên rút lui ổn thỏa mới là thượng sách.

Y bèn nhìn Lý Khả Tú, lạnh nhạt nói: “Ngươi dạy lính tốt quá nhỉ?”

Lý Khả Tú đang kinh hãi ngẩn ngơ, nghe Càn Long mắng bèn lật đật nhảy xuống ngựa, quì mọp dưới đất vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Thần đáng chết, thần đáng chết!”

Càn Long nói: “Bảo chúng lùi lại đi.”

Lý Khả Tú dạ dạ, rồi dứng lên lớn tiếng ra lệnh cho binh lính lùi ra hết.

Từ Thiên Hoằng thấy thân binh rút lui bèn hô lớn: “Các vị huynh đệ! Mọi người đã mệt mỏi rồi, hãy trở về đi!”

Hội chúng Hồng Hoa Hội đồng thanh đáp: “Tổng đà chủ, các vị đương gia! Xin tạm biệt!” Tiếng hô như sấm sét, đứng bên bờ hồ cũng thấy đầu người nhấp nhô tản ra khắp bốn phương tám hướng.

Càn Long từ nhỏ đã được phụ vương là Ung Chính giáo dục văn tài võ lược, có thể gọi là nhân tài số một trong hoàng tộc. Y rất hâm mộ Thái Tông Thái Tổ của mình năm xưa đông chinh tây phạt, tấn công thành trì chiếm đoạt đất đai. Hai vị tiên đế đều từng mạo hiểm thân chinh. Quân đội Mãn Châu chia làm bát kỳ, thống binh của mỗi kỳ đều là thân vương, quận vương hay bối lặc. Thống binh ra trận mà lùi bước thì bị cách chức ngay, binh mã bốn kỳ chia cho bảy kỳ còn lại. Vì thế người nào cũng cố gắng đốc thúc chỉ huy, đánh đâu thắng đó.

Từ khi Càn Long đăng quang đến nay, trong bờ ngoài cõi đều được bình yên, nên y không có đất dụng võ để tỏ chí anh hùng. Hôm nay nghe Trần Gia Lạc mời mình thưởng trăng uống rượu giữa hồ, y nghĩ năm xưa Thái Tổ Thái Tông từng múa đao xông trận giữa chốn thiên binh vạn mã, chẳng lẽ mình không dám mạo hiểm đôi chút hay sao. Nào ngờ đêm nay làm gì cũng bị người ta khắc chế.

May mà Càn Long rất hiểu đại thể, biết rằng không nhịn được viện nhỏ thì sẽ hư việc lớn. Y bèn vẫy tay nói với Trần Gia Lạc: “Cuộc du ngoạn trên hồ hôm nay quả là khoái hoạt. Tưởng đã thỏa mãn lắm rồi, đa tạ hiền chủ nhân nhiệt tình thết khách. Bây giờ xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.” Nói xong, y quay về tuần phủ nha môn, binh tướng vây quanh bảo vệ.

° ° °

Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả, trở xuống thuyền say sưa một bữa với quần hùng.

Đêm nay Hồng Hoa Hội đánh tơi tả bọn thị vệ triều đình, cuối cùng Từ Thiên Hoằng và Mã Thiện Quân bố trí lại càng toàn mỹ, hoàng đế nắm trọng binh mà vẫn không dám hạ lệnh tấn công. Tung tích Văn Thái Lai cũng rõ rồi, nên người nào cũng vui vẻ mà ăn uống.

Từ Thiên Hoằng nói với Mã Thiện Quân: “Mã đại ca! Hôm nay hoàng đế thua thiệt trở về, nhất định không chịu buông tay. Huynh nhớ dặn dò mọi huynh đệ ở Hàng Châu phải thận trọng đặc biệt, nhất là huynh đệ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh phải đề phòng ám toán. Nếu chúng điều đại quân đến đây thì mọi người hãy lui về phòng thủ Thái Hồ.” Mã Thiện Quân gật đầu khen phải, uống cạn một chén rồi xin rút trước, dẫn con trai đi bố trí.

Trần Gia Lạc cạn chén, gõ nhịp hát mấy câu. Chàng thấy trăng tỏ rọi mặt hồ, bóng trăng lấp lánh giữa những lá sen trông như bạc vụn, đột nhiên giật mình hỏi Từ Thiên Hoằng: “Hôm nay ngày bao nhiêu rồi? Mấy hôm nay bận rộn, ngày tháng cũng quên mất.”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Hôm nay mười bảy. Chẳng phải hôm kia chúng ta đã ăn tết trung thu hay sao?”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói: “Chu lão tiền bối, đạo trưởng, các vị ca ca! Hôm nay chúng ta bận rộn suốt đêm không hề mất mặt, Văn tứ ca cũng có tin tức rồi. Bây giờ mọi người về nghỉ ngơi thôi. Này mai tại hạ có chút việc riêng, ngày mốt chúng ta sẽ bắt đầu lo cứu Tứ ca.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng đà chủ có cần huynh đệ nào cùng đi không?”

Trần Gia Lạc đáp: “Không cần. Chuyện này chẳng có gì nguy hiểm, ta muốn yên tĩnh một mình để suy nghĩ mấy việc.”

Mọi người đưa thuyền vào bờ rồi tạm biệt Trần Gia Lạc trở về nghỉ ngơi. Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Tưởng Tứ Cân đã nửa tỉnh nửa say, giữa đêm bá vai nhau nghênh ngang ca hát trên phố xá Hàng Châu, tựa như nơi đây không phải là đất của triều đình vậy.

Trần Gia Lạc nhìn theo mọi người đi xa rồi nhảy lên một chiếc thuyền con. Chàng nhẹ khuấy mái chèo cho thuyền từ từ lướt trên mặt hồ sáng như gương. Ra đến giữa hồ, chàng dừng chèo rồi ngơ ngẩn nhìn trăng, bất giác tuôn đôi dòng lệ. Thì ra ngày mai đã là mười tám tháng tám, sinh nhật của Từ Thị, mẫu thân chàng.

Mười năm trước chàng rời nhà ra đi, bây giờ trở về Giang Nam thì mẹ đã mất rồi. Từ nay âm dương cách trở, nhớ đến nụ cười và vẻ mặt hiền từ của mẹ, chàng không nén nổi bi ai. Vừa rồi nghe Từ Thiên Hoằng nhắc đến ngày tháng, chàng cố nhẫn nại. Bây giờ mọi người đi hết, Trần Gia Lạc mới cho phép mình buông tiếng khóc.

Xen giữa tiếng than khóc bi ai, đột nhiên truyền đến tiếng cười khe khẽ dịu dàng. Trần Gia Lạc lập tức ngưng khóc, quay đầu nhìn lại thấy một chiếc thuyền con đang từ từ chèo tới. Dưới ánh trăng thấy rõ một người đứng ở lái thuyền, mặc trường bào xám nhạt, chắp tay thi lễ: “Trần công tử ở đây ngắm trăng một mình đấy ư?”

Trần Gia Lạc nhận ra anh chàng tuấn tú này là đồ đệ của Lục Phi Thanh, vừa rồi còn đứng sau lưng Lý Khả Tú. Chàng không biết y một mình đến đây có việc gì, liền lau nước mắt, chắp tay trả lễ: “Lý huynh tìm ta có việc gì không?”

Lý Nguyên Chỉ nhẹ nhàng tung người lên, đáp xuống mũi thuyền Trần Gia Lạc rồi mỉm cười nói: “Có tin tức của Kim Địch Tú Tài. Huynh muốn biết không?”

Trần Gia Lạc ngẩn ra một chút rồi nói: “Mời huynh ngồi đây nói chuyện.” Lý Nguyên Chỉ mỉm cười ngồi xuống, đưa tay khuấy nhẹ mặt hồ, làm vỡ vụn bóng trăng trong.

Trần Gia Lạc hỏi: “Huynh đã gặp Dư huynh đệ của ta hay sao? Xin hỏi huynh ấy đang ở đâu?”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Dĩ nhiên là ta biết, nhưng ta lại không muốn nói với huynh.”

Trần Gia Lạc lại ngẩn ra, thầm nghĩ: “Thằng lỏi này thật là kỳ lạ, nói chuyện cứ như con gái làm điệu vậy.” Bỗng dưng trước mắt chàng lại hiện lên hình ảnh Lý Nguyên Chỉ quàng vai Hoắc Thanh Đồng mà thân thiết cười đùa. Trần Gia Lạc đột nhiên thấy chán ghét người này, cảm giác khó mà diễn tả được.

Lý Nguyên Chỉ nghịch nước một lúc rồi giơ bàn tay ướt đẫm lên trời. Dưới ánh trăng nàng thấy Trần Gia Lạc khóe mắt đỏ hoe, má vương dấu lệ, bèn ngạc nhiên hỏi: “Úi chà! Huynh mới khóc hay sao? Ta vừa nghe thấy tiếng khóc, thì ra là huynh…”

Trần Gia Lạc quay mặt đi, không lý gì đến nàng. Lý Nguyên Chỉ cảm thấy mềm lòng, bèn dịu dàng nói: “Có phải huynh đang lo lắng cho Tứ ca và Thập Tứ đệ hay không? Huynh đừng buồn nữa, ta có thể nói với huynh là hai người đó còn sống đàng hoàng.”

Trần Gia Lạc muốn hỏi tỉ mỉ, nhưng nghe nàng nói chuyện bằng giọng khuyên dỗ trẻ nít, bèn tức giận nghĩ: “Dù ngươi không báo tin, chúng ta vẫn có thể điều tra được.” Chàng im lặng, không lên tiếng.

Lý Nguyên Chỉ lại hỏi: “Sư phụ của ta đâu? Ông ấy cũng đến Hàng Châu rồi phải không?”

Trần Gia Lạc hỏi: “Sao? Lục lão tiền bối không cùng đi với huynh hay sao?”

Lý Nguyên Chỉ đáp: “Đúng thế. Sau đêm đại loạn ở bến Hoàng Hà, ta không gặp lại sư phụ nữa.”

Trần Gia Lạc nói: “Lục lão tiền bối võ công trác tuyệt, chắc chắn không gặp sơ suất gì đâu. Huynh cứ yên tâm đi.”

Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Hồng Hoa Hội của các vị thế lực lớn, tại sao không phái người đi tìm sư phụ ta?”

Trần Gia Lạc nghe nàng càng nói càng vô lễ, không khỏi bực mình. Nhưng dù sao chàng vẫn dày công phu hàm dưỡng, bèn đáp: “Lý đại ca nói phải. Ngày mai ta sẽ cử người đi thám thính.”

Hồi lâu Lý Nguyên Chỉ mới nói: “Ta nghe Dư sư ca nói võ công của huynh là vô địch, ta không tin. Huynh ấy còn nói, huynh có thể làm sư phụ của ta được. Chẳng lẽ võ công của huynh còn cao hơn cả sư phụ của ta hay sao?”

Trần Gia Lạc nghe anh chàng này nói chuyện không biết nặng nhẹ ra sao, bèn mỉm cười đáp: “Lục lão tiền bối là cao thủ trên đời. Giả tỉ ta muốn bái ông ấy làm sư phụ, lão nhân gia chưa chắc đã chịu thu nhận. Đồ đệ ông ấy nhất định phải có tư chất cực tốt.”

Lý Nguyên Chỉ cười: “Úi chà! Huynh đừng nịnh bợ trước mặt người ta như vậy nữa. Vừa rồi ta có thấy huynh ném mấy chung rượu, nội kình rất tốt. Nhưng không hiểu sao người Hồng Hoa Hội lại phục tùng huynh sát đất, cung kính hơn cả phụ thân. Điểm này thì ta có phần không phục.”

Trần Gia Lạc khẽ hừ một tiếng, nghĩ bụng: “Muốn được người khác kính phục, không chỉ dựa vào võ công mà được. Điểm này mà ngươi không hiểu, thì ta chẳng cần nói hiều với ngươi cho tốn hơi.” Chàng thấy anh chàng này vừa ấu trĩ vừa vô lễ, không biết đối phó cách nào bèn nói: “Trời sắp sáng rồi, ta phải lên bờ. Xin tạm biệt!”

Nói xong chàng đưa mái chèo lên, ra vẻ đợi nàng nhảy khỏi thuyền mình. Lý Nguyên Chỉ bất mãn nói: “Ai phục huynh thì phục, nhưng huynh không nên kiêu ngạo với ta như thế.”

Trần Gia Lạc nghe câu này, nộ khí muốn nổi lên nhưng chàng lập tức nghĩ lại, mình đang lãnh đạo quần hào, là người đứng đầu Hồng Hoa Hội, không thể tùy tiện giận dữ được. Tên họ Lý này nhỏ tuổi hơn mình, bây giờ lại không có người thứ ba ở đây làm chứng. Nếu mình nặng tay sẽ bị trách là lấy lớn hiếp nhỏ, huống chi sư phụ của y lại có tình sâu nghĩa nặng với bản hội. Chàng nể mặt Lục Phi Thanh, bèn nén giận đưa mái chèo lên chèo thuyền.

Lý Nguyên Chỉ từ nhỏ quen được người ta chiều chuộng, thấy mặt Trần Gia Lạc hầm hầm với mình cũng không khỏi tức tối. Nhưng nàng vẫn ngồi yên trên mũi thuyền, nhất thời không biết phải làm gì.

Lúc thuyền đến gần Tam Đàn Ấn Nguyệt, Lý Nguyên Chỉ cười nhạt nói: “Huynh không cần ra vẻ ta đây như thế. Nếu huynh thật sự có bản lĩnh thì đâu có trốn ở trong này mà khóc?”

Trần Gia Lạc vẫn mặc kệ. Lý Nguyên Chỉ lớn tiếng nói: “Này! Ta đang nói chuyện với huynh! Chẳng lẽ huynh bị điếc rồi hay sao?”

Trần Gia Lạc thở hắt ra một hơi, đảo mắt nhìn nàng nghĩ bụng: “Thằng lõi này không biết tốt xấu gì cả. Ngay cả sư phụ ngươi cũng phải giữ lễ với ta, mà ngươi lại dám quát nạt ta như vậy hay sao?”

Lý Nguyên Chỉ tiếp tục gắt gỏng: “Người ta có lòng tốt đến đây báo tin cho huynh biết, thế mà huynh lại mặc kệ người ta. Không có ta giúp đỡ, xem thử huynh có cứu được Văn tứ ca hay không?”

Trần Gia Lạc chau mày, rồi trề môi ra nói: “Chẳng lẽ huynh lại có bản lãnh đến thế?”

Lý Nguyên Chỉ nói: “Huynh xem thường người khác quá lắm. Thế thì chúng ta phải tỉ thí một phen.” Nàng nói dứt câu, lập tức xoay tay rút trường kiếm đeo sau lưng ra.

Trần Gia Lạc nể mặt Lục Phi Thanh nên mới nhẫn nhịn được tới lúc này. Bây giờ thấy đối phương đột nhiên rút kiếm, chàng lại phải thay đổi suy nghĩ. Vừa rồi chàng thấy người này đứng hầu phía sau Càn Long, ra vẻ thân mật với đề đốc thống binh. Chẳng lẽ y là địch hay sao?

Trong lòng Trần Gia Lạc bỗng phát sinh cảm giác khó chịu khôn tả. Chàng tự trách mình, tại sao bình thường khí độ ung dung mà lại tự dưng chán ghét người này như thế. Nhìn y mi thanh mục tú, dung nhan tuấn mã, nhất thời chàng không biết rốt cuộc đây là nhân vật thế nào, bèn hỏi: “Vừa rồi thấy huynh đứng hầu sau lưng hoàng đế, là giả bộ đầu hàng hay đã có quan chức trong triều?”

Lý Nguyên Chỉ đáp: “Cả hai đều không phải.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Chẳng lẽ trong bọn chó săn của triều đình lại có thân nhân của huynh?”

Lý Nguyên Chỉ mắng cha mình là chó săn, lập tức nổi giận phóng kiếm đâm ra, quát lên: “Tiểu tử kia! Tại sao ngươi cứ mở miệng là thóa mạ người ta bừa bãi?”

Trần Gia Lạc thấy đối phương động thủ thật sự, nghĩ thầm: “Quả nhiên tên này có quan hệ với Thanh triều.” Chàng không trách sáo nữa, hét lên: “Hay lắm! Vụ này ta phải đi hỏi sư phụ của ngươi.”

Trần Gia Lạc nghiêng người né kiếm, vừa thẳng người dậy thì Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm đâm thẳng vào ngực. Trần Gia Lạc không thèm tránh né, đợi mũi kiếm chạm đến ngực áo mới đột ngột ép khí thổi ra, lồng ngực thõm vào ba tấc. Chiêu kiếm của Lý Nguyên Chỉ đã hết đà, nên chỉ cách ba tấc mà mũi kiếm không sao đâm thủng ngực chàng nữa. Sợ bị trả đòn, nàng vội vã nhún chân nhảy ngược ra sau, đứng trên một bệ đá của Tam Đàn Ấn Nguyệt. Bệ đá đó cách thuyền khá xa, lại nhẵn nhụi trơn trượt mà nàng vẫn đứng được vững vàng.

Trần Gia Lạc định dùng tay không tỉ thí, nhưng thấy nàng thi triển thượng thừa khinh công của phái Võ Đang nên không dám khinh địch. Chàng từng quyết đấu với Trương Triệu Phong, biết võ công của phái Võ Đang lợi hại, bèn tung người lên bẻ một cành liễu rồi nhảy tới đứng trên một bệ đá.

Lý Nguyên Chỉ thấy thân pháp của chàng cực kỳ nhanh chóng, không khỏi âm thầm kinh hãi. Nhưng đến nước này, nàng chỉ còn cách nhắm mắt đánh liều một trận, bèn nói yếu xìu: “Xem chiêu!” Nàng đưa tả chưởng hộ thân, tung người bay tới bệ đá Trần Gia Lạc đang đứng, kiếm nghiêng một bên đâm vào tay trái của chàng.

Tam Đàn Ấn Nguyệt là ba cái bệ đá nhỏ trên mặt nước Tây Hồ. Người Hàng Châu có tập tục hễ đêm trung thu là lấy giấy ngũ sắc bịt những cái lỗ trên bệ đá lại. Bây giờ trung thu đã qua nhưng giấy dán vẫn còn. Ánh trăng rọi qua lỗ trên bệ đá chiếu xuống mặt hồ, bị đổi màu ngũ sắc tạo nên một vẻ đẹp kỳ lạ, dường như dưới hồ này lại còn hồ khác. Bây giờ lại thêm một bóng xám tro bay lượn trên mặt hồ như chim, kiếm quang nháy động cũng in bóng xuống đáy hồ đầy màu sắc.

Trần Gia Lạc đảo những tránh né, đưa cành liễu phất vào sau lưng đối thủ. Lý Nguyên Chỉ ra chiêu không trúng, chân phải đạp lên bệ đá, dùng thân pháp Phượng Đỉnh Đầu né cành liễu đang đánh tới, rồi hất kiếm đâm chéo lên. Sau đó nàng nhảy qua một cái bệ khác, sử chiêu Ngọc Đới Vi Yêu, trường kiếm xoay quanh mình liên hồi bất tận. Đây chính là một chiêu tinh diệu trong Nhu Vân kiếm pháp.

Lý Nguyên Chỉ vừa xoay kiếm vừa nhảy lên phía trước, nghĩ bụng: “Phen này chắc chắn hắn bị ta ép nhảy qua bệ đá bên trái.” Nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lùi. Đợi nàng nhảy tới, thân thể chàng đột nhiên bắn lên cao, lộn nửa vòng trên không, đầu chúc xuống dưới chân chĩa lên trời, chụp cành dương liễu xuống đầu Lý Nguyên Chỉ.

Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm lên đỡ, nào ngờ cành dương liễu lướt theo sống kiếm mà lượn xuống, vẩy trúng mặt nàng một cái. Lý Nguyên Chỉ trúng đòn, không đau lắm nhưng hổ thẹn đỏ mặt lên. Nàng không kịp nghĩ gì, cúi đầu nhảy qua bệ đá tay trái. Khi nàng đứng vững, nhìn qua thấy Trần Gia Lạc đã đáp xuống rồi, trường bào phất phơ trong gió, đung đưa cành liễu nhẹ nhàng, dáng vẻ thật là tiêu sái.

Lý Nguyên Chỉ tức giận chuyển kiếm qua tay trái, tay phải lấy trong bọc ra một nhúm Phù Dung kim châm. Nàng vẫy tay ba cái, kim châm chia làm ba đường trên dưới bắn tới Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc đang đứng trên bệ đá nhỏ, không có chỗ tránh né. Chàng vội tung cả hai chân lăn thân mình ngã ra khoảng không, ngang bằng với mặt hồ. Tay trái cũng đưa thỏng ra, chỉ còn tay phải ấn lên đỉnh bệ đá. Ba làn kim châm bay veo véo ngang qua, rồi rơi hết xuống hồ.

Chàng lại vận sức vào tả chưởng, uốn người nhảy trở lên bệ đá, người không dính chút xíu nước hồ nào.

Lý Nguyên Chỉ đánh ba chiêu vẫn không ép được chàng rời khỏi bệ đá, tự hiểu mình không phải là đối thủ, bèn hô lớn: “Xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.” Nàng toan chuồn vào ngôi đình nhỏ Tiểu Doanh Châu trên hồ.

Trần Gia Lạc kêu lên: “Ngươi cũng xem chiêu!” Lời chưa dứt người đã nhảy lên, cành liểu vẫy lên mặt nàng. Lý Nguyên Chỉ đã nếm đòn này, vội vung kiếm gạt ra trước mặt, muốn chặt đứt cành liểu của chàng. Nào ngờ cành liễu bỗng biến chiêu, quấn lấy lưỡi kiếm. Nàng cảm thấy một luồng lực đạo muốn giật kiếm đi, đồng thời tay trái của đối phương ấn tới trước ngực của mình. Lý Nguyên Chỉ nghe ngực nóng ran, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, chỉ còn cách buông chuôi kiếm, dùng tả chưỡng đỡ lấy tay trái đối phương, mượn sức nhảy qua bệ đá bên tay phải. Trường kiếm của nàng bay tuốt lên trời, khi rơi xuống, Trần Gia Lạc giơ tay đón lấy.

Lý Nguyên Chỉ hổ thẹn mắng luôn: “Đồ vô liêm sĩ, dám dùng chiêu thức hạ lưu!”

Trần Gia Lạc ngẩn ra hỏi lại: “Ngươi nói bậy! Hạ lưu ở chỗ nào?”

Lý Nguyên Chỉ cũng hiểu đối phương không biết mình là nữ nhân, chiêu đó chỉ là vô tình. Nàng không nói gì nữa, lập tức đề khí tung người nhảy qua đình Tiểu Doanh Châu. Thân pháp của Trần Gia Lạc nhanh hơn nhiều, cũng tung người bay theo.

Lý Nguyên Chỉ tới nơi, nhìn thấy Trần Gia Lạc đang đứng trước mặt, hai tay cầm trường kiếm đưa qua. Nàng bĩu môi nhận lấy, tra kiếm vào vỏ rồi quay đầu đi ngay.

Trần Gia Lạc tỉ thí chiếm được thượng phong, lẽ ra phải thấy vui vẻ mới đúng. Nhưng sao đột nhiên trong lòng chàng lại nổi lên bóng dáng Hoắc Thanh Đồng.

Lúc này trời đã gần sáng. Trần Gia Lạc tháo đóa hoa trên ngực cất vào trong bọc, từ từ đi về phía đông thành. Cửa thành đã mở, người lính giữ cửa nhìn Trần Gia Lạc một cái rồi bắt chéo tay trước ngực khom mình thi lễ. Thì ra y là người của Hồng Hoa Hội.

Trần Gia Lạc gật đầu một cái, đi ra khỏi cửa thành. Người lính Thanh cất tiếng hỏi: “Tổng đà chủ ra khỏi thành, có cần ngựa hay không?”

Trần Gia Lạc đáp: “Thế thì hay quá.”

Người lính cả mừng chạy đi, chỉ chốc lát đã dẫn một con ngựa tốt đến, lại còn dẫn theo hai võ quan cấp thấp. Họ khom mình thi lễ với Trần Gia Lạc, có cơ hội phục vụ tổng đà chủ là cảm thấy muôn phần vinh dự.

Trần Gia Lạc lên ngựa chạy đi. Nhờ ngựa tốt nên ba mươi mấy dặm đường mà chàng chỉ tốn hai giờ, giờ tỵ đã đến An Túc Môn, cửa tây của thành Hải Ninh.

Mười năm chàng mới trở về mái nhà xưa, thế mà cảnh sắc không có gì thay đổi, vẫn hệt như hồi chàng còn nhỏ leo lên tường thành đùa giởn. Ngay cả những ngọn cỏ vẫn xanh như thế, cứ như những ngọn cỏ chàng đã nghịch ngợm khi xưa.

Chàng sợ gặp phải người quen, bèn quay ngựa đi ra ngoại thành phía bắc chừng năm sáu dặm đường. Chàng ghé vào một nông gia để nghĩ ngơi, ăn cơm bữa trưa, ngủ một giấc ngon lành, đợi khuya sẽ vào thành.

Vợ chồng nông gia đó thấy chàng ăn mặc như công tử mà lại nói tiếng địa phương, nên tiếp đãi rất ân cần, xế chiều còn làm thịt gà khoản đãi. Trần Gia Lạc hỏi tình hình mấy năm nay, người nông dân ấy nói: “Ba năm nay hoàng thượng đã hạ chỉ giảm thuế cho toàn huyện Hải Ninh, nói là nể mặt Trần Các Lão.”

Phụ thân Trần Gia Lạc đã tạ thế nhiều năm. Chàng nghĩ mãi không ra tại sao hoàng đế đặc biệt ân sủng quê hương như thế. Ăn cơm tối xong, chàng để lại mấy lạng bạc, cảm tạ nông gia rồi lên ngựa vào thành.

Chàng đến cửa nam, ngồi trên con đê chắn sóng nhìn ra biển cả. Nhớ lại ngày xưa nhiều lần được mẹ dẫn ra đây ngắm thủy triều, khóe mắt chàng không khỏi rưng rưng. Chàng ở Hồi Cương mười năm, ngày nào cũng thấy cát vàng vô tận, bây giờ gặp lại thủy triều và sóng biển, trong lòng sảng khoái vô cùng.

Trần Gia Lạc ngồi hứng gió nhìn ra biển cả, mọi kỷ niệm hồi còn niên thiếu dần dần hiện lại trong trí. Thấy trời đã tối dần, sóng biển trắng xóa đã mơ hồ, chàng mới cột ngựa vào một cây liễu bên đê chắn sóng, rồi rảo bước nhắm hướng tây bắc, về nhà mình.

Mới đến cửa nhà, Trần Gia Lạc đã thấy có chỗ khác lạ. Dinh thự này vốn có tên là Ngẫu Viên, bây giờ tấm biển cũ đã bị tháo ra, thay vào biển mới có viết ba chữ An Lạc Viên, bút pháp chính là ngự bút của Càn Long. Bên cạnh nhà cũ lại có nhiều tòa mới, đình đài lầu các không sao đếm xuẻ. Chàng ngạc nhiên không hiểu, bèn nhảy vào trong tường.

Chàng đi vào trong, thấy ngay một cái đình, trong đình có dựng một tấm bia đá lớn. Dưới ánh trăng, chàng thấy tấm bia này rất mới, khắc sáu bài thơ ngũ ngôn, cũng là bút pháp của Càn Long. Mấy bài thơ này ngụ ý quan tâm đến chuyện an nguy sướng khổ của bá tánh, ca tụng công danh sự nghiệp của Trần gia. Trần Gia Lạc thấy thơ tuy không hay lắm, nhưng đầy vẻ tôn trọng gia đình mình, nên không khỏi vui mừng đôi chút.

Theo một hành lang dài đi về phía tây, qua khỏi ba khoảnh sân nhỏ mới đến Hoài Bích Đường. Trần Gia Lạc thấy trong sảnh có treo một tấm biển mới, ghi ba chữ Ái Nhật Đường, cũng do Càn Long viết. Chàng nghĩ: “Hai chữ Ái Nhật thường để chỉ sự hiếu thảo với cha mẹ, nguồn gốc từ lời người xưa cảm thán ngày tháng phụng sự cha mẹ không được lâu dài, đoàn tụ thêm nmột gày là mừng rỡ một ngày, vì thế ngày nào cũng nên quyến luyến. Hai chữ này nếu do ta viết mới hợp lý, sao hoàng đế lại đích thân viết ở chỗ này? Chẳng lẽ học vấn của y lại mơ hồ đến thế?”

Ra khỏi sảnh đường này, chàng qua Cửu Khúc Kiều đi về phía bắc, vào một rừng trúc râm mát mới đến Huân Hương Quán, nơi mẫu thân cư ngụ khi xưa. Trước quán cũng có một tấm biển mới, ngự bút ghi ba chữ Xuân Huy Đường. Chàng thấy trong lòng chua xót, ngồi bên hòn non bộ thầm nghĩ: “Đây là chữ trong bài thơ Du Tử của Mạnh Giao: Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy.” Bài thơ này thật đúng tâm sự, chàng nhìn vào ba chữ lại càng thương nhớ mẫu thân, lệ lại tiếp tục rơi.

Đột nhiên chàng giật mình một cái, nhảy chồm dậy, trong lòng nghĩ: “Hai chữ Xuân Huy là điển cố chỉ đứa con lưu lạc cảm niệm mẫu ân, ngoài ra không còn ý nghĩa gì khác. Tại sao hoàng đế lại treo tấm bia này trên lầu của mẹ mình? Càn Long không thể hồ đồ bừa bãi đến thế. Chẳng lẽ y đoán rằng mình sẽ về tảo mộ, nên cố ý viết sẵn mấy tấm biển để lấy lòng hay sao?”

Trần Gia Lạc suy nghĩ hồi lâu vẫn chưa hiểu được dụng ý của Càn Long, bèn nhẹ nhàng bước lên lầu. Chàng nép vào một góc, thấy trong phòng không có ai, bố trí vẫn hệt như khi mẹ mình còn sống. Cái tủ lớn bằng gỗ đỏ, giường cham hoa văn, rương viền vàng đựng quần áo vẫn để ở chỗ mà mười mấy năm xưa chàng từng thấy. Trên bàn vẫn có một cây nến đang thắp sáng. Đột nhiên có tiếng bước chân ở phòng bên, rồi có người đi vào.

Đó là một nữ nhân lớn tuổi. Chàng thấy sau lưng, nhịn không nổi chỉ muốn gọi to. Đó là một cô nha hoàn đã theo mẹ chàng từ thời khuê nữ, tên là Thụy Phương. Bà đã nuôi nấng Trần Gia Lạc tử nhỏ cho đến mười lăm tuổi, là người thân thiết nhất trong số gia nhân.

Thụy Phương vào phòng, cầm giẻ chậm rãi lau chùi đồ vật trong phòng. Bà ngồi trên ghế ngơ ngẫn một hồi, rồi lấy dưới gối ra một cái nón trẻ con, vừa mân mê vừa thở dài thở ngắn. Đó là một cái nón đoạn thêu hoa, có đính một miếng ngọc xanh, quanh miếng ngọc là ba hạt châu rất lớn. Đây chính là cái nón mà Trần Gia Lạc đội hồi còn nhỏ. Chàng không nhẫn nại được nữa, chạy ra giữa phòng ôm lấy bà ta.

Thụy Phương kinh hãi định la lên. Trần Gia Lạc vội đưa tay bịt miệng bà, khẽ nói: “Con đây, dì đừng la.”

Thụy Phương nhìn chàng, hoảng sợ đến mức không nói được tiếng nào. Trần Gia Lạc rời nhà từ lúc mười lăm tuổi, mười năm không gặp tướng mạo đã khác nhiều. Hơn nữa, đối với nữ nhân đã ngoại ngũ tuần thì mười năm chỉ chớp mắt là đã qua.

Trần Gia Lạc lại nói: “Dì Thụy Con là Tam Quan đây, dì không nhận ra hay sao?”

Thụy Phương mơ hồ hỏi lại: “Ngươi… ngươi là Tam Quan? Công tử về rồi đấy ư?”

Trần Gia Lạc mỉm cười gật đầu. Thần trí của Thụy Phương dần dần tỉnh táo lại, hình như bà đã nhận ra trên mặt Trần Gia Lạc những nét của cậu bé Tam Quan nghịch ngợm khi xưa. Đột nhiên bà đưa hai tay ra ôm choàng lấy chàng, khóa òa lên.

Trần Gia Lạc vội nắm tay bà nói: “Dì đừng khóc nữa, đừng để người khác biết con đã về đây.”

Thụy Phương Đáp: “Không sao đâu. Họ đi qua tân viên hết rồi, ở đây không còn ai cả.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Tân viên là sao?”

Thụy Phương đáp: “Tân viên mới xây nửa năm nay, tốn không biết bao nhiêu vàng bạc. Nô tì cũng không biết xây để làm gì.”

Trần Gia Lạc biết bà không hiểu được những chuyện như vậy, bèn hỏi: “Má má con bị bệnh ra sao mà phải từ trần?”

Thụy Phương lấy khăn ra lau mắt rồi kể: “Hôm ấy không biết tại sao tiểu thư rầu rĩ vô cùng, ba ngày không ăn không uống rồi ngã bệnh, mười mấy ngày sau thì qua đời.” Nói đến đây bà khóc thút thít. Những tiểu thư nhà giàu Ở Giang Nam khi xuất giá đều đem theo mấy ả nha hoàn về nhà chồng. Mặc dù theo thời gian tiểu thư trở thành thái thái, rồi bà bà, nhưng những nha hoàn đó vẫn gọi chủ nhân của mình là tiểu thư như thời con gái.

Bà vừa khóc vừa nói: “Lúc tiểu thư qua đời vẫn nhớ đến công tử, luôn miệng hỏi: Tam Quan đâu? Tam Quan chưa về hay sao? Ta muốn gặp Tam Quan! Tiểu thư gọi hoài như vậy hai ngày trước khi chết.”

Trần Gia Lạc cũng thút thít nói: “Ta thật là bất hiếu! Mẫu thân sắp chết muốn gặp ta lần cuối mà cũng không được gặp!” Chàng lại hỏi: “Mộ phần của má má ở đâu?”

Thụy Phương đáp: “Ở phía sau tòa Hải Thần Miếu.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Hải Thần Miếu?”

Thụy Phương đáp: “Cũng mới xây mùa xuân năm nay, là ngôi miếu rất lớn ở cạnh đê chắn sóng.”

Trần Gia Lạc nói: “Dì Thụy, con phải qua đó một chút.”

Thụy Phương vội cản: “Không… không được.” Nhưng chàng đã bay ra khỏi cửa sổ rồi.

Đường từ nhà đến đê chắn sóng là con đường mà chàng quen thuộc nhất trên đời, nhắm mắt cũng chạy tới nơi. Thấy ở phía tây có mấy tòa lầu cao ngất trời mà hồi nhỏ mình chưa từng thấy, chàng đoán chắc đó là Hải Thần Miếu, bèn rảo bước đến gần.

Đột nhiên nghe tiếng bước chân rất nhẹ, chàng vội lùi lại, núp mình sau một gốc liễu. Mỗi bên miếu có hai đại hán áo đen bước ra, bốn người gặp nhau trước cửa miếu bèn đưa tay chào nhau, nhưng chân vẫn không dừng lại, tiếp tục tuần tra quanh miếu. Trần Gia Lạc rất ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Hải Ninh chỉ là một huyện ven biển nhỏ xíu. Bốn người này võ công không tệ, không hiểu chúng đến đây âm mưu chuyện gì?”

Chàng đang muốn theo dõi thì lại nghe tiếng bước, bốn người nữa đi vòng từ sau miếu ra ngoài, phục sức giống hệt bốn người vừa rồi. Chàng càng kinh ngạc hơn, đợi bốn người này đi chéo qua nhau rồi đề khí nhảy lên, nằm trên đỉnh tường thò đầu nhìn xuống.

Khắp nơi tổng cộng có hơn bốn chục người, chia từng tốp bốn người đi vòng quanh Hải Thần Miếu tuần tra chăm chú, hoàn toàn không lên tiếng. Võ công của chúng đều không phải tầm thường, cứ như giáo phái nào đó tiến hành tế lễ, hay một nhóm hải tặc hay bang hội gì đó đang tụ tập chia chác, sợ người ta phát hiện nêm mới tuần tra nghiêm mật như thế. Nếu Trần Gia Lạc khinh công không cao, thân thủ không nhanh thì chàng đã bị chúng phát giác rồi. Lòng hiếu kỳ nổi lên, chàng nhẹ nhàng nhảy xuống nấp vào mé tường, tiến lần vào trong đại điện xem xét.

Phía đông điện thờ Việt vương Câu Tiễn, phía tây điện thờ hai vị trung thần Ngũ Tử Tư và Văn Chủng. Chàng vào trung điện, thấy khói nhang đang tỏa, đèn nến đang thắp sáng trưng, tự hỏi không biết ở đây thờ vị thần nào. Khi ngẩn đầu lên, Trần Gia Lạc bất giác giật bắn người.

Thì ra tượng thần ở giữa điện có vẻ mặt thanh tú, cằm lưa thưa râu, giống hệt phụ thân chàng Trần Các Lão lúc sinh tiền. Chàng càng nghĩ càng thấy lạ, nhưng nghe ngoài điện có tiếng bước chân nên vội ẩn mình vào phía sau một cái chuông lớn. Lát sau thì có bốn người đi vào trong điện. Chúng cũng mặc đồ đen, tay cầm binh khí, rảo một vòng trong điện rồi trở ra ngoài.

Bên trái Trần Gia Lạc có một cánh cửa đang mở. Chàng rón rén tới đó nhìn ra ngoài, thấy ngoài cửa là một con đường lát đá trắng rất dài, chạy thẳng ra xa tít trông rất hùng vĩ. Trần Gia Lạc nghĩ: “Mình mà đi trên con con đường đá trắng này chắc chắc sẽ bị phát giác.” Chàng bèn nhảy lên mái của hành lang, chạy một hơi đến đầu bên kia, nhìn qua nhìn lại thấy bên dưới không một ai, liền nhẹ nhàng nhảy xuống.

Trước mặt lại là một tòa thần điện nữa, trước cửa ghi ba chữ Thiên Hậu Cung. Cửa điện không đóng, chàng liền đi vào để chiêm ngưỡng thần tượng. Phen này chàng còn kinh hãi gấp mấy lần vừa rồi. Tượng Thiên hậu này khuôn mặt tròn trịa, mắt hơi xếch lên, giống hệt mẫu thân của mình là Từ Thị.

Trần Gia Lạc càng lúc càng mơ mịt, như người bị rơi vào giữa năm dặm sương mù. Chàng quay lưng chạy ra ngoài, định đi tìm mộ phần của mẹ mình, nhưng lại thấy phía sau Thiên Hậu Cung này có một dãy liều bằng vải vàng, nối nhau liên miên bất tận. Chàng bèn ẩn mình vào góc tường nhìn chăm chú ra ngoài, nhìn đâu cũng thấy bọn đại hán áo đen đang tuần tra quanh những căn liều màu vàng đó.

Đêm nay đúng là Trần Gia Lạc gặp toàn những chuyện không ngờ. Tuy bọn này cảnh giới nghiêm ngặt, nhưng chàng ỷ mình tài cao mật lớn, quyết tâm thám thính rõ ràng. Chàng nằm rạp xuống sát đất, trườn đến cửa lều, đợi hai tên áo đen vừa quay lưng lại là lập tức vạch lều ra chui vào trong.

Chàng cứ nằm sát đất không động đậy gì để nghe ngóng bên ngoài, biết mình chưa bị phát giác mới quay lại nhìn. Trong lều trống rỗng không có đồ vật gì mà cũng chẳng có ai, nhưng mặt đất đã được tu sửa chỉnh tề, một ngọn cỏ cũng không có. Dãy lều này liền sát vào nhau, gìống như một cái dãy hành lang dẫn thẳng về phía sau. Mỗi căn lều đều thắp hai ngọn đèn dầu lớn, soi sáng như ban ngày. Nhìn dọc theo hành lang, hai dãy đèn trông như hai con rồng lửa dài vô tận.

Trần Gia Lạc không khỏi mơ hồ, vừa kinh hãi vừa sợ sệt, nghĩ mãi cũng không hiểu chuyện gì. Chàng cứ từng bước từng bước đi sâu vào, như người mộng du vậy.

Bốn bề vắng lặng, chỉ đôi lúc có tiếng lửa đèn nổ lép bép. Chàng cố gắng hít thở nhẹ nhàng lấy lại dũng khí, đi được vài chục bước thì đột nhiên nghe thấy phía trước có tiếng áo quần loạt soạt, bèn vội nép sang một bên tránh né. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, chàng lại đi thêm mấy bước nữa. Dưới ánh đèn đã thấy phía trước có hai ngôi mộ rất lớn nằm sát nhau, lại có một người đang ngồi trước mộ.

Trước mỗi ngôi mộ có một tấm bia ghi chữ lớn màu đỏ. Một tấm bia viết: Hoàng Thanh thái tử thái phó, Vân Uyên Các đại học sĩ, Công bộ thượng thư Trần, Văn Cần Công, Thế Quan chi mộ. Tấm kia viết: Hoàng Thanh nhất phẩm phu nhân, Trần mẫu Từ phu nhân chi mộ.

Dưới ánh nến, Trần Gia Lạc nhìn thất rõ ràng, trong lòng đau xót, thì ra song thân mình yên nghỉ nơi này. Chàng bất kể xung quanh nguy hiểm trùng trùng, định chạy tới khóc lóc lạy một lần. Vừa bước lên một bước, thấy người đang ngồi trước mộ đột nhiên đứng dậy, Trần Gia Lạc liền dừng lại. Người kia đứng trước mộ phần ngần ngừ một lúc rồi bỗng quỳ xuống, lạy mấy cái rồi nằm luôn dưới đất không đứng dậy. Sau lưng y nhấp nhô, hình như đang khóc.

Thấy cảnh tượng này, Trần Gia Lạc không lo lắng đề phòng nữa. Người này đang khóc lạy trước mộ song thân mình, nếu không phải là thân thuộc thì cũng là học trò hay bạn cũ của phụ thân. Chàng thấy y khóc lóc bi thương, bèn nhẹ nhàng bước tới vỗ vai nói: “Thôi, đứng dậy đi.”

Người kia giật mình một cái rồi đứng bật dậy, nhưng không quay người lại, lớn tiếng hỏi: “Ai đó?”

Trần Gia Lạc đáp: “Ta cũng đến đây bái mộ.” Chàng không để ý đến người kia nữa, cứ quỳ xuống. Nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ lúc sanh tiền, chàng không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa, thút thít nói: “Gia gia! Má má! Tam Quan đến trễ rồi, không sao gặp gia gia má má được nữa.”

Người đứng bên “à” một tiếng, rảo bước toan chạy ra ngoài. Trần Gia Lạc vội đứng dậy, nhảy ngược ra sau hai bước, cản trước mặt y. Hai người vừa nhìn rõ nhau dưới ánh đèn, đều kinh hãi lùi lại.

Thì ra người đang khóc lạy trước mộ song thân Trần Gia Lạc lại là Càn Long, đương kim hoàng đế Mãn Thanh.

Càn Long lắp bắp hỏi: “Ngươi… tại sao giữa đêm tới đây?”

Trần Gia Lạc đáp: “Hôm nay là sinh nhật của mẹ ta, nên ta đến đây bái mộ. Còn huynh đài thì sao?”

Càn Long không đáp, lại hỏi: “Ngươi… ngươi là con trai của Trần Thế Quan ư?”

Trần Gia Lạc đáp: “Không sai! Trong giang hồ rất nhiều người biết chuyện này, chắc huynh đài cũng biết.”

Càn Long lắc đầu: “Ta chưa từng nghe.” Thật vậy, gần đây Càn Long sủng ái đặc biệt Trần gia ở Hải Ninh, bọn triều thần dù biết tân thủ lĩnh của Hồng Hoa Hội là con út của Trần Các Lão, nhưng không tên nào dám nhắc đến. Chúng đều biết Càn Long hoàng đế hỉ nộ khó lường, mình mà nhiều chuyện chưa chắc đã có thưởng, lại không chừng mang họa rơi đầu.

Lúc này Trần Gia Lạc không đề phòng nữa, nhưng phần nghi hoặc tăng lên. Chàng nghĩ: “Ngoài kia cảnh giới nghiêm mật đến thế, thì ra là để bảo vệ hoàng đế đến đây tảo mộ. Tảo mộ giữa đêm, đường đến phần mộ lại được che kín bằng vải vàng, hiển nhiên y không muốn người ta biết. Tại sao hoàng đế lại lén lút đến đây cúng tế đại thần? Hoàng đế có thể vì sủng ái đại thần mà có ý tưởng niệm sau khi chết, nhưng chắc chắn không thể quỳ lạy khóc lóc trước mộ người ta như thế. Chuyện này thật là khó nghĩ.”

Chàng kinh nghi chưa dứt, Càn Long cũng tỉ mỉ nhìn chàng từ đầu đến chân, sắc mặt thay đổi mấy lần. Hồi lâu y mới lên tiếng: “Ngồi đây nói chuyện đi.” Hai người bèn sánh vai ngồi xuống, trước hai ngôi mộ.

Đây là lần thứ ba hai người gặp mặt. Lần đầu gặp ở Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn, hai bên vừa nghi ngờ lẫn nhau vừa có ý làm quen. Lần thứ hai gặp nhau giữa hồ âm thần tranh đấu, thế thành địch thủ. Lần này gặp nhau ý thù địch đã hết. Tấm lòng thân cận tự nhiên nảy sinh.

Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc nói: “Ngươi thấy ta tế mộ giữa khuya thế này, nhất định có phần kỳ lạ. Lệnh tôn hồi sinh tiền đã có ơn với ta. Năm xưa vì chuyện tranh ngôi mà ta bị hoàng huynh âm mưu gia hại, may mà được lệnh tôn xả thân bảo vệ. Ngày hôm nay ta được ở ngôi đại bảo, công lao của lệnh tôn là lớn nhất. Sẵn dịp tuần tra phía nam, đêm nay ta đặc biệt đến đây bái mộ.”

Trần Gia Lạc bán tín bán nghi “à” một tiếng. Càn Long lại nói: “Việc này mà đồn đại ra ngoài thì rất bất tiện. Chắc ngươi cũng không muốn tiết lộ chứ?”

Trần Gia Lạc thấy y tôn kính song thân mình, rất cảm kích nên khẳng khái nói ngay: “Huynh đài cứ việc yên tâm. Tiểu đệ thề trước mộ phần phụ mẫu, việc xảy ra đêm nay quyết không nhắc với bất kỳ ai một câu một chữ.”

Càn Long biết chàng là một nhân vật thủ lĩnh võ lâm, rất trọng chữ tín, huống hồ lại thề trước mộ song thân. Y lập tức yên tâm, ra vẻ hoan hỉ.

Hai người nắm chặt tay nhau ngồi trước mồ, một người là đương kim hoàng đế chí tôn, một người là thủ lĩnh bang hội lớn nhất giang hồ. Hai người đều im lặng suy nghĩ, nhất thời không ai nói tiếng nào.

Hồi lâu, đột nhiên xa xa vọng về tiếng sấm ì ầm. Trần Gia Lạc nghe thấy trước, bèn nói: “Triều lên rồi, chúng ta đến đê chắn sóng xem nhé. Tiểu đệ đã hơn mười năm nay không thấy cảnh này.”

Càn Long nói: “Hay lắm!” Y vẫn nắm tay Trần Gia Lạc, cùng ra khỏi dãy lều.

Trần Gia Lạc nói: “Mười tám tháng tám hàng năm là ngày sóng triều lớn nhất. Mẫu thân tiểu đệ cũng sinh vào ngày đó, nên…” Chàng nói đến đây, bỗng dừng lại giữa câu.

Càn Long lộ vẻ quan tâm, hỏi ngay: “Lệnh đường ra sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Vì thế nên tên chữ của mẫu thân tiểu đệ là Triều Sinh.” Nói xong câu này, chàng hơi thấy hối hận trong lòng, nghĩ bụng: “Tại sao mình lại đem khuê danh của mẹ ra nói với hoàng đế?” Thực ra lúc đó chàng buột miệng nói ra rất tự nhiên.

Mặt hoàng đế hơi đổi sắc, nhẹ nhàng nói: “À, thì ra…” Hình như y nuốt lại nửa câu sau vào bụng, bàn tay đang nắm tay Trần Gia Lạc hơi run rẩy.

Nhìn thấy hoàng đế đi ra, bọn thị vệ đang tuần tra liền bước tới để bảo vệ. Chúng thấy bên cạnh hoàng đế lại có thêm một người, tên nào cũng kinh hãi nhưng không ai dám lên tiếng. Bạch Chấn, Trừ Viên là hai thị vệ lại càng sợ hãi. Có người chui vào trong lều mà mình không phát hiện, lỡ hắn đã mạo phạm đến thánh giá thì mình không sao thoát tội. Đến gần hơn, nhận ra người đứng bên hoàng đế lại là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, nỗi kinh hãi này mới thật không sao lường nổi. Tên nào cũng thấm đẫm mồ hôi lạnh.

Khi thị vệ dẫn ngự mã tới, Càn Long bèn bảo Trần Gia Lạc: “Ngươi cưỡi con ngựa của ta đi.” Thị vệ vội dẫn thêm một con ngựa nữa tới, hai người cùng lên ngựa đi về phía cửa Xuân Hy Môn.

Tiêng ì ầm như sấm động càng lúc càng nghe dữ dội, liên miên bất tận. Đứng ở Xuân Hy Môn tai chỉ nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm, nhưng đưa mắt nhìn ra biển khơi lại rất phẳng lặng. Khoảng bảy tám trượng gần bờ, mặt biển được ánh trăng chiếu mờ mờ như dát bạc.

Càn Long nhìn ra biển xuất thần, hồi lâu mới nói: “Ngươi và ta rất có duyên với nhau. Ngày mai ta quay lại Hàng Châu, ba ngày nữa sẽ về Bắc Kinh. Ngươi cùng đi với ta có được không? Tốt nhất là từ đây về sau ngươi hãy thường xuyên kề cận ta. Ta nhìn thấy ngươi, giống như được nhìn thấy lệnh tôn vậy.”

Trần Gia Lạc hoàn toàn không ngờ y có thể nói những lời thân thiết ôn hòa như vậy, nên nhất thời ngẩn ra không biết cách trả lời.

Càn Long lại nói: “Ngươi văn võ toàn tài, sau này làm đến chức vị như lệnh tôn không phải là khó, so với bôn ba trong giang hồ thì cao hơn gấp vạn lần.” Câu này của hoàng đế chính là hứa hẹn sẽ phong chàng làm Điện Các Đại Học Sĩ. Thanh triều không có tể tướng, đại học sĩ là chức vị cao nhất, chỉ dưới một người mà trên vạn người. Y ngỡ rằng chàng sẽ mừng rỡ khấu đầu lạy tạ, nào ngờ Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của huynh đài, tiểu đệ rất cảm tạ. Nhưng nếu tiểu đệ ham mê phú quý thì chắc chắn không rời nhà Các Lão để đơn thân lưu lạc giang hồ.”

Càn Long hỏi: “Ta muốn hỏi, sao ngươi không chịu làm thế gia công tử mà lại bôn tẩu giang hồ để làm gì? Chẳng lẽ lệnh tôn không dung thứ hay sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Không phải thế. Tiểu đệ làm vậy là phụng mạng mẫu thân. Phụ thân và ca ca của tiểu đệ hoàn toàn không biết, đã tốn rất nhièu công sức tìm kiếm khắp nơi. Mãi đến bây giờ ca ca của tiểu đệ vẫn còn phái người đi tìm kiếm.”

Càn Long nói: “Thì ra mẫu thân ngươi bảo ngươi rời khỏi gia đình. Lạ thật, tại sao lệnh đường lại làm như vậy?”

Càn Long nói: “Trần gia ở Hải Ninh của ngươi đời đời trâm anh, khoa danh thịnh vượng, khắp thiên hạ không có gia đình nào sánh được. Ba trăm năm nay, một nhà mà có hai trăm mấy chục tiến sĩ, ba vị ở ngôi tể phụ, lại còn mười một thượng thư, thị lang, bố chánh. Con số đó thật là kỳ lạ. Lệnh tôn Văn Cần Công làm quan thanh minh liêm chính, thường khóc lóc cầu xin cho dân trước mặt hoàng đế. Có mấy lần làm phụ vương ta bãi triều xong, lớn tiếng cười ha hả nói: Hôm nay Trần Thế Quan lại vì bá tánh mà khóc ngập cả sân chầu, ta chỉ còn cách đồng ý với hắn mà thôi.”

Trần Gia Lạc nghe Càn Long kể sự tích của phụ thân mình, vừa thương tâm vừa vui mừng nghĩ bụng: “Cũng suốt đời vì bá tánh, nhưng gia gia vì bá tánh mà khóc lóc với hoàng đế, còn ta vì bá tánh mà cướp quân lương của hoàng đế. Phương pháp khác nhau, nhưng mục đích lại là một.”

Lúc này tiếng hải triều càng vang dội, lấn át dần tiếng nói của hai người. Nhìn ra xa, thấy rõ một vạch trắng đang từ từ dịch vào dưới ánh trăng.

Trong chốc lát gió mạnh ập tới, vạch trắng ở phía trước đã đến gần bờ, tiếng ầm ầm còn vang hơn tiếng sấm. Âm thanh vang dội như trăm vạn đại quân đang xung phong giữa vô số trống đập rầm rầm hiệu lệnh, có tiến không lùi.

Tay trái Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc cùng đứng trên con đê chắn sóng, tay phải nhẹ nhàng phẩy cây quạt xếp. Y nhìn thấy hải triều mãnh liệt xông tới, không khỏi kinh hãi đôi chút. Tay phải vừa lỏng ra, cây quạt xếp đã rơi ra ngoài đê, vướng lại trên những bậc thang. Đây là cây quạt xếp mà Trần Gia Lạc đã tặng cho y.

Càn Long “úi chà” một tiếng. Bạch Chấn lập tức nhảy tới, đầu chúc xuống đất, chân ngược lên trời, nhào xuống con đê để nhặt. Tay trái hắn ấn lên một tảng đá của con đê, tay phải đã chụp trúng cây quạt xếp.

Nhưng hải triều càng gần càng nhanh, bức tường nước vĩ đại dựng thẳng lên chạy tới sắp đập vào đê. Rõ ràng Bạch Chấn sắp bị sóng thần cuộn vào lòng biển, bọn thị vệ đồng thanh la lên kinh hãi. Bạch Chấn tập trung hết thần khí, thi triển khinh công tột mức, trèo lên thang cấp của con đê. Nhưng hắn mới đến nửa chừng, hải triều đã đập xuống đầu.

Trần Gia Lạc thấy nguy bèn cởi ngay trường bào, xẻ đôi rồi nhanh tay thắt lại cho dài hơn, ném xuống đầu Bạch Chấn. Bạch Chấn nhảy lên một cái cuối cùng, đưa tay túm được một đầu của áo bào, lúc đó nước đã ập tới chân hắn. Trần Gia Lạc vận lực giật mạnh, kéo được hắn lên bờ đá. Lúc đó Càn Long và bọn thị vệ thấy thế triều cực lớn, đã lùi vào cách bờ đê mấy trượng.

Bạch Chấn lên được mặt đê thì hải triều sắp phủ qua đê. Trần Gia Lạc từ nhỏ đã chơi ở đây, nên rất quen thuộc sức nước ở con đê chắn sóng này. Chàng vừa giật Bạch Chấn lên vừa tức tốc nhảy lùi mấy bước. Khi Bạch Chấn rơi xuống đất thì mực nước ở mặt đê đã sâu mấy thước rồi. Trần Gia Lạc hất tay phải một cái, ném cây quạt xếp về phía Trừ Viên. Sau đó chàng dùng cả hai tay ôm lấy Bạch Chấn, chạy tới một cây liễu mọc phía trong đê.

Dưới ánh trăng lấp lánh, mặt biển long lanh như dát bạc, bọt sóng tung lên trắng xóa tựa tuyết rơi, những đợt sóng nối nhau như ngàn mây cuộn. Sóng đập vào bờ đá rầm rầm như ngàn kỵ mã phi nước đại, chỉ trong chốc lát đã xéo lên Bạch Chấn. Hắn ngập chìm dưới làn sóng dữ, lại không biết thủy tính nên chỉ còn biết nín thở mà chờ.

Bạo phát bạo tàn, sóng biển dâng lên nhanh thì rút cũng nhanh, chỉ khoảnh khác nước đã rút hết ra ngoài đê chắn sóng. Từ nãy Bạch Chấn cứ ngậm miệng nín thở mà ôm gốc liễu, mười ngón tay như mười cái đinh sắt cắm chặt vào thân cây. Đợi nước triều rút đi, hắn mới buông tay rồi lùi lại phía sau.

Càn Long hoan hỉ nhận lại cây quạt xếp từ tay Trừ Viên. Thấy Bạch Chấn trung thành anh dũng, y bèn hứa khi về sẽ thưởng cho một cái áo ngắn màu vàng. Bạch Chấn còn ướt đẫm người, vội quì xuống đất khấu đầu tạ ơn.

Càn Long quay lại nói với Trần Gia Lạc: “Người xưa từng so sánh ngọn triều này với mười vạn quân, thập vạn quân thanh bán dạ triều. Cảnh sắc như thế này có thể gọi là thiên hạ kỳ quan.”

Trần Gia Lạc nói: “Tiên vương từng sai ba trăm cung thủ bắn hải triều, nhưng hải triều có suy giảm chút nào đâu? Phải thuận theo đại thế tự nhiên, ráng sức cản trở thật không có lợi.”

Càn Long nghe chàng ám chỉ đến những lời đã nói ở Tây Hồ, biết chàng nhất định không chịu vào triều làm quan, bèn nói: “Mỗi người đều có chí riêng. Ta không thể cưỡng ép ngươi, nhưng muốn khuyên ngươi một câu.”

Trần Gia Lạc nói: “Xin thỉnh giáo.”

Càn Long nói: “Hồng Hoa Hội của các ngươi đã có nhiều hành vi phản nghịch. Những gì đã qua, ta có thể không truy cứu. Nhưng từ đây về sau, tuyệt đối không được làm những việc vô pháp vô thiên như thế nữa.”

Trần Gia Lạc đáp: “Những việc chúng ta đã làm và sẽ làm đều vì nước vì dân, chỉ cần tự thấy yên lòng là được.”

Càn Long thở dài: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Hồi lâu y mới nói tiếp: “Nhưng vì một đêm tri ngộ thế này, sau này tiêu diệt Hồng Hoa Hội ta sẽ tha chết cho ngươi một lần.”

Trần Gia Lạc nói: “Nếu thế thì khi huynh đài lọt vào tay Hồng Hoa Hội, chúng ta cũng sẽ không hại mạng huynh đài.”

Càn Long cười ha hả, lớn tiếng nói: “Trước mặt hoàng đế mà ngươi cũng không chịu thua thiệt chút nào. Hay lắm! Đại trượng phu một lời đã nói bốn ngựa khó theo. Bây giờ chúng ta vỗ tay thề thốt, sau này không được hại nhau.”

Hai người liền vỗ tay nhau ba cái. Bọn thị vệ thấy hoàng đến nghe Trần Gia Lạc ăn nói đại nghịch bất đạo mà không nổi giận, lại còn kích chưởng lập thệ với chàng, đều hết sức kinh ngạc.

Càn Long lại nói: “Thủy triều cứ tràn vào mãi thế này, nếu không nhanh chóng sửa chữa con đê cho kiện cố, ruộng nương phần mộ bá tánh nhất định có ngày bị cuốn trôi. Chắc ta phải xuất tiền công quỹ hạ lệnh xây dựng lại con đê chắn sóng này để bảo vệ sinh linh.”

Trần Gia Lạc thẳng người cung kính nói: “Đây là đại nghiệp yêu dân, bá tánh Giang Nam sẽ cảm kích vô cùng.”

Càn Long gật đầu rồi nói: “Hơn nữa lệnh tôn có công với nước, dĩ nhiên ta không nỡ thấy phần mộ của ông ấy bị nước biển phạm vào.” Y quay lại bảo Bạch Chấn: “Ngày mai truyền dụ cho tổng đốc Cao Tấn và tuần vũ Trang Cửu Cung, lập tức đến Hải Ninh toàn lực thi công.”

Biển đã lặng trở lại, mặt biển nhấp nhô những gợn sóng nhỏ như nồi canh đang sôi. Càn Long lại nắm tay Trần Gia Lạc dắt đến bờ đê. Bọn thị vệ định đi theo, nhưng Càn Long vẫy vẫy tay ra lệnh bảo chúng dừng lại.

Hai người đi dọc theo bờ đê được vài chục bước, Càn Long nói: “Lúc nào ta cũng thấy sắc diện của ngươi có ý không vui. Ngoài chuyện tưởng nhớ song thân ra, chắc hẳn trong lòng ngươi còn điều gì chưa giải quyết được. Ngươi không chịu ra làm quan thì thôi, nhưng có yêu cầu gì cứ nói cho ta biết.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tiểu đệ chỉ muốn xin một việc, nhưng sợ huynh đài không đồng ý.”

Càn Long nói: “Chỉ cần ngươi muốn, không gì là không được.”

Trần Gia Lạc mừng rỡ hỏi: “Thật thế ư?”

Càn Long dõng dạc đáp: “Quân vô hí ngôn.”

Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ muốn xinh huynh đài thả nghĩa huynh Văn Thái Lai của tiểu đệ ra.”

Càn Long khẽ giật mình. Y không ngờ Trần Gia Lạc xin việc này, nên nhất thời không trả lời ngay.

Trần Gia Lạc bèn hỏi: “Rốt cuộc thì nghĩa huynh của tiểu đệ đã đắc tội với huynh đài ở điểm nào?”

Càn Long nói: “Người này nhất định không thể thả, nhưng ta hứa với ngươi thì không thất tín. Thôi, ta không giết hắn là được rồi.”

Trần Gia Lạc nói: “Vậy thì bọn tiểu đệ chỉ còn cách động thủ để cứu nghĩa huynh. Tiểu đệ xin huynh thả, không phải sợ cứu không nổi, chỉ sợ động đao thương làm tổn thương hòa khí giữa hai người chúng ta.”

Hôm qua Càn Long đã nhìn thấy thanh thế của Hồng Hoa Hội, biết câu nói của chàng không phải là khoe khoang lỗ miệng. Y liền nói: “Hảo ý thì ta nhận. Nhưng nói thật với ngươi, ta quyết không để người này thoát khỏi tay mình. Ngươi đã quyết ý phải cứu, thì ta chỉ còn cách đem hắn ra giết.”

Trần Gia Lạc gằn giọng: “Nếu Văn tứ ca của tiểu đệ bị giết, e rằng từ nay huynh đài ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng được nữa.”

Càn Long lạnh lùng đáp: “Nhưng nếu không giết hắn, ta lại càng ăn không ngon, ngủ không yên.”

Trần Gia Lạc nói: “Nếu vậy thì ngôi chí tôn của huynh đài không tiêu diêu tự tại bằng con người mây ngàn hạc nội như tiểu đệ.”

Càn Long không muốn nhắc đến Văn Thái Lai nữa, bèn hỏi sang chuyện khác: “Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”

Trần Gia Lạc đáp: “Hai mươi lăm.”

Càn Long thở dài: “Ta không so bì với cách sống nhàn vân dã hạc của ngươi, nhưng phải so bì với cái thanh xuân tuổi trẻ của ngươi. Ôi, bất kể sự nghiệp lẫy lừng cái thế đến đâu, khi tuổi thọ đã hết thì cũng phải trở về cát bụi mà thôi.”

Hai người dạo bước một lát nữa, Càn Long bỗng hỏi: “Ngươi có mấy vị phu nhân rồi?” Không đợi chàng trả lời, y lấy trong người ra một miếng ngọc rồi nói: “Miếng bảo ngọc này có thể gọi là trân quí hiếm có trên đời, ngươi cầm về mà tặng cho phu nhân.”

Trần Gia Lạc không nhận, đáp: “Tiểu đệ chưa thành hôn.”

Càn Long cười rộ lên: “Thì ra ngươi nhìn cao quá, đến nay vẫn chưa có ý trung nhân. Thôi thì miếng bảo ngọc này để ngươi dành tặng cho ý trung nhân tương lai, coi như vật đính ước cũng được.”

Mảnh ngọc này sắc óng ánh, dưới ánh trăng phát ra ánh sáng dịu dàng. Trần Gia Lạc đa tạ rồi nhận lấy, cầm vào tay lập tức cảm thấy ấm áp. Thì ra đó là một miếng noãn ngọc trân quí lạ thường. Trên ngọc lại dùng chỉ vàng khảm bốn hàng chữ chìm rất nhỏ: “Tình sâu quá chẳng bền. Cương cường quá tất nhụt. Khiêm hòa như quân tử. Ôn nhuận như bảo ngọc.”

Càn Long thấy thần sác Trần Gia Lạc lạnh nhạt không chút tình thân mật, nhưng y vẫn nói rất dịu dàng: “Ta biết ngươi trách người Mãn Châu chúng ta chiếm cứ giang san người Hán, nên trong lòng ôm hận, luôn luôn chống đối. Nhưng ta với ngươi, tuy một Mãn một Hán mà vẫn có thể thân tình như huynh đ