← Quay lại trang sách

Chương 5 Kiếm Việt Vương-1

“Chào mừng ghé thăm”. Gã chủ tiệm ngẩng đầu lên khi thấy người bước vào tiệm, bàn tay đang lau chiếc gối gốm liền dừng lại.

Người bước vào là một người đàn ông trung niên tuổi chừng bốn mươi, gương mặt với các đường nét rõ ràng, trên sống mũi cao là cặp kính gọng vàng. Tuổi tác để lại trên trán ông mấy nếp nhăn nhưng vẫn không làm giảm bớt khí chất nho nhã của ông. Tay ông vịn vào một chiếc batoong, có vẻ như chân ông đi lại hơi khó khăn.

“Giám đốc, đã lâu không gặp”. Mặc dù có chút ngạc nhiên nhưng khuôn mặt gã chủ tiệm vẫn giữ nụ cười quen thuộc.

Người vừa tới là giám đốc viện bảo tàng thành phố vừa mới nhậm chức, gã chủ tiệm từng đọc không ít tin về ông trên báo chí.

Qua ánh đèn mờ ảo trong tiệm, giám đốc sững sờ nhìn gương mặt gã chủ, một hồi lâu sau, mới thốt lên như không dám tin vào mắt mình: “Hơn hai mươi năm không gặp, sao cậu không thay đổi chút gì...”

Nụ cười trên khuôn mặt gã chủ trở nên sâu hơn.

Ông giám đốc năm nay bốn mươi lăm tuổi, tốt nghiệp khoa lịch sử của một trường đại học danh tiếng. Làm việc hơn mười năm trong viện bảo tàng của vùng này, đầu năm nay cuối cùng cũng tiếp nhận vị trí giám đốc, trở thành giám đốc mới của viện bảo tàng.

Thực ra khi còn nhỏ ông giám đốc không có chút hứng thú nào với những thứ cổ vật lạnh lẽo này, nhưng một năm nọ khi ông mười mấy tuổi, ông gặp một người vô cùng đặc biệt, sau khi xảy ra một chuyện lớn làm thay đổi cuộc đời, ông liền trở nên đam mê cổ vật.

Nhưng ông không ngờ sau bao nhiêu năm giờ trùng phùng, tướng mạo người ấy không hề thay đổi chút nào, vẫn trẻ trung như hơn hai mươi năm trước.

Có điều, chuyện này là không thể.

Sự bất ngờ ban đầu của ông giám đốc chỉ lướt qua rồi biến mất, ông tự cười nhạo mình: “Chắc là tôi nhận nhầm người rồi, tôi có người bạn đã lâu lắm không gặp, hơn hai mươi năm trước ông ấy nhìn rất giống cậu”.

Gã chủ tiệm trẻ tuổi vẫn giữ nụ cười máy móc, gã phát hiện ra ông giám đốc này không để ý tới câu “đã lâu không gặp” anh vừa nói, nên coi như mình chưa hề nói câu ấy, gã thuận theo ý ông giám đốc, tiếp lời: “Người ông nói chắc là bố tôi.”

Đôi mắt giám đốc sáng lên: “Vậy lệnh tôn đang ở đâu?”.

“Bố tôi đang đi du lịch nước ngoài, gần đây chắc đi Ai Cập, trong thời gian ngắn thì chưa về được”. Gã chủ tiệm trẻ tuổi mỉm cười đáp, thái độ thành thật và thẳng thắn khiến người khác không thể nghi ngờ.

“Ồ, vậy thì tiếc quá”. Ông giám đốc tiếc nuối đẩy gọng kính trên sống mũi: “Tiệm đồ cổ này mới mở phải không? Trước đây tôi chưa từng nghe nói”.

Là giám đốc viện bảo tàng, đương nhiên ông nắm rõ các tiệm đồ cổ lớn bé trong thành phố này như lòng bàn tay. Mặc dù hiện nay trong tiệm đồ cổ rất ít khi xuất hiện đồ cổ có giá trị thực sự, nhưng không có gì là tuyệt đối. Tối nay ông tới thăm nhà bạn, lúc đi qua con phố này thì phát hiện ra tiệm đồ cổ có cái tên kỳ lạ này.

Á Xá.

Cổ vật không thể nói chuyện, chúng mang trong mình những câu chuyện trăm nghìn năm, chẳng ai lắng nghe... giống như câu nói cửa miệng của người ấy.

“Mở được một thời gian rồi”. Gã chủ tiệm cười đáp, gã mở tiệm này ít nhất đã hai, ba năm, nhưng do tên tiệm lạ lùng, nhiều người không nhận ra đây là tiệm đồ cổ. Người đẩy cửa bước vào vô cùng ít ỏi, nói gì tới khách quen hay lui tới.

Có điều gã mở tiệm đồ cổ này ở đây cũng không phải để kiếm tiền, người có duyên với đồ cổ sớm muộn sẽ xuất hiện.

Chỉ là không ngờ tối nay giám đốc lại đẩy cửa Á Xá bước vào, điều này khiến gã chủ tiệm chau mày.

Ông giám đốc ngẩng đầu nhìn ngắm xung quanh, cảm thấy bất mãn với ánh sáng yếu ớt ở đây, ông bắt đầu dùng giọng dạy dỗ của tiền bối với hậu bối: “Tiệm đồ cổ sao lại mở đến tối thế này? Cậu không biết thế nào là ‘không nhìn màu dưới ánh đèn’ à?”.

“Không nhìn màu dưới ánh đèn” là quy tắc trong nghề bán đồ cổ. Ý nói sau khi trời tối tiệm đồ cổ nên đóng cửa, do ánh sáng không tự nhiên dễ vàng thau lẫn lộn, mua vào hoặc bán đồ giả ra ngoài.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân ông đẩy cửa bước vào tiệm đồ cổ này không chút do dự, hơn nữa khi thấy chủ tiệm trẻ tuổi thế này ông càng chau mày hơn.

Xét cho cùng, ông cảm thấy những thứ như đồ cổ nếu không có nhiều năm tích lũy kinh nghiệm thì khó mà nắm bắt hết được. Chàng thanh niên trẻ tuổi trước mặt cũng chỉ ngoài hai mươi, khiến người ta có cảm giác không đáng tin cậy.

Có điều, năm xưa khi ông gặp người ấy, cũng tầm tuổi này...

Nhìn khuôn mặt quen thuộc dưới ánh đèn, ông giám đốc sững người, rồi lắc đầu. Ông nói với bản thân: Người ấy rất khác, khác tất cả mọi người.

Gã chủ tiệm vẫn mỉm cười lặng lẽ, tiệm đồ cổ của gã vốn không bán hàng, đóng hay mở hoàn toàn do ý thích của gã. Chỉ là trước nay gã không ở lại một chỗ nhiều năm, lúc này thấy người đã nhiều năm không gặp bỗng dưng xuất hiện trước mặt mình, dung nhan già đi, chỉ có thể nhìn thấy chút bóng dáng năm xưa, lại dùng khẩu khí xa lạ nói chuyện với gã, đấy quả là trải nghiệm mới mẻ đối với gã.

Giám đốc nhìn mọi đồ vật trong tiệm với ánh mắt soi mói, đương nhiên thấy ngay chiếc gối sứ gã đang lau chùi trên quầy.

“Đây là... gối sứ xanh của Việt Dao?”. Đôi mắt giám đốc bừng sáng, cúi người cẩn thận cầm nó lên.

Cốt gốm màu xám, chắc chắn, mịn màng. Men là men xanh, trong suốt trơn bóng, như ngọc như băng. Bên trên có hoa văn gân lá, tay sờ vào mát rượi, dựa trên kinh nghiệm ông phán đoán, niên đại của chiếc gối sứ này ít nhất cũng vào khoảng giữa Ngũ đại Thập quốc và đời Đường, còn nhìn từ góc độ màu sắc, thậm chí có thể là “bí sắc sứ” trong truyền thuyết.

Về “bí sắc sứ”, người đời trước đây nhắc tới nó đều dựa trên văn kiện đời Tống, nói vào thời Ngũ đại Thập quốc, loại sứ này được nung riêng cho cung đình nước Ngô Việt ở Hàng Châu, thần dân không được sử dụng. Còn về màu men, cũng giống như tên gọi của nó, bí ẩn chứ không phô trương, người đời sau chỉ biết đến vẻ đẹp khác thường của nó qua thơ văn mà thôi. Cho đến những năm tám mươi của thế kỉ XX, một lô bát đĩa “bí sắc sứ” khai quật được ở bảo tháp chùa Phù Phong Pháp Môn, Thiểm Tây mới khiến người đời biết được bí sắc sứ thật sự là như thế nào.

Mà lúc này trong tay ông chính là sứ xanh Việt Dao cực phẩm.

Ông giám đốc thấy cổ họng khô khốc. Ông không cảm thấy có gì lạ lùng khi cổ vật thuộc cấp quốc gia xuất hiện trong tiệm đồ cổ này. Với sự hiểu biết của ông về người đó, dù tiệm đồ cổ này có nhiều thứ quý giá hơn nữa cũng không có gì lạ.

Bởi đây là tiệm của người đó.

Gã chủ tiệm hứng thú nhìn sắc mặt ông giám đốc thay đổi liên tục, gã ngồi xuống, lấy nước sôi đun trên bếp lò, pha hai cốc trà Long Tỉnh, im lặng đặt lên trước mặt mình và ông giám đốc.

Lúc này ông giám đốc đã bình tĩnh lại, mặt nặng trịch đặt cái gối xuống. Ông cầm cốc trà lên, hít hà mùi thơm đượm của trà, khó khăn lắm mới rời mắt khỏi chiếc gối sứ được thì lại phát hiện chiếc cốc trong tay mình chính là cốc Đấu Thái Linh Đang. Suýt chút nữa ông liền bất chấp tất cả lật cái cốc lên xem lạc khoản. Nhưng nước trà quá nóng, ông đành rón rén giơ cao cốc, ngẩng đầu lên nhìn.

Quả nhiên! Là sứ Đấu Thái niên hiệu Thành Hóa*.

Chú thích: Thành Hóa: Niên hiệu vua Hiến Tông nhà Minh, Trung Quốc (1465 - 1487).

Trời ơi! Có phải ông đang nằm mơ không? Nếu không sao có thể uống trà bằng chiếc cốc chỉ được nằm trong tủ kính viện bảo tàng cho người ta nhìn ngắm thế này?

Mặt ông giám đốc đỏ phừng, ông miễn cưỡng cầm chặt chiếc cốc để lại trên quầy. Có chút nước trà vương ra, nhưng ông không thấy bỏng tay, thậm chí không dám nhìn bốn phía, chỉ cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ.

“Chỉ là một chiếc cốc thôi”. Gã chủ tiệm cầm cốc trà trước mặt mình lên, đặt bên miệng thổi chút vụn trà đi, thong thả nhấp một ngụm.

“Không! Nó không chỉ là một chiếc cốc”. Ông giám đốc đột nhiên nổi giận, chau mày trợn mắt: “Tiểu tử! Cậu hiểu cái gì chứ? Trong giây phút thành hình, cái cốc này đã lắng đọng cuộc sống và tinh thần của thời đại đó! Trên mình nó còn tiếp nối phong hoa và sinh mệnh của một thời đại! Nó có sinh mệnh đó!”.

Tính cách của ông giám đốc trước nay luôn ôn hòa. Đương nhiên trong mấy năm gần đây thôi, khi còn trẻ ông cũng rất nóng nảy. Sau khi chuyên sâu nghiên cứu cổ vật, tính cách nóng nảy này mới dần dần lắng xuống. Chỉ là tối nay sau khi bước vào tiệm đồ cổ này chưa đầy mười phút, đột nhiên ông không thể nào kiềm chế được tính tình của mình. Giống như một thùng thuốc nổ chỉ cần một chút tàn lửa là khiến ông bùng cháy.

“Đúng thế, bọn chúng đều có sinh mệnh”. Gã chủ tiệm không để ý chuyện mình bị mắng mỏ, thực ra gã khá nhớ nhung tính cách nóng nảy của giám đốc, năm xưa cũng không ít lần thấy ông mắng mỏ thế này: “Tốt lắm, ông có thể lĩnh hội được điểm này, tốt lắm”.

Ông giám đốc sững người, ở tầm tuổi này rất ít người dám dùng khẩu khí dạy dỗ này nói chuyện với ông. Vì thế bất thình lình nghe thấy khiến ông không thể nào tin nổi vào tai mình. Đặc biệt là những lời ấy được thốt ra từ miệng tên tiểu tử trẻ tuổi này.

Gã chủ tiệm thong thả uống hết trà trong cốc, lấy chậu úp lên trên bếp than, dập tắt lửa trong bếp: “Xin lỗi, nếu muốn xem cổ vật thì để hôm khác. Hôm nay tôi phải đóng cửa rồi”.

Ông giám đốc không để tâm tới mấy lời tiễn khách của gã chủ, ông nghiêm túc nói: “Tiểu tử, những thứ cổ vật trong cửa tiệm của cậu không đáng bị để ở nơi tăm tối bụi phủ thế này”.

Gã chủ tiệm nhướn mày, không nói gì cả. Gã đứng dậy, lau chiếc gối sứ xanh trên quầy rồi cẩn thận đặt vào trong hộp gấm.

“Chúng nên được đặt trong viện bảo tàng để người đời nhìn ngắm! Để mọi người biết văn minh của tổ tiên chúng ta rực rỡ thế nào!”. Ông giám đốc ra sức thuyết phục: “Cậu nên quyên tặng chúng cho quốc gia, đó mới là nơi chốn cuối cùng của những cổ vật này”.

Gã chủ tiệm mỉm cười, vẫn không nói gì, ôm hộp gấm quay người đi vào phòng trong.

Ông giám đốc chau mày, giọng điệu nặng nề hơn: “Nếu cậu không chịu quyên tặng, vậy theo giá thị trường, tôi đi xin tiền từ quỹ văn vật của quốc gia và tỉnh, hoặc là tôi dùng chút tích góp của mình...”, giọng ông giám đốc bỗng nhiên thấp dần, bởi lúc này ông mới chú ý đến các loại đồ cổ được bày trên giá trong tiệm này. Mới nhìn như vậy, một người mắt không tinh lắm như ông đã nhìn thấy đĩa sứ trắng xanh đời Tống và đĩa Sái Hồng (hình như) thời Tuyên Đức nhà Minh.

Đột nhiên ông giám đốc cảm thấy tim mình không tốt, không dám xem thêm nữa, sợ sẽ bị shock, nhưng ánh mắt vẫn không kìm nén được mà nhìn xung quanh.

Dưới ánh lửa mờ tối của đèn cung Trường Tín, ngay cả hít thở cũng nhẹ nhàng hơn, ông sợ mình hít thở mạnh sẽ thổi vỡ những cổ vật dễ vỡ ở đây.

Lúc này gã chủ tiệm đã cất xong chiếc gối sứ, lặng lẽ bước ra từ sau bức bình phong, miệng nở nụ cười: “Xin lỗi, tôi không có hứng, mời giám đốc về cho”.

Ông giám đốc liền nổi giận đùng đùng! Cái tên trẻ tuổi này rốt cuộc có biết rất nhiều cổ vật ở đây được tính là văn vật cấp quốc gia không! Văn vật cấm mua bán lưu thông, ông chỉ cần giám định một chút, báo lên trên là có thể bắt gã ta vì tội buôn bán văn vật! Ông giám đốc mở miệng nhưng không nói lời nào, giận dữ nuốt những lời định nói lại.

“Tôi sẽ còn quay lại”. Ông giám đốc gõ mạnh chiếc batoong xuống đất, tập tễnh đẩy cửa bước ra.

Gã chủ tiệm đứng trong bóng tối, nhìn theo bước chân lúc thấp lúc cao của ông giám đốc qua khe hở cửa sổ, hồi lâu không rời mắt.

2

“Đúng rồi, gần đây có phải có một ông chú tay vịn batoong, đeo kính gọng vàng cứ lượn lờ trong tiệm của anh không?”. Gần đây bác sĩ mê mẩn món bánh chẻo nhân tôm ở nhà hàng bên cạnh nên tối nào tan ca xong cũng tới mua hai đĩa, sau đó mang thẳng tới Á Xá ăn. Có người ăn cơm cùng luôn ngon hơn ăn một mình.

Gã chủ tiệm nhướn mày đặt đũa xuống, hỏi với vẻ ngạc nhiên: “Cậu gặp ông ta rồi à? Mấy hôm nay cậu tới đều không chạm mặt ông ta mà?”. Mấy hôm nay ngày nào ông giám đốc cũng tới điểm danh, cũng chỉ nói lại chuyện đã nói hôm đó.

Bác sĩ nhìn gã chủ tiệm với vẻ kỳ lạ: “Đó là bởi vì ông ấy chặn tôi lại ngoài tiệm, còn vặn hỏi tôi đã mua gì ở đây chưa, và tình hình trong cửa tiệm”.

Gã chủ tiệm nghe vậy liền nheo mắt lại, nho nhã lấy giấy ăn lau khóe miệng.

Bác sĩ không nhận ra tâm trạng gã chủ trở nên xấu đi, miệng nhồm nhoàm một cái bánh chẻo, lúng búng nói: “Ông chú này rất lạ lùng, hỏi mấy câu cũng rất lạ, rốt cuộc anh quen được ông chú lạ lùng này ở đâu thế?”.

Gã chủ tiệm đang nghĩ chuyện khác, nghe hỏi liền thờ ơ đáp; “À, quen lúc trộm mộ trước kia”.

Bác sĩ suýt nghẹn, nhất thời không phân biệt nổi gã chủ tiệm đang nói đùa hay nói thật. Anh vội rót một cốc trà uống một ngụm, sau đó chợt nhớ ra điều gì bèn e dè hỏi: “Cái... cái gối sứ lần trước tôi mượn của anh...”

“Đương nhiên cũng là đồ trong mộ, nếu không cậu nghĩ nó từ đâu ra?”. Gã chủ tiệm mỉm cười.

“Cạch”. Đôi đũa trong tay bác sĩ rơi xuống bàn, nhưng anh không định nhặt lên.

Trong, trong mộ? Điều đó có nghĩa là... cái gối đó vốn dành cho người chết nằm ngủ... bác sĩ lặng lẽ câm nín, nhìn nửa đĩa bánh chẻo chưa ăn hết, liền thấy mất hết cảm hứng ăn uống.

Ông giám đốc cầm một cái tráp gấm, gần như chạy về viện bảo tàng.

Nhân viên bảo tàng thấy vậy đều mỉm cười hiểu ý, đoán được ông giám đốc lại kiếm được cổ vật quý giá nào đó rồi.

Ông giám đốc không về văn phòng mà đi thẳng tới phòng giám định văn vật. Mấy hôm nay ông ngồi suốt ở quán trà đối diện Á Xá, nếu gã chủ tiệm trẻ tuổi ấy không chịu bán cho ông, vậy ông chỉ còn cách tiếp cận với khách hàng của cửa tiệm mà thôi.

Ban đầu ông còn mời nhiều người đóng giả làm khách hàng tới Á Xá mua đồ cổ, nhưng gã chủ tiệm kia cũng thật kỳ lạ, nói thế nào cũng không bán. Khiến ông không còn cách nào khác, đành ôm cây đợi thỏ. Đợi mấy ngày liền, Á Xá không bán ra một món đồ cổ nào, điều này cũng không đáng ngạc nhiên, các tiệm đồ cổ thường ba năm không mở cửa, mở cửa đủ ăn ba năm. Ông cũng đã chuẩn bị trường kỳ kháng chiến rồi.

Có điều, thời gian không phụ người có tâm, cuối cùng hôm nay ông đã nhìn thấy một cậu học sinh trẻ tuổi ôm một cái tráp gấm cỡ vừa bước ra từ Á Xá. Ông tốn không ít nước bọt, thậm chí còn lấy thân phận giám đốc viện bảo tàng ra mới mua được món đồ này từ tay cậu học sinh kia.

Điều khiến ông bất ngờ nhất là cậu học sinh kia nói chỉ mất năm mươi tệ để mua thứ trong chiếc tráp gấm này. Lúc trả tiền ông giám đốc vẫn không tin lắm. Nhưng ông không muốn lãng phí cơ hội tốt như vậy, thậm chí còn không mở tráp xem ngay lúc đó mà vội vã ôm thẳng về viện bảo tàng.

Lúc này cũng là lúc sắp tan ca, nhân viên trong phòng giám định đã về văn phòng, chuẩn bị về nhà. Ông giám đốc rửa tay kỹ càng, run thở, mở chiếc tráp gấm ra.

Một tia sáng lạnh chói mắt chiếu vào mắt ông, khi ông giám đốc nhìn rõ vật trong tráp gấm thì suýt nữa quên cả thở.

Trên tấm vải lụa màu vàng hoa mỹ là một thanh kiếm đồng xanh.

Toàn thân thanh kiếm tỏa ra thứ ánh sáng xanh chói mắt, hàn khí lấn át. Thân kiếm dài chừng hơn ba mươi centimet, màu nâu sẫm, toàn thân láng bóng không bị gỉ nhiều, thân kiếm bằng phẳng, nhìn thấy ẩn hiện hoa văn hình thoi chìm.

Phần lưỡi kiếm sắc bén vô cùng. Đốc kiếm được trang trí bằng hoa văn mặt thú, một mặt được khảm đá Thanh Kim, một mặt khảm đá Lục Tùng. Gần chỗ ngăn cách có tám chữ thếp vàng được khắc bằng kiểu chữ triện: “Việt Vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm”. (Thanh kiếm tự làm của Việt Vương Câu Tiễn*).

Chú thích: Việt Vương Câu Tiễn (trị vì 496 TCN - 465 TCN) là vua nước Việt (ngày nay là Thượng Hải, bắc Chiết Giang và nam Giang Tô) cuối thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, một trong Ngũ Bá.

Ông giám đốc hoàn toàn không ngờ rằng vật trong chiếc tráp gấm lại là kiếm đồng xanh của Việt Vương Câu Tiễn! Nhiều năm trước, ở Hồ Bắc từng khai quật được một thanh kiếm Việt Vương lừng danh thiên hạ, khi khai quật chỉ cần dùng một chút sức là cắt rách mười sáu lớp giấy trắng, vẫn sắc bén như trước đây.

Ông giám đốc cũng từng được chiêm ngưỡng thanh kiếm Việt Vương ấy ở cự ly gần, hình dáng rất giống thanh kiếm ở trước mặt ông bây giờ, nếu không phải kích cỡ to nhỏ khác nhau, ông gần như lập tức cho rằng đây là đồ nhái.

Nhưng ông biết, Việt Vương Câu Tiễn năm xưa bắc tiến Trung Nguyên, hội kiến chư hầu trong thiên hạ, nhất thời xưng danh bá chủ. Theo ghi chép của “Ngô Việt Xuân Thu” và “Việt tuyệt sách”, Việt Vương Câu Tiễn từng đặc biệt mời thợ đúc kiếm Long Tuyền - Âu Trị Tử đúc năm thanh kiếm quý. Năm thanh kiếm lần lượt mang tên Trạm Lô, Thuần Quân, Thắng Tà, Ngư Tràng, Cự Khuyết, đều là những thanh bảo kiếm hiếm có chém sắt như chém bùn. Bởi trong năm thanh kiếm có ba thanh trường kiếm, hai thanh đoản kiếm, nên được người đời gọi là “tam trường nhị đoản”, sau này thành ngữ này được dùng với hàm nghĩa “tai họa bất ngờ”.

Nếu năm xưa đúc năm thanh kiếm, vậy thì ai dám chắc chỉ có thanh kiếm khai quật được ở Hồ Bắc còn tồn tại trên đời?

Ông giám đốc cảm thấy máu trong người như sôi lên, là thật hay giả chỉ cần ông giám định một chút là sẽ có kết quả ngay.

Ảnh chụp tia X, phân tích kim loại, nhiễu xạ quang, phổ huỳnh quang... ông giám đốc cẩn thận làm đủ loại xét nghiệm, càng nhìn thấy những số liệu chuẩn xác của các phân tích kia ông càng giật mình kinh ngạc, bởi bất luận phân tích thế nào kết quả đều chứng minh thanh kiếm này đích thực được chế tạo từ hơn hai nghìn năm trước?

Sao có thể thế được?

Không phải ông không tin kết quả xét nghiệm của các loại máy móc chính xác trước mặt, mà là ông không tin một văn vật cấp một quốc gia thế này gã chủ tiệm kia lại bán với giá năm mươi tệ!

Đang... đang đùa gì thế?

Ông giám đốc cầm kiếm Việt Vương lên, đưa tay vuốt ve hoa văn tinh xảo khắc trên đó. Một phút lơ là đầu ngón tay bị lưỡi kiếm sắc bén cứa rách, máu men theo lưỡi kiếm ánh sắc xanh từ từ chảy xuống, nhưng cũng có một vẻ đẹp khó diễn tả bằng lời, khiến người ta không rời nổi mắt.

Mặc dù bị thương nhưng ông giám đốc vẫn không nỡ đặt thanh kiếm xuống. Thanh kiếm đồng xanh này không biết đã bao nhiêu năm chưa uống máu tươi của người, cảnh này trong giây phút này có gì đó lạ lùng khó nói.

Ông giám đốc cũng không vội cầm máu cho mình, mà cầm miếng vải mềm lên cẩn thận lau lưỡi kiếm.

Lúc này, trong đầu ông chợt vang lên lời dặn dò của cậu học sinh nọ: “Lúc chủ tiệm bán thứ này cho cháu có dặn dò một câu duy nhất, đó là không được để nó dính máu người”.

Đầu tiên ông giám đốc khịt mũi cười nhạo, bỗng nhiên lại cảm thấy vô cùng tức giận. Việc sưu tầm bảo dưỡng kiếm đồng xanh vô cùng phức tạp, gã chủ tiệm đó lại chỉ dặn dò một câu như vậy sao!

Một mình chiêm ngưỡng nó trong phòng giám định hồi lâu, thấy đồng hồ trên tường đã điểm chín giờ, ông giám đốc cho dù có lưu luyến đến mấy cũng đành phải cất thanh kiếm vào chiếc tráp gấm. Bên cạnh phòng giám định có một phòng lưu giữ văn vật tạm thời.

Ông giám đốc thận trọng cất chiếc tráp gấm vào tủ bảo hiểm, vừa tính toán trong bụng, đợi ngày mai ông sẽ mời mấy chuyên gia giám định tới giám định lần nữa, sau khi mọi thứ được xác nhận ông sẽ công bố tin này với truyền thông.

Chắc chắn sẽ gây ra tiếng vang lớn, và đương nhiên cũng sẽ có tiếng nói nghi ngờ từ nhiều phía. Thanh kiếm Việt Vương ở Hồ Bắc không ai nghi ngờ thật giả, bởi vì quả thực nó là văn vật được khai quật, còn thanh kiếm Việt Vương ông có được... nguồn gốc của nó ông phải nghĩ xem nên giải thích thế nào mới được.

Ông giám đốc biết chắc chắn không thể tiết lộ tiệm đồ cổ của người kia, mặc dù bây giờ là con trai ông ấy trông coi còn bản thân đang ở tận Ai Cập. Nhưng nếu khiến ông ấy tức giận không chừng sẽ đóng cửa bỏ đi, đến lúc đó số đồ cổ hiếm có trong tiệm cũng không biết đến lúc nào mới xuất hiện nữa. Ông giám đốc đóng cửa phòng giám định, vốn định về nhà ngay nhưng lại đổi hướng đi tới phòng trưng bày của bảo tàng.

3

Lúc này đã là chín giờ tối, viện bảo tàng đóng cửa lúc năm giờ, các nhân viên cũng đã ra về hết từ lúc năm giờ ba mươi, chỉ còn bảo vệ của viện bảo tàng ở lại. Nhưng cho dù là bảo vệ trực đêm cũng không như trước đây cầm đèn pin đi tuần từng tầng một, bởi camera kỹ thuật cao được lắp đặt ở đủ mọi góc trong viện bảo tàng đều ghi lại tất cả một cách trung thực, bảo vệ chỉ cần ngồi trong phòng giám sát, luôn chăm chú quan sát màn hình là được.

Viện bảo tàng này sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất nước, mỗi văn vật đều được đặt trong tủ trưng bày bằng kính cường lực, còn lắp đặt đèn cảm ứng tự động, bên trong tủ trưng bày bằng kính đều có ánh đèn yếu ớt, chỉ cần có người lại gần nó sẽ tự động sáng lên.

Ông giám đốc men theo lộ tuyến tham quan, chầm chậm vừa đi vừa suy nghĩ. Cùng với bước chân của ông, đèn trong tủ kính liên tiếp sáng lên, rồi theo bước chân ông rời đi, từng cái một tối dần.

Trong viện bảo tàng rộng rãi tăm tối, tĩnh lặng như chết, ông giám đốc chỉ nghe thấy tiếng lộc cộc vọng lên khi chiếc batoong của mình gõ xuống nền đá cẩm thạch.

Nếu là một người khác, e rằng cũng không thích ở lại một mình trong viện bảo tàng vào lúc đêm khuya thế này, nhưng đối với ông giám đốc mà nói, đây chính là giây phút ông hưởng thụ nhất.

Viện bảo tàng rất rộng, nhưng ông nắm rõ từng sản phẩm trưng bày, từng gian phòng trưng bày như lòng bàn tay, ông nhìn mỗi văn vật trong tủ trưng bày với ánh mắt hiền từ, giống như đang nhìn những đứa con của mình. Đến khi ông đi từ tầng một lên phòng trưng bày đồ gốm sứ ở tầng hai, trong lòng ông đã nghĩ xong nên tuyên bố với mọi người lai lịch của thanh kiếm Việt Vương thế nào rồi, mọi tâm tư của ông đều dồn vào những món đồ cổ trong Á Xá, nghĩ xem làm thế nào để mang hết chúng về viện bảo tàng, thậm chí đã bắt đầu suy nghĩ đến việc sẽ bày chiếc đĩa sứ men xanh trắng đời Tống kia ở đâu nữa.

Tâm nguyện của ông giám đốc rất lớn, bắt đầu từ ngày mê đồ cổ, ông sưu tầm những món đồ cổ ngưng tụ văn hóa và sinh mạng của các tiền nhân một cách thèm khát. Bản thân ông rất thích và càng muốn người khác cũng thích.

Vì thế mỗi lần nhìn thấy cổ vật bị khuyết vỡ, lòng ông đau như cắt.

Những cổ vật bây giờ quả thật là vỡ một cái, mất một cái.

Ông giám đốc dừng lại trước một cái bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên ở trung tâm phòng trưng bày đồ gốm sứ, thể tích cái bình này rất lớn, thậm chí có thể đựng vừa một đứa trẻ năm, sáu tuổi, có thể bảo tồn hoàn chỉnh vốn đã không dễ dàng, mặc dù trên miệng có một vết sứt rất rõ, nhưng vẫn không làm giảm giá trị của nó. Cần phải biết rằng, chỉ có hơn bốn trăm món đồ sứ Thanh Hoa thời Nguyên còn tồn tại trên thế giới này, chiếc bình sứ to thế này càng hiếm thấy hơn.

Chiếc bình này chính là món đồ ông có được khi gặp người đó năm xưa... Chiếc bình đẹp như vậy, cho dù ngày ấy trong ngôi mộ đó, vì bảo vệ chiếc bình ông trúng phải bẫy trong mộ cổ, chân phải ông cũng tập tễnh từ đó, ông cũng không có gì nuối tiếc.

Nghĩ tới đây, ông giám đốc bèn đưa tay chạm vào lớp men trắng như ngọc dưới ánh điện nhưng lại chạm vào một lớp kính.

Ông sực tỉnh, mới biết mình lại quên chiếc bình này không còn đặt ở nhà ông nữa, mà được đặt trong tủ kính ở viện bảo tàng.

Ông giám đốc buồn bã, có điều lại cảm thấy vui vẻ ngay. Những món đồ cổ này đặt trong viện bảo tàng, mặc dù không được trực tiếp chạm vào nhưng lại được bảo dưỡng tốt nhất. Chứ không như ở Á Xá, để ở đó một cách vô trách nhiệm, sử dụng một cách tùy tiện, đúng là phung phí của giời.

Vì thế những việc ông làm mới là đúng đắn nhất.

Ông giám đốc bật cười, nhìn những nếp nhăn trên mặt mình trên chụp kính, bất giác nghĩ tới nhiều năm sau, những cổ vật này vẫn ngay ngắn nằm trong viện bảo tàng cho người đời chiêm ngưỡng, còn ông sớm đã thành một nắm xương trắng...

Nhưng, như thế này cũng tốt.

Ông giám đốc đờ người nghĩ ngợi một hồi mới rụt bàn tay đang đặt trên chụp kính lại. Đầu ngón tay dội lên cảm giác đau nhói, bây giờ ông mới phát hiện ra vết thương bị kiếm Việt Vương cứa vào vẫn không ngừng chảy máu, bàn tay trái đã dính đầy máu từ bao giờ, để lại một dấu tay bằng máu trên chụp kính, trong đêm tối nhìn vô cùng ghê rợn.

Ông giám đốc vội dựng batoong vào tường, rút khăn tay ra, không để ý vết thương ở tay trái mà cẩn thận lau bàn tay máu trên chụp kính. Ông vừa lau vừa cười nghĩ, nếu ông không lau sạch vết máu này mà để tới sáng mai, e rằng sẽ khiến toàn bộ nhân viên trong viện bảo tàng sợ chết khiếp. Bảy chuyện kỳ quái trong viện bảo tàng mà họ thêu dệt chắc sẽ thành tám chuyện kỳ quái mất.

Ông giám đốc đang vui vẻ nghĩ thì bất ngờ phát hiện dấu tay máu trên chụp kính lau thế nào cũng không sạch. Ông chau mày, đẩy gọng kính, ghé sát lại gần quan sát. Sau khi nhìn kỹ ông kinh ngạc tròn mắt.

Bởi dấu tay máu kia lại xuất hiện ở bên trong chụp kính! Vết máu thậm chí còn chưa khô, dưới ánh sáng trong chụp kính nó đang từ từ men theo thành kính chảy xuống dưới một cách lạ lùng.

Sao có thể như thế được!

Ông giám đốc sợ hãi lùi lại một bước, ánh đèn trong quầy trưng bày cũng tối đi theo bước chân của ông, nhưng vẫn nhìn thấy rõ ràng vết máu ấy, đây chắc chắn không phải ảo giác của ông.

“Két...”.

Đúng lúc ông chưa định thần lại thì đột nhiên một âm thanh chói tai từ dưới tầng dội lên. Âm thanh này mặc dù rất nhẹ nhưng rất rõ ràng giữa viện bảo tàng rộng lớn tĩnh lặng

Giống như tiếng một vật sắc cà xuống đất.

Ông giám đốc sợ đến mức tim suýt chút nữa vọt ra khỏi lồng ngực, ông vội rút điện thoại ra nhưng không có bất cứ tín hiệu nào.

Sóng điện thoại trong viện bảo tàng luôn lúc có lúc không, có người nói do hiệu ứng điện từ của vật, cũng có người nói do thiết bị bảo vệ của viện bảo tàng gây ra.

Nhưng đúng lúc này lại không có sóng khiến ông bực mình thầm chửi một tiếng.

Âm thanh quái lạ ở tầng một lại bắt đầu vang lên. Lần này âm thanh kéo dài, từ xa tới gần giống như... giống như người nào đó kéo lê một thanh kiếm, chầm chậm bước đi.

Ông giám đốc đưa tay ấn nút gọi khẩn cấp trên tường, nhưng không có bất cứ phản ứng nào.

Sao lại thế? Ông giám đốc biết nút bấm này ở trong viện bảo tàng chỗ nào cũng có, chỉ cần ấn một cái khắp viện bảo tàng sẽ vang lên tiếng còi báo động, nhưng từ lúc xây viện bảo tàng tới giờ chưa được dùng bao giờ. Lẽ nào nhiều năm không sửa nên đã hỏng?

Ông giám đốc vốn không nên hoảng loạn như vậy nhưng dấu tay máu ban nãy lại in bên trong chụp kính đã khiến ông vô cùng kinh sợ. Cộng thêm âm thanh cổ quái dưới tầng một khiến ông cuối cùng không thể nào giữ được sự phán đoán như mọi ngày. Nghe âm thanh giống như một thanh kiếm đồng xanh! Lẽ nào... lẽ nào là thanh kiếm Việt Vương ông mới bỏ vào tráp gấm ban nãy?

Nhưng rõ ràng ông đã đặt nó vào tủ bảo hiểm, mật mã tủ chỉ có mình ông biết. Mà một thanh kiếm làm sao có thể tự mình mở nắp tủ bảo hiểm bước ra được? Có điều ông không dám chạy xuống dưới xem rốt cuộc ra sao, âm thanh này nghe không tốt lành chút nào.

Không đúng, mọi thứ đều không đúng! Lúc này đáng nhẽ bảo vệ trong phòng giám sát phải chạy ra từ lâu rồi chứ, nhưng bây giờ trong viện bảo tàng vẫn im lặng như tờ, không thấy bất cứ một bóng người nào.

Việc cấp bách bây giờ là phải tới phòng giám sát quan sát màn hình mới đúng.

Ông giám đốc đưa tay sờ batoong nhưng lại sờ vào khoảng không. Lúc này âm thanh kỳ lạ ấy đã men theo bậc thang của đại sảnh chính, đang từ từ lên tầng hai.

“Két, két...”

Ông giám đốc không kịp lần sờ tìm batoong trong bóng tối, loạng choạng bám vào tường đi ra ngoài. Từ trong phòng triển lãm này tới cầu thang máy hoàn toàn không mất tới một phút, nhưng ông đi mãi trong bóng tối, suốt dọc đường đèn cảm ứng hai bên lần lượt sáng lên rồi tắt đi. Chạy một hồi lâu ông phát hiện ra ông không tìm được nút bấm thang máy mà lại tới một gian trưng bày khác.

Ông tưởng mình đi quá nhanh nên đã tới phòng trưng bày đồ ngọc, nhưng đúng lúc ông định quay đầu lại tìm thang máy thì khóe mắt liếc thấy vật trưng bày ở đây, sững sờ khựng người lại.

Gian phòng triển lãm trước mặt ông vẫn là gian trưng bày đồ gốm sứ! Giữa sảnh trưng bày, trên chụp kính của chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên, dấu tay máu vẫn rõ ràng bắt mắt.

Ông giám đốc há miệng, cổ họng khô rát không phát ra nổi bất cứ âm thanh nào.

“Két...”

Tiếng động ấy đã thuận lợi lên được tầng hai, chỉ ngừng một chút như đang phán đoán chỗ ông đứng rồi đi về phía ông một cách chuẩn xác.

Ông giám đốc đơ người một lúc rồi nghiến răng tiếp tục đi về phía trước. Tất cả đều là ảo giác, ông nói với mình như vậy.

Nhưng lúc ông đi qua chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên, ông nhìn thấy chiếc batoong ban nãy mình chưa kịp nhặt lên, nhưng ông không dám bước qua đó.

“Két...”.

Tiếng động phía sau dường như lại gần hơn một chút.

4

Mồ hôi lạnh thấm ướt lưng ông giám đốc, trong viện bảo tàng vốn đóng kín bỗng vô cớ nổi lên một cơn gió lạnh, sống lưng ông lạnh toát, đôi chân vốn đi lại bất tiện lại càng đi nhanh hơn.

Lần này ông bám vào tường đi về phía trước nhưng vẫn không tìm thấy cửa thang máy, ngược lại, lại bước vào một phòng triển lãm khác.

Dưới ánh sáng mờ tối, chiếc bình sứ Thanh Hoa thờỉ Nguyên vẫn lặng lẽ nằm đó.

“Két...”

Ông giám đốc ngây người, sau đó tiếp tục lao về phía trước như phát điên. Làm sao có thể như thế được? Cho dù viện bảo tàng hình tròn nhưng một tầng chỉ có bốn phòng trưng bày, ông không thể lần nào cũng bước vào gian trưng bày gốm sứ được.

“Két...”

Tiếng động như âm hồn bất tán vang lên sau lưng ông như bùa chú đòi mạng, khiến ông vô cùng sợ hãi. Ông không còn nơi nào để trốn, chỉ biết sống chết cắm đầu lê chân bước về phía trước. Không lâu sau đó, ông lại đứng trước chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên lần nữa.

Đầu óc ông trống rỗng.

“Két két...”

Lần này tiếng động ấy vang lên ở không xa phía sau ông.

Ông giám đốc quay người lại theo phản xạ, đằng sau là bóng tối. ông muốn bước lên một bước nhưng không có chút sức lực nào, cuối cùng đành cứng người đứng nguyên tại chỗ, cả người chỉ có con ngươi có thể chuyển động, ông th muốn nhắm mắt lại nhưng đôi mắt phản bội ý thức của ông, cứ mở to ra.

Tim ông chợt thắt lại, cảm giác sợ hãi chưa từng có dội lên trong lòng. Rõ ràng ông gặp phải “quỷ đả tường”*, nhưng tại sao lại gặp ở đây? Đây có phải viện bảo tàng không? Chẳng khác gì một ngôi mộ cả.

Chú thích: Quỷ đả tường: Là một hiện tượng ảo giác, trong đêm khuya hoặc đi lại ở nơi thanh vắng, không phân biệt được phương hướng, không biết nên đi hướng nào, cứ đi vòng vòng lại quay về chỗ cũ.

“Két...”

Tiếng động truyền tới từ cửa phòng triển lãm, vô cùng chói tai.

Lúc này, các tủ trưng bày ở cửa phòng triển lãm dường như cảm ứng được, đột nhiên sáng lên. Sau đó cái này sáng lên cái kia tối đi, giống như thực sự có người nào đó bước vào vậy. Nhưng ông giám đốc không nhìn thấy gì cả.

Sau đó ông hít vào một hơi lạnh, thấy trên nền đá cẩm thạch, một thanh kiếm đồng xanh đột nhiên xuất hiện từ trong bóng tối, hàn quang chói mắt.

Ông giám đốc thở hổn hển, nhìn chằm chằm vào thanh kiếm. Nó giống như được ai đó nắm lấy, đứng thẳng ở đó, lưỡi kiếm kéo trên mặt đất, thong thả tiến về phía ông. Trên thân kiếm mỏng manh sắc bén ấy đang không ngừng rỉ máu tươi để lại một vệt máu tươi đỏ thẫm trên nền đá cẩm thạch.

Trong đầu ông giám đốc bỗng vang lên lời dặn dò của cậu học sinh trẻ tuổi: “Lúc chủ tiệm bán thứ này cho cháu có dặn dò một câu duy nhất, đó là không được để nó dính máu người”.

Đột nhiên ánh sáng lạnh trên thân kiếm sáng lên, ông giám đốc cảm thấy một luồng gió ập tới, ép ông gần như quỳ trên mặt đất, đồng thời bốn phía vang một tiếng động lớn.

Ông giám đốc mặt mày biến sắc, đương nhiên ông biết tiếng động đó có nghĩa là gì.

Đó là tiếng chụp kính nứt vỡ.

Viện bảo tàng sử dụng loại kính tiên tiến nhất, ngay cả đạn cũng không thể bắn xuyên qua, nhưng giờ phút này lại giống như cùng bị vật nặng đập vào, tất cả vỡ ra trong nháy mắt. Do tính đàn hồi tốt nên tất cả chụp kính đều bị rạn vỡ như hoa tuyết nhưng không rơi xuống. Nhưng chính vì thế nên càng khiến người ta không nhìn rõ tình hình bên trong chụp kính.

Ông giám đốc bất lực nhìn chụp kính xung quanh trở nên trắng xóa, sau đó thất sắc hoảng hốt. Ngay cả kính chịu lực cao cấp cũng trở nên như vậy, thế đồ gốm sứ bên trong thì sao?

Ông giám đốc nghiến răng cố gắng giơ tay lên, chạm vào chụp kính của chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên bên cạnh mình.

Giống như ảo tưởng bị đập tan, chụp kính vỡ tan trên đầu ngón tay ông, hàng ngàn hàng vạn mảnh vỡ loảng xoảng rơi xuống nền đá cẩm thạch, phát ra những âm thanh tuyệt vời.

Trong khúc nhạc vui tươi ca ngợi tự do đó, chiếc bình Thanh Hoa thời Nguyên tròn trắng tinh khiết lặng lẽ lộ ra trong không khí.

Ông kinh ngạc không dám tin, sau đó an tâm thở phào nhẹ nhõm. Cho dù chiếc chụp kính bị vỡ nát nhưng chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên bên trong lại không hề sứt mẻ.

Ông nhìn chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên đang phát ra thứ ánh sáng hấp dẫn lòng người dưới ánh điện, không kiềm chế được bèn đưa tay chạm vào nổ. Cảm giác quen thuộc khi được chạm vào nó một lần nữa khiến ông giám đốc quên mất mình đang ở trong hoàn cảnh nào, ông mỉm cười nhắm mắt lại.

“Két...”.

Thứ âm thanh ấy lại vang lên lần nữa, ông giật mình mở mắt, phát hiện thấy thứ tay mình chạm vào không phải chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên mà chính là chuôi kiếm Việt Vương.

Ông giám đốc hoảng loạn một chút rồi cảm thấy người mình nhẹ bỗng, cả người đang bay lên.

Ông kinh ngạc nhìn xuống dưới, thấy cơ thể mình vẫn đứng im tại đó. Bên cạnh là chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên, trước mặt chính là thanh kiếm Việt Vương kỳ lạ.

Lẽ nào đây là linh hồn thoát khỏi thể xác?

Mình đang làm gì vậy? Ông giám đốc phát hiện thấy mình không có sức để khống chế cơ thể nữa, rốt cuộc chuyện gì đang xảy ra? Ông mơ màng nghĩ, đầu óc hỗn loạn không thể suy nghĩ bất cứ điều gì, bởi ông nhìn thấy rõ ràng cơ thể mình đang cầm thanh kiếm Việt Vương lên, quay lưỡi kiếm lại rồi đưa lên cổ mình không chút do dự!

Động tác rất chậm nhưng vô cùng kiên định.

Tất cả những chuyện này ông giám đốc nhìn từ trên cao, cảm giác không chân thực khiến ông tưởng mình đang nằm mơ, nhưng trong nội tâm sâu thẳm ông lại tỉnh táo biết rằng, tất cả những chuyện này... đều là thật!

Ông bất chấp tất cả muốn lao vào cơ thể mình, sau vô số lần cố gắng, cảm giác đau nhói ở vết thương trên tay trái trở về với cơ thể khiến ông mừng rỡ trong lòng, thành công rồi.

Nhưng khi ông mở mắt ra thấy trước mặt mình là lưỡi kiếm sắc bén ánh hàn quang! Và tay phải vẫn không hoàn toàn do ông khống chế, mắt thấy lưỡi kiếm sắc bén này sắp cứa đứt cổ họng ông...

Đúng lúc ông giám đốc sắp tuyệt vọng thì một bàn tay có những ngón thon dài trắng trẻo thò ra từ trong bóng tối nhẹ nhàng dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp chặt thân kiếm Việt Vương mỏng manh.

5

Cuối cùng lúc này ông giám đốc mới giành lại được quyền kiểm soát cơ thể mình, ông ngồi bệt xuống đất, mồ hôi túa ra khắp người, không ngừng thở hồng hộc.

“Tôi biết ngay là sẽ có chuyện”. Giọng nổi không rõ giận hay vui lạnh nhạt vọng ra từ trong bóng tối.

Ông giám đốc vuốt mồ hôi trên trán, thanh kiếm Việt Vương trong tay ông bị người ta giành mất, nhưng ông cũng không hề có ý định lấy lại.

Đùa à, ông không muốn trải nghiệm chuyện tự mình giết mình lần thứ hai.

Ông giám đốc thở đều lại mới ngẩng đầu lên nhìn người vừa tới. Mặc dù muốn cảm ơn ơn cứu mạng của đối phương nhưng ông càng muốn hỏi cho ra nhẽ tại sao người này lại vào được viện bảo tàng đã đóng cửa lúc đêm tối thế này. Nhưng vừa ngẩng đầu lên ông liền sững sờ.

Người đó đang cúi đầu nâng thanh kiếm lên tỉ mỉ ngắm nghía, dưới ánh sáng yếu ớt trong phòng triển lãm, ông giám đốc chỉ nhìn rõ nửa khuôn mặt đối phương.

“Ông... là ông... ông... không phải đang ở Ai Cập sao?”. Ông giám đốc lắp bắp hỏi, vừa mở miệng ông mới biết giọng mình đã lạc đi.

Người đó hơi nhướn mắt lên, không trả lời câu hỏi của ông, mà càng ngắm thanh kiếm Việt Vương trong tay tỉ mỉ hơn, giống như vô cùng lo thanh kiếm này có bất cứ sứt mẻ gì.

Bây giờ ông giám đốc đã hoàn toàn bình tĩnh lại, mới nhận ra người đàn ông đang cầm kiếm đứng trước mặt mình trẻ trung một cách kỳ lạ, không thể nào là người ông quen trước đây.

Hóa ra là gã chủ tiệm Á Xá.

Ông giám đốc thở phào, muốn đứng dậy nhưng thấy chân mình đã mềm nhũn vì sợ, nhất thời không có sức đứng lên. Ông giám đốc cũng không nhờ gã chủ giúp, ông không muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt gã trẻ tuổi này.

Ngồi thì ngồi, cũng có thể nghỉ ngơi thêm một chút. Lần này mặc dù hung hiểm lạ thường nhưng ông đã tiếp xúc với đồ cổ nhiều năm, biết có nhiều chuyện ngay cả khoa học cũng không giải thích được, ông cũng không mong đời này sẽ hiểu hết. Vì thế khi đối phương im lặng, ông cũng biết điều không truy hỏi nữa. Thấy gã chủ tiệm không định nói gì, ông giám đốc liền ngồi khoanh chân, định nhắm mắt dưỡng thần. Gần đây ông học được vài chiêu thức dưỡng khí của một đạo sĩ, vốn muốn tu thân dưỡng tính, không ngờ bây giờ lại dùng để trấn áp cơn sợ hãi.

“Thanh kiếm Việt Vương này vốn là kiếm phòng thân của Câu Tiễn”. Ông giám đốc vừa nhắm mắt lại thì bỗng dưng nghe thấy gã chủ tiệm trẻ tuổi lên tiếng.

Ông giám đốc không ngờ gã sẽ chủ động nói chuyện nên kinh ngạc mở mắt ra, ngẩng đầu lên nhìn gã. Chỉ thấy gã chủ tiệm trẻ tuổi đang lật ngược lật xuôi nhìn thanh kiếm Việt Vương kỳ lạ. Ánh sáng trên mũi kiếm thỉnh thoảng lại phản chiếu lên mặt ông, càng tăng thêm vài phần lạnh lẽo.

“Thực ra kiếm phòng thân của Việt Vương vốn chẳng cổ mấy cơ hội được dùng tới”. Gã chủ tiệm ngước mắt nhìn về phía ông giám đốc, ánh mắt vô cùng lạnh lẽo nhưng khi liếc thấy chiếc bình sứ Thanh Hoa thời Nguyên bên cạnh ông, hồi ức nhiều năm trước lại dâng lên trong tim, ánh mắt tự dưng cũng dịu dàng hơn.

Ông giám đốc gật đầu, vào giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc, ở mức độ nào đó kiếm của các vương hầu phần nhiều mang ý nghĩa tượng trưng. Ví dụ tượng trưng cho bá quyền, hiệu lệnh thiên hạ; hoặc tượng trưng cho thân phận, ban thưởng cho thủ hạ. Nếu thanh kiếm phòng thân của Vương hầu cần phải dùng tới, không phải do hộ vệ của hắn không bảo vệ chu đáo, thì sẽ là....

“Lẽ nào thanh kiếm này Việt Vương dùng khi tự vẫn?”. Ông giám đốc vội tiếp lời. Kết hợp với cảnh tượng suýt chút nữa ông tự cắt ngang cổ mình lúc nãy khiến ông không thể không nghĩ như vậy. Có điều ông vội lắc đầu: “Không đúng, Câu Tiễn không chết vì tự sát”.

Gã chủ tiệm hơi nhếch mép cười: “Đương nhiên Câu Tiễn không tự sát, nhưng Văn Chủng thì có đấy”.

Ông giám đốc sững người, tư liệu trong đầu lập tức bật ra.

Văn Chủng, nhà mưu lược nổi tiếng cuối thời Xuân Thu. Là mưu thần của Câu Tiễn, cùng Phạm Lãi đánh bại Ngô Phù Sai, lập công hiển hách. Sau khi diệt Ngô, tự thấy công lao của hai người quá cao, Phạm Lãi sai người đưa thư cho Văn Chủng, viết: “Chim đã bay hết, cung tốt cất đi. Thỏ khôn đã chết, chó săn bị nấu. Việt Vương là người cao cổ, miệng chim, chỉ có thề chung hoạn nạn, chứ không thể chung vui. Sao thầy còn chưa lui về?”. Văn Chủng không nghe, quả nhiên không lâu sau bị Câu Tiễn ban kiếm tự sát.

Ban kiếm tự sát... ban kiếm tự sát! Ông giám đốc buột miệng; “Lẽ nào đây chính là thanh kiếm năm xưa?”.

Gã chủ tiệm nheo mắt lại vẻ sâu xa khó đoán, nhưng cũng không trả lời câu hỏi của ông. “Ông cũng từng nói, mỗi món đồ cổ đều có sinh mệnh của mình, điều này không sai. Thực ra không phải tôi giữ những món đồ cổ này trong tay không buông, mà là những món đồ cổ trong Á Xá đều có linh hồn”.

Ông giám đốc bám tường đứng dậy, im lặng lắng nghe.

“Chẳng phải ông đã từng nói đồ cổ đều có sinh mệnh sao?”. Gã chủ tiệm nhướn mày, hơi cao giọng.

Ông giám đốc cười gượng, khi nổi những lời này ông không hề nghĩ món đồ này thực sự có sinh mệnh!

Gã chủ tiệm lạnh nhạt nói tiếp: “Đương nhiên tôi biết ý chúng ta nói không giống nhau, đồ cổ mặc dù chỉ là đồ vật, nhưng chúng đã tồn tại mấy trăm, mấy nghìn năm, mỗi món đồ đều ngưng tụ tâm huyết của người thợ, tình cảm của người dùng. Chúng mặc dù không có tư tưởng nhưng rất nhiều món đồ có chấp niệm hoặc nguyện vọng, giống như thanh kiếm Việt Vương này. Nguyện vọng của nó chính là bảo vệ chủ nhân của mỗi kiếp. Phàm những người bị nó đâm bị thương chắc chắn sẽ chết thảm. Ở một mức độ nào đó mà nói, đây có thể coi như một lời nguyền”.

Ông giám đốc há miệng, nhưng không biết phải nói gì. Lẽ nào cậu học sinh trẻ tuổi kia chính là chủ nhân kiếp này của kiếm Việt Vương? Nhưng sao gã chủ tiệm nhận ra được? Dựa vào cái gì để xác nhận?

Gã chủ tiệm biết thắc mắc của ông giám đốc nhưng gã cảm thấy không cần giải thích nhiều như vậy. Gã liền chuyển chủ đề: “Tôi cũng biết đối với những cổ vật không có suy nghĩ mà nói, viện bảo tàng thường sẽ là nơi chốn cuối cùng của chúng, nhưng những cổ vật chưa hoàn thành chấp niệm hoặc nguyện vọng, nếu đơn giản đặt trong viện bảo tàng sẽ vô cùng nguy hiểm. Không ai biết được sẽ gây ra hậu quả thế nào, đặc biệt khi hai món đồ xung nhau đặt ở chỗ không phù hợp sẽ càng nguy hiểm hơn. Nên nhớ có một số đồ vật không chỉ cần bảo vệ bằng chụp kính mà cần được bảo vệ bằng đôi tay hơn. Vì thế thanh kiếm này tôi sẽ mang về”.

Ông giám đốc buồn bã cúi đầu, bất kể những lời gã nói là thật hay giả, ông biết sau khi trải qua chuyện tối nay xong, sau này nếu muốn lấy món đồ gì từ Á Xá chắc ông phải suy nghĩ kỹ càng hơn.

Gã chủ tiệm khẽ thở dài, không nói thêm gì nữa. Những món đồ trong cửa tiệm của gã đều là cổ vật mang chấp niệm. Ví dụ tấm gương cổ nhà Hán, vì muốn chủ nhân có thể được gặp lại nữ tử trong lòng mình, đã lặng lẽ nằm trong hộp hai ngàn năm. Mặc dù cuối cùng bị nứt nhưng vẫn để hai người có tình gặp lại nhau, hoàn thành tâm nguyện. Còn chiếc vòng tay Hương Phi, cho đến nay vẫn chưa hoàn thành tâm nguyện của nó. Còn ngọn nến đã cháy mấy trăm năm ấy đến bây giờ vẫn âm thầm rơi lệ...

Đương nhiên những món đồ cổ này khi hoàn thành tâm nguyện, nếu vẫn còn giữ nguyên hình dạng hoàn chỉnh gã sẽ quyên góp cho viện bảo tàng. Trên thực tế, mấy năm qua gã đã nặc danh quyên góp rất nhiều món đồ rồi.

Chỉ là những việc này gã cho rằng mình không cần giải thích với ai, trước nay gã luôn làm việc theo ý mình, tối nay nói nhiều với người này như vậy cũng là nể tình nghĩa trước đây, vốn đã là việc hiếm có lắm rồi.

Ông giám đốc thấy gã quay người định đi, đột nhiên cảm thấy bất an, vội vã hỏi: “Cậu cầm thanh kiếm này đi cũng được, nhưng sau này liệu nó có...”, ông định hỏi sau này nó có tới lấy mạng ông nữa không, nhưng thực sự lời này quá hoang đường, dù ông đã sống trên đời này bao nhiêu năm cũng đã gặp rất nhiều chuyện, nhưng vẫn không thể mặt dày hỏi câu này.

Trong lúc ông chần chừ, gã chủ tiệm đã quay người định rời khỏi đây, con rồng đỏ sau lưng áo đột nhiên xuất hiện trong tầm mắt ông giám đốc, khiến ông sững lại.

Người ấy nhiều năm trước trên người cũng có một con rồng đỏ thẫm thế này.

Đầu ông ong ong, cũng không biết làm sao, bỗng dưng nhớ lại lúc ông đẩy cửa bước vào Á Xá, người ấy đã cười nói với ông một câu.

Rốt cuộc là câu gì? Sao ông không thể nhớ ra?

Con rồng đỏ dần khuất trong bóng đêm, nhe nanh múa vuốt như đang sống. Lúc này trong bóng tối vang lên tiếng cười khẽ: “Yên tâm, thanh kiếm Việt Vương này có bao kiếm”.

Đương nhiên ông giám đốc không biết nếu thanh kiếm Việt Vương này được đút trở lại trong bao kiếm nó sẽ phải ngủ sâu mấy trăm năm nữa.

Ông chỉ biết, ông đã nhớ ra rồi.

Hôm đó, sau khi ông đẩy cánh cửa gỗ khắc hoa của Á Xá bước vào trong, người ấy sững lại một hồi, mỉm cười nói với ông: “Đã lâu không gặp...”

Ông giám đốc đứng trong bóng tối rất lâu rất lâu, cuối cùng đã có sức để di chuyển, tìm được chiếc batoong trong góc phòng.

Đến khi ngẩng đầu lên mới phát hiện ra trong phòng triển lãm không có chụp kính nào bị vỡ, không có dấu tay máu in trên chụp kính của chiếc bình sứ Thanh Hoa nhà Nguyên, cũng không có vết máu trên nền đá cẩm thạch, thậm chí ngay cả trong tủ bảo hiểm của phòng giám định, chiếc tráp gấm đựng kiếm Việt Vương cũng không còn nữa.

Ông giám đốc vẫn không từ bỏ, đi tới phòng giám sát, thấy bảo vệ trực ban đang ngủ gục bất tính một cách lạ thường. Ông cũng không vội đánh thức bảo vệ dậy, mà một mình mở file ghi hình tối nay ra, nhưng phát hiện camera không hề ghi lại những chuyện ông đã trải qua tối nay.

Không có dấu tay máu, không có kiếm Việt Vương, càng không có gã chủ tiệm bỗng dưng xuất hiện.

Trong những hình ảnh không có âm thanh ấy, chỉ có một mình ông điên loạn diễn kịch câm.

Nhưng ông giám đốc biết tất cả những chuyện đó đã thực sự xảy ra.

Bởi trên tay trái của ông, ở vết thương chưa được xử lý ấy, máu tươi vẫn đang rỉ ra...