← Quay lại trang sách

Búng Ruồi

Cụ Án nghiêng người nhấc cái vung nồi cá kho dứa đặt trên cái hoả lò con nhìn vào trong nồi và hít mũi mấy cái. Lứa cá kho này cụ thấy ngon hơn mọi lần. Trong đời cụ, cụ chỉ thích nhất ăn cá kho dứa, mùa nào không có dứa tươi thì cụ nấu cá với dứa hộp và Hải đi Hà Nội mua đạn bao giờ cũng nhớ mua mấy hộp dứa biếu cụ. Độ trước khi cụ Án ông còn sống bắt cụ rời nhà quê lên ở trên tỉnh, cụ được nếm đủ các thứ sơn hào hải vị vừa rồi, báo có đăng ông Tổng Nghi Xương trúng số một trăm.

Cụ Án hỏi đột ngột:

- Báo có đăng cơ à? Trúng một trăm thì cụ align="justify">Đông nhìn cụ Án ngẫm nghĩ không biết cụ Án hỏi thế thì việc đáng tin hay là cụ sợ trúng số nếu đăng trên báo, ai cũng biết cụ có tiền ngồi, vừa tầm tay với.

Cụ đậy vung nồi và tay lại cầm lấy cái que đập ruồi. Chỉ trừ lúc giã trầu ở cối, còn thì lúc nào tay cụ cũng cầm que đập ruồi. Cụ ghét và sợ ruồi lắm. Nhưng ở chung quanh chỗ cụ ngồi thì lại có đủ các thứ để nhử ruồi đến thật nhiều; ngoài nồi cá, lại có những sâu cá mắm, những chai mật ong và những quả chuối bao giờ cũng chín đen chín nát. Vì cụ bại một chân đi phải chống nạng nên ít khi cụ đi lại. Giang sơn cụ cụ Án nói mãi về ông Sứ Ê-đà và quên cả câu chuyện để dành tiền. Đông phải đưa câu chuyện quay về việc cũ.

- Cụ Ê-đà, Chỉ trừ có số tiền cụ để dành được là cụ giấu ở chỗ khác.

Vì cụ không đi lại được nên chỉ đánh được những con ruồi ở trên giường. Để bắt ruồi chung quanh giường cụ nuôi cò ruồi, nhưng con cò không được bắt ruồi trên giường. Có con ruồi nào vừa bay đến đậu trên chiếu mà con cò định mổ thì cụ đã nhanh tay đập tranh trước; đập xong cụ hất ruồi xuống đất cho cò ăn. Lần nào con cò nhanh hơn mổ cướp của cụ một con ruồi trên chiếu là cụ lấy cán que đập ruồi đập vào đầu con cò một cái để phạt nó hỗn. Có một con cò lâu dần hiểu được chỗ đó nên không bao giờ mổ tranh ruồi của cụ; cụ thích lắm và khoe với tất cả mọi người, nhưng sau con ấy bị chó cắn chết mất.

Gian nhà cụ ngồi thành thử chia ra ba từng rõ rệt. Từng trên là cái giá treo đựng các thức ăn; từng giữa là cái giường cụ với đủ các thứ đồ dùng như ống nhổ, ống vôi, hoả lò, than củi, ấm nước, chăn gối; từng dưới cùng là cái nền nhà trống không với một con cò ung dung đi qua đi lại.

Mùa đông ít ruồi, nên con cò đứng yên lặng đầu đặt trên cánh thiu thiu ngủ dưới nắng ở chỗ bực cửa. Cụ Án đưa mắt tìm nhưng không thấy một con ruồi nào, thấy có con nhện con, cụ đập nó một cái và hất xuống đất. Con cò nghe tiếng đập, mở mắt, nghếch mỏ nhìn vào rồi lại đặt đầu trên cánh nhắm mắt ngủ. Cả cái ấp rộng, không có một tiếng động. Hai vợ chồng Hải hôm ấy sang bên Bằng thăm một người anh cả và cho cả hai đứa con đi. Bác Huệ làm vườn thấy Hải cứ đứng yên, còn cụ Án chỉ nói rất ngọt ngào với bác Huệ:

- Bận sau đừng có thế nữa.

Bác Huệ cúi đầu dạ", bác người thì lại là tiếng người lạ, chưa từng nghe thấy lần nào. Cụ Án đã gần bẩy mươi tuổi nhưng tai cụ còn sáng lắm. Chỉ nghe tiếng gọi cũng biết được người gọi cổng là ai và ít khi cụ lầm. Lần này cụ gọi bác Huệ đến, dặn cẩn thận xem đích xác là ai và báo cụ trước rồi mới được mở cổng. Cụ nghĩ đến số bạc để dành của cụ. Nhà có súng nhưng Hải hôm nay lại đi vắng cụ cần đề phòng.

Một lúc bác Huệ vào trình:

- Bẩm cụ lớn, cậu giáo Đông ạ.

- Cậu giáo Đông nào?

- Bẩm cụ lớn, cậu giáo Đông, con cụ trợ tá Tiên Yên. Hồi cụ lớn nhà ngồi ở phủ Tiên Yên thì cụ thân sinh ra cậu giáo làm trợ tá. ra làm cho hai chân của Ðại đứng không còn vững nữa.

- Cô bé này thật là một thiêân tài. Chị mới dạy cho em có một bài nhỏ mà em đã tiến xa hơn chị cả chục năm. Thế thì trước đây em Chàng biết chắc là cụ Án có tiền để dành đúng như lời bà Ký Ân đoán. Cụ lại có tính hà tiện: cá kho dứa ngon hơn yến, nước trà thiu và những quả chuối để đã đen nát đủ chứng tỏ điều đó và như thế tất cụ tham lợi. Bác Huệ mới quên đóng cổng mở cổng, nhìn Đông từ đầu đến chân:

- Giá đi ngoài phố gặp cậu thì cháu quả không sao nhận ra được. Cậu nói tên ra, cháu nhớ lại rõ lắm.

Bác Huệ khép cửa rồi cuống quít đưa ông giáo Đông vào. Bác mừng lắm vì bất cứ một sự gì có liên quan đến đời bác lúc đi hầu cụ Án ở các huyện phủ cũng làm bác vui sướng như được sống cái thời vinh quang đã qua.

- Bẩm cậu, quan lớn Trợ nhà ta...

Đông vội vàng đáp:

- Thầy tôi đã mất.

Nói thế, nét mặt Đông cũng buồn hiu như là cha mình chết thật rồi. Bác Huệ thấy câu hỏi của mình làm Đông buồn vội nói sang chuyện khác:

- Bác trẻ lâu nhỉ. Tôi trông bác vẫn y nguyên như ngày trước.

Vào đến nhà, Đông đi thẳng đến chỗ cụ Án ngồi, hai tay giơ ra đằng trước, tươi cười nói:

- Bác còn nhớ cháu không? Cháu trông bác vẫn thế, chỉ khác Hải đáp:

- Ở nhà quê không có việc gì thì đi săn lảm nhảm cho vui.

Mợ Ấm nói:

- Nhà tôi hay đi bắn lại một tí gì, cả đến ông Trợ Tiên Yên cụ cũng không nhớ là ai và nếu có ông Trợ Tiên Yên thì cụ có được nhìn mặt ông ta hay không cụ cũng không biết. Cụ mời:

- Ông ngồi đây.

Đông thân mật ngồi ngay xuống giường. Mắt chàng đưa gì Đông, và Đông cũng nghĩ không cần đứng lên chào. Đông nói với mợ Ấm:

- Thịt vịt trời ngon lắm, nhưng phải biết cách làm... ngon nhất align="justify">- Thơm nhỉ.

- Cá kho dứa hỏi:

- Nấu vịt trời có cần cho sả không, ông?

- Thưa bà không. Cần phải cho rượu vang hay rượu trắng. Thế thường bà nấu vịt trời với gì?

Mợ Ấm đáp:

- Thường thường ấy à? Thường thường thì tôi chỉ nấu làm gì?

Đông đưa mắt thấy bác Huệ vẫn đứng ở bực cửa:

- Thưa bác cháu dậy học.

- Để hôm nào tôi đi Hà Nội tôi cũng lấy cây súng của tôi về đây cùng ông đi bắn Bắn vịt trời thì vui lắm nhưng phải cái lội nên như có mùi thiu.

Cụ Án đập một con ruồi trên áo Đông rồi gạt lên.

Chàng vừa nói vừa cười. Chàng không có súng nhưng có thể mượn súng của bạn. Bắn vịt trời ở vùng nhà quê này thì chẳng sợ ai khám. bao giờ nát con ruồi. Ông không sợ bẩn áo.

Một lúc sau lại có con ruồi đậu trên thành chén của Đông. Cụ Án giơ que rình đợi nó bay xuống chiếu để đập. Đông đưa tay hất một cái bỏ ra chiếu một con ruồi chết. Cụ Án nhìn Đông lấy làm ngạc nhiên lắm.

- Thưa bác, cách bắt ấy cũng không khó gì. Cần phải đón đầu nó, con ruồi tự khắc vào nằm trong tay mình.

Cụ Án giơ que đập thêm con ruồi một cái rồi hất xuống đất. Đông đưa mắt tìm và thấy một con ruồi đậu ở trên cái que bình vôi, giơ ngón tay búng một cái, con ruồi rơi lăn xuống chiếu. Cụ Án nhìn, mỉm cười một cách ngây thơ như đứa trẻ con:

- đi săn nữa. Để đạn giữ trộm cướp còn hơn.

Đông thấy mình nói hớ một tí mà mưu mô thành hỏng cả. Chàng không bực mình vì câu nói nghĩ thầm mình đến đây gặp mợ Ấm; thực ra nghĩ lại chàng thấy sự làm thân với Hải một người đàn ông là con và chồng hai người đàn bà có tiền, là một sự rất nguy cho công việc cho bác ta đi được cả người đàn bà, cả tiền. Chàng bực mình chỉ vì chàng đã cố tránh nói hớ mà vẫn không tránh khỏi. Trong nghề chàng một câu nói hớ có thể làm mất Mỹ theo, vì thế họ văn minh gấp hai nước Pháp. Cả người Tầu bây giờ cũng bỏ đạo Phật, đạo Khổng, theo đạo Tin lành, bác ạ.

Rồi Đông mở cặp rút ra mấy cuốn sách về đạo mở qua cho cụ Án xem tranh vẽ. Cụ Án nói:

- Tôi bây giờ già rồi chẳng hiểu gì cả.

Đông không cần cụ Án hiểu hay tin đạo: trông vẻ mắt cụ nhìn Đông thấy rõ là cụ đã tin mình lắm. Nhưng sao bác người nhà đứng kia lâu thế? Đông đăm đăm nhìn vào gáy bác Huệ và thầm ra lệnh:

- Đi đi! Đi đi!

Chàng có nghiên cứu về thuật thôi miên và đã có lần làm một đứa trẻ con ngủ thiếp đi. Nhưng còn nhìn vào gáy một người và bắt người ấy đi thì chàng không dám đang bay. Ruồi đang bay ít khi bắt được thế mà lần này may quá, chàng hắt có một cái đã bắt ngay được nó. Chàng cười đưa cho cụ Án xem con ruồi nằm align="justify">- Bác ra dỡ nốt chỗ khoai để chốc nữa luộc một mẻ. Cậu Ấm mợ Ấm đi về chắc là đói bụng.

Đông nhẹ hẳn người. Chàng kéo dài thêm câu chuyện về đạo một lát cho cụ Án khỏi nghi rồi chuyển sang việc để dành tiền.

- Thưa bác cháu dậy học cũng không kiếm được bao nhiêu, lại cần đi nơi này nơi khác, tốn kém quá. Nhưng không đi không được, đức Chúa Trời không cho. Cũng may ông chủ nhất công ty Công Ích để dành tiền phải đi đây đi đóáu, đòi đến ăn chuối ăn cá kho và bắt ruồi nghịch với mẹ mình, cả hai người đều ngơ ngác nhìn Đông như nhìn một con vật lạ. Đông thì tưởng họ ngơ ngác vì phục cái tài bắt ruồi bay của mình.