← Quay lại trang sách

Chương 6

Điện thoại của Robert reo lên sau khi anh về nhà được chừng mười lăm phút.

“Chào anh Robert, Jenny đây. Greg đã đi rồi. Trời ơi, Robert, em rất xin lỗi vì chuyện hôm nay.”

“Em không cần phải làm vậy. Tôi rất tiếc vì nó làm hỏng bữa tối tuyệt vời của em.”

“À, một lúc nào đó chúng ta có thể lại ngồi ăn với nhau. Nghe này, Robert, em muốn gặp anh. Giờ vẫn còn sớm. Mới bảy rưỡi. Em có thể tới chỗ anh không? Em vừa nói chuyện xong với Greg. Anh ấy đã biết là em sẽ không làm đám cưới nữa nên anh ấy không có quyền can thiệp vào việc em làm gì hay gặp ai. Em nghĩ cuối cùng anh ấy cũng hiểu ra là em thật sự quyết tâm.”

Greg chắc sẽ kiểm tra để xem tối nay cô có ra ngoài không, Robert nghĩ. Hoặc thậm chí là theo dõi nhà cô để có thể đi theo sau xe nếu cô ra ngoài. “Jenny, em vẫn có vẻ rối trí lắm, sao em không ở nhà tối nay nhỉ?”

Cô rên rỉ. “Xin hãy cho em gặp anh. Em không thể tới chỗ anh được à?” Cô rất kiên định.

Có một cách để kết thúc chuyện này, anh nghĩ và anh sẽ làm vậy. Anh đồng ý, cô sẽ tới đây, và anh báo cho cô địa chỉ cách khu căn hộ Camelot hai con phố. Cô nói sẽ đi ngay lập tức.

Năm phút sau, điện thoại lại reo và anh hy vọng Jenny gọi lại để báo là đã đổi ý.

Lần này là Nickie. Cô ta đang dự một bữa tiệc cocktail và hơi ngà ngà say, cô ta nói đang ở với Ralph nhưng muốn chúc anh ngày kỷ niệm ngày cưới lần thứ ba hạnh phúc, dù biết thừa nó đã trôi qua được vài tuần rồi nhưng muộn còn hơn không.

“Cảm ơn,” anh nói. “Cảm ơn, Nickie.”

“Có nhớ ngày kỷ niệm thứ hai của chúng ta không?” Cô ta hỏi.

Anh nhớ rất rõ. “Tôi thích nhớ ngày đầu tiên hơn.”

“Thật ủy mị. Có muốn nói chuyện với Ralph không? Ralph!”

Robert muốn dập máy. Nhưng như thế có nóng nảy quá không? Hay hèn nhát? Anh giữ máy, nhìn lên trần nhà và chờ đợi. Các giọng nói xa xăm đâu đó ở Manhatthan, lầm bầm và réo ùng ục, như một cái nồi đang sôi. Rồi có tiếng tít tít. Cô ta đã dập máy hoặc ai đó dập máy hộ cô ta.

Robert pha một cốc Scotch với nước. Phải, anh vẫn nhớ ngày kỷ niệm thứ hai. Họ đã mời tám đến mười người bạn đến nhà, và Robert đã mua rất nhiều hoa hồng và hoa mẫu đon về để trang trí nhà cửa, anh lại còn mua một cái vòng vàng mảnh cho Nickie nữa. Nhưng chẳng có ai đến hết. Mọi người đáng ra phải có mặt lúc tám giờ để uống cocktail và ăn buffet, nhưng đến chín giờ kém mười lăm rồi mà vẫn không thấy mống nào, nên Robert đã nói, “Chết tiệt, em có nghĩ chúng ta mời mọi người sai ngày không?” Và Nickie, tay chống hông, nói, “Không ai đến đâu, cục cưng, đây là một bữa tiệc dành riêng cho đôi ta thôi. Nên hãy ngồi xuống cái bàn xinh đẹp này và để em nói cho anh nghe một, hai điều.” Nghe có vẻ say nhưng cô ta thậm chí còn không uống thêm một cốc rượu nào sau cốc đầu tiên đã pha lúc anh mới đến. Robert có thể nhận ra được đâu là cốc rượu đầu tiên, cốc thứ hai, và cốc thứ ba của cô ta. Và cách đây mười ngày, lúc lên kế hoạch cho buổi tối hôm ấy cô ta không hề say - hay nói đúng hơn là cô ta đã lên kế hoạch trong những khoảnh khắc tỉnh táo. Việc mời khách là nhiệm vụ của cô ta. Tối hôm ấy cô ta đã nói liên tục ít nhất một tiếng đồng hồ, át hết mọi cố gắng xen ngang của anh chỉ đơn giản bằng cách nâng giọng. Cô ta liệt kê mọi lỗi lầm nhỏ nhặt của anh, kể cả việc anh thỉnh thoảng bỏ lại lưỡi dao cạo trên mép bồn rửa thay vì cất nó lại trong tủ thuốc; kể cả việc mấy tuần trước anh đã quên đi lấy một chiếc váy ở chỗ người giặt là hộ cô ta; kể cả nốt ruồi trên má anh, nốt ruồi trứ danh mà đường kính còn chẳng được ba milimet (anh đã một lần lấy thước sắt nhỏ của mình ra đo trong phòng tắm), Nickie lúc đầu đã khen nó thật nổi bật, sau quay sang chê nó xấu xí, cuối cùng bảo nó là u ác tính, sao anh không tẩy đi? Robert nhớ là đã pha cho mình một cốc rượu thứ hai giữa bài diễn thuyết của cô ta, một cốc rượu đặc ngon lành, vì hành động khôn ngoan nhất trong hoàn cảnh ấy là tỏ ra kiên nhẫn, và cốc rượu như một liều thuốc giảm đau. Thực tế thì, sự kiên nhẫn của anh tối hôm đó đã chọc giận cô ta, đến mức lát sau cô ta nhảy bổ vào anh, lấy cả người xô anh trong phòng ngủ khi anh đang thay đồ đi ngủ, và nói, “Anh không muốn đánh em sao, anh yêu? Đánh đi, đánh em đi, Bobbie!” Kỳ lạ thay, đó là một trong những lần anh cảm thấy không hề muốn đánh cô ta chút nào, nên anh đã có thể điềm tĩnh trả lời một câu “Không.” Rồi cô ta mắng anh bất bình thường. “Một ngày nào đó anh sẽ có hành vi bạo lực. Hãy nhớ lấy lời em.” Vẫn tối hôm đó, khi họ đang nằm trên giường, cô ta nói, “Đùa như thế không vui sao, Bobbie?” Tay cô ta áp lên má anh, không phải đầy vẻ trìu mến mà để chọc giận anh và ngăn anh ngủ. “Đùa thế không buồn cười sao, cục cưng?” Cô ta đã theo anh vào phòng khách khi anh cố gắng ngủ trên ghế xô-pha ngoài đó. Cuối cùng, cô ta ngủ trong phòng ngủ vào khoảng năm giờ sáng và thức dậy khi Robert dậy để đi làm. Cô ta rất đau dầu sau khi say, và như thường lệ, sau khi say, cô ta luôn thấy ăn năn, nắm lấy tay anh, hôn chúng, nói cô ta thật khủng khiếp, xin anh tha thứ, hứa sẽ không bao giờ, không bao giờ hành động như thế nữa, và anh đúng là một thiên thần, cô ta không thật sự nghĩ về lỗi lầm của anh như những gì đã nói, mà sau cùng thì chúng đều chỉ là những sai lầm nhỏ nhặt.

Anh nghe một tiếng còi rú to như còi thuyền tuần tra sông. Hoặc ai đó đang bị lạc trên thác hoặc một con thuyền đang gặp nguy hiểm, anh cho là thế. Tiếng còi vang lên liên tục, u sầu, khẩn cấp, nản lòng. Robert cố gắng hình dung cảnh bị lật đi lật lại trên đá, đập đến mức đờ đẫn, cố bám lấy các tảng đá nhưng phát hiện ra chúng quá trơn hoặc anh quá yếu để có thể giữ lấy. Trong khi còi kêu không ngớt thì đèn thuyền cứu hộ quét trên mặt sông Delaware, không tìm được thứ muốn tìm. Các đồng nghiệp ở văn phòng đã bảo anh là nếu có người bị rơi xuống thác - và có cả tá chỗ như vậy trên dòng sông - thì chỉ vô vọng. Việc tốt nhất mà đội tuần tra sông có thể làm là tìm được xác. Một người ở văn phòng còn kể đã từng thấy một cái xác nằm ở bờ sông đoạn sân sau nhà anh ta, xác một ông già được vớt lên cách nơi ông ta đã rơi xuống khoảng ba mươi cây số. Hoặc cái xác có thể trôi xuống tận Trenton. Robert nghiến răng. Vì sao lại nghĩ đến chuyện đó khi anh không có ý định đi bơi, chèo thuyền, hay thậm chí là câu cá khi mùa hè tới chứ?

Robert về bàn làm việc và nhìn bản phác thảo một cây du ngoài cửa sổ mà anh đã vẽ, nó rõ ràng và quá chính xác để được xem là một bản phác thảo, nhưng anh là một kỹ sư và sự chính xác giống như một lời thề độc. Trang đối diện trong quyển sổ phác thảo vẫn để trống, sau này sẽ có hình vẽ một lá du, khi anh nhìn thấy nó vào mùa xuân.

Có tiếng gõ cửa. Robert đặt cốc rượu xuống và đi ra cửa.

“Xin chào,” cô nói.

“Vào đi.” Anh đứng tránh sang bên cho cô. “Bỏ áo khoác ra nhé?”

Cô đưa áo cho anh và anh treo nó vào trong tủ. Lần này cô không đi bốt đi tuyết nữa. Cô đi đôi giày cao gót. “Một căn hộ thật dễ thương,” cô nói.

Anh gật đầu, không có lời nào để nói.

Cô đã ngồi xuống giữa ghế xô-pha của anh.

Anh châm một điếu thuốc lá, ngồi xuống ghế bành, rồi đứng dậy lấy cốc rượu của mình trên bàn làm việc. “Tôi rót một cốc cho em nhé? Hay cà phê? Tôi có espresso hoặc em có thể uống loại thường.”

“Không, cảm ơn, em không cần gì cả. Em chỉ muốn nói, Robert, lúc nãy khi nói chuyện với Greg em không hề đề cập anh là nguyên nhân của việc hủy hôn. Nhưng là một phần trong đó.”

Anh nhìn chằm chằm xuống sàn.

“Anh khiến em nhận ra một thứ mà trước kia em chưa từng nhận ra. Như một chất xúc tác. Nhưng từ đó cũng không chuẩn lắm, nó chẳng có nhiều ý nghĩa ngoài thay đổi một điều gì đấy, phải không? Còn anh mang một ý nghĩa nào đó. Anh mới là điều em thích. Bất kể nó có nghĩa là gì… vậy đấy.”

“Em chẳng biết gì về tôi hết,” anh nói. “Chẳng hạn như, em không biết là tôi đã kết hôn. Tôi đã nói dối em. Tôi đã kết hôn ba năm.”

“Ồ. Vậy đúng là anh đã rời New York vì một người phụ nữ. Vì vợ anh.”

“Phải.” Trông cô không ngạc nhiên nhiều như anh dự kiến. “Chúng tôi đã xảy ra bất đồng. Em cũng không biết, chẳng hạn chuyện tôi đã suy sụp tinh thần vào năm mười chín tuổi. Tôi đã phải trị liệu một thời gian. Tôi không phải là người có tính cách ổn định. Tháng Chín vừa rồi tôi đã gần như ngã quỵ ở New York. Đó là lý do tôi chuyển về đây.”

“Chuyện này thì có liên quan gì tới việc em thích anh hay không?”

Robert không muốn nói thẳng tuột ra là khi một cô gái thích một người đàn ông thì thường sẽ quan tâm đến việc người đó đã kết hôn hay chưa. “Em hiểu không, việc tôi chưa ly hôn sẽ khiến mọi chuyện khó khăn hơn.”

“Anh sẽ không ly hôn à?”

“Không. Chúng tôi chỉ muốn dành chút thời gian ở xa nhau, chỉ có thế.”

“Vậy… xin đừng nghĩ em sẽ xen vào. Đằng nào thì em cũng không thể nếu anh đã yêu một người rồi. Em chỉ muốn cho anh biết cảm nhận của em thôi. Em yêu anh.”

Mắt anh chớp lên nhìn cô rồi quay đi. “Tôi nghĩ em càng sớm thoát khỏi cảm xúc đó thì càng tốt.”

“Em sẽ không làm được đâu. Em biết. Em luôn nhận ra khi nó đến với em. Chỉ là em thật đen đủi khi anh đã kết hôn, nhưng điều đó cũng chẳng thay đổi được gì hết.”

Robert mỉm cười. “Nhưng em còn trẻ lắm. Mà em bao nhiêu tuổi rồi?”

“Hai mươi ba. Như thế đâu phải là quá trẻ.”

Robert cứ ngỡ cô trẻ hơn. Mỗi lần anh gặp cô là cô lại có vẻ trẻ hơn. “Tôi không rõ về Greg. Có thể cậu ta không phải người thích hợp với em. Nhưng cũng không phải tôi. Tôi là một người rất khó chung sống. Rất nhiều tật xấu. Luôn lạc lối chỗ này chỗ kia.”

“Em nghĩ mình được quyền nhận xét, phải không?”

“Quan sát em qua cửa sổ phòng bếp nhà em không phải là một đức tính tốt đẹp gì, không phải sao? Em nên nghe những gì vợ tôi nói về tôi. Cô ấy nghĩ tôi nên vào trại thương điên.” Anh cười. “Cứ hỏi cô ấy mà xem.”

“Em không quan tâm vợ anh nói gì.” Cô đang nghiêng người chống một tay vào ghế xô-pha, cơ thể thả lỏng nhưng mặt thì rất kiên định. Cô nhìn thẳng vào anh.

“Tôi không thích chơi đùa đâu, Jenny.”

“Em không nghĩ anh đang chơi đùa. Anh đang khá thành thật đấy chứ.”

Robert đứng phắt dậy, cầm theo cốc rượu của mình về chỗ cái bàn ở cuối ghế xô-pha và đặt nó xuống. “Nhưng trước đó thì không, không phải sao? Tôi sẽ nói thật nhé, Jenny, tôi là một người phải nỗ lực hết sức để duy trì sự… tôi gọi nó là gì đây nhỉ? Sự tỉnh táo à?” Anh nhún vai. “Đó là lý do tôi tới đây. Ở đây bớt căng thẳng hơn ở New York. Tôi khá hòa hợp với những người cùng chỗ làm. Tôi đã nghỉ Giáng sinh với một người đồng nghiệp, cùng vợ và con gái nhỏ của anh ta, và mọi chuyện diễn ra êm đẹp. Nhưng họ không biết thỉnh thoảng tôi phải nỗ lực để tỏ ra như vậy, tôi có cảm giác như mình phải cố gắng từng giây từng phút.” Anh dừng lại và nhìn cô, hy vọng lời mình nói có chút hiệu quả.

Mặt cô ta chỉ có vẻ bớt lo âu. “Ai chẳng phải cố gắng từng giây từng phút. Điều đó có gì mới mẻ nào?”

Anh thở dài. “Tôi là người mà người khác phải tránh xa. Đó là điều tôi muốn em hiểu. Đầu tôi có bệnh.”

“Ai nói anh có bệnh? Bác sĩ à?”

“Không, không phải bác sĩ. Vợ tôi. Cô ấy rõ điều đó nhất. Cô ấy sống chung với tôi mà.”

“Nhưng anh đã trị bệnh từ khi nào? Năm anh mười chín tuổi à?”

“Lúc ấy họ đã nói gì nhỉ? Rằng tôi có những phản ứng thật yếu ớt trước một tuổi thơ khắc nghiệt. Như một kẻ nhu nhược. Tôi đã quỵ ngã, phải. Đó là sự yếu đuối, không phải vậy sao?”

“Anh đã làm gì vậy?”

“Tôi đã phải tạm ngừng học đại học một thời gian. Một tối nọ, tôi đã nổi cơn bốc đồng và đi bơi trong hồ mà mặc nguyên quần áo. Tôi định tự tử, và đã từng thử làm vậy, nhưng rồi lại thôi. Một cảnh sát đã can thiệp. Họ nghĩ là tôi say. Sau một tối trong tù, tôi nộp phạt và ra về. Họ quả quyết là tôi đã uống say nên tôi đành đồng ý với họ. Em nghĩ vì sao cảnh sát lại nghĩ như vậy? Vì những điều điên rồ mà tôi đã nói.” Có vẻ không tài nào thuyết phục nổi cô. Anh động não tìm một cách khác. “Tôi đã từng chĩa súng vào vợ tôi. Cô ấy đang ngủ. Tôi ngồi trên một cái ghế đối diện với cô ấy, súng săn chĩa thẳng vào cô ấy. Khẩu súng đã được lên đạn.” Sự thật là nó không hề được lên đạn. Anh dừng lại lấy hơi, nhìn Jenny. Cô đang hơi nhăn mày, nhưng không hề có vẻ sợ sệt mà chỉ đầy tập trung.

“Và chuyện gì đã xảy ra?”

“Không gì cả. Tôi chỉ làm vậy để xem xem - hoặc biết chắc - tôi sẽ không bao giờ kéo cò súng. Ngay trước lúc ấy, cô ấy và tôi vừa mới cãi nhau. Lúc đó tôi đã nghĩ, ‘Mình ghét cô ta đến mức có thể giết cô ta để trả đũa cho tất cả những gì cô ta đã nói.’ Nhưng khi cầm súng trong tay, tôi chỉ ngồi đó, nghĩ rằng chẳng có một ai hay một cái gì đáng để phải giết người hết.”

“Đúng vậy đấy. Anh đã nhận ra điều đó mà.”

“Phải, nhưng em có thể hình dung cảnh tỉnh giấc và thấy có người đang chĩa súng vào em từ bên kia phòng không? Em nghĩ vợ tôi nghĩ gì? Em nghĩ mọi người nghĩ gì khi cô ta kể cho họ nghe chuyện đó? Và cô ta đã kể cho rất nhiều người. Vậy đấy. Cô ta nói tôi rơi vào trạng thái tuyệt vọng và dồn nén, một ngày nào đó tôi sẽ giết người. Cô ta nói tôi muốn giết cô ta. Có thể là thế thật. Ai mà biết được?”

Cô lấy bao thuốc lá của anh trên bàn cà phê. Robert châm hộ cô. “Anh vẫn chưa kể cho em một chuyện gì thật sự gây sốc hết.”

“Chưa à?” Anh cười. “Em còn muốn gì nữa? Ma cà rồng à?”

“Chuyện gì đã xảy ra khi anh phải thôi học?”

“À, tôi chỉ mất có một học kỳ thôi, trong khoảng thời gian đó tôi phải đi trị liệu. Trị liệu và làm rất nhiều công việc quái đản. Khi quay lại trường, tôi tới sống cùng một người bạn quen hồi đại học. Kermit. Cậu ấy sống cùng gia đình ở gần trường. Cậu ấy có một cậu em trai, một cô em gái, căn nhà thật sự hỗn loạn.” Robert mỉm cười. “Nhưng đấy vẫn là một mái ấm, em hiểu không? Nếu chưa từng trải nghiệm điều đó thì dù tôi có nói, em cũng không thể cảm nhận được. Tôi có một căn phòng riêng bé tẹo và khó mà có nổi một tiếng đồng hồ trọn vẹn để học bài mà không bị quấy rầy, trẻ con ra ra vào vào mọi lúc, nhưng đến khoảng nửa đêm, nếu Kermit và tôi vẫn còn thức để học bài thì mẹ cậu ấy sẽ mang bánh nướng, bánh kem và sữa lên cho chúng tôi. Nghe thật ngớ ngẩn, nhưng đó là một mái ấm, nó tốt đẹp hơn những gì tôi từng trải qua ở nhà mình. Tôi cũng không trách cứ gì mẹ mình. Bà ấy cũng có khó khăn riêng với bố tôi, và bà đã làm hết khả năng. Nhưng bà không thể gây dựng một thứ gì vững chắc từ những gì đang có trong tay - bố tôi luôn say xỉn và việc ly dị hay ly thân chỉ là điều sớm muộn. Tôi không biết liệu mình đã trình bày rõ ràng hay chưa. Chắc là chưa.”

“Giờ anh Kermit đó thế nào?”

“Chết rồi.” Anh hút thêm một điếu thuốc nữa. “Cậu ấy đã chết trong một vụ tai nạn ở Alaska. Chúng tôi đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và được xếp vào cùng một tổ. Chúng tôi tưởng là sẽ bị đưa tới Hàn Quốc, nhưng cả hai đều chưa bao giờ thấy đất nước đó hay một trận chiến nào. Kermit bị giết bởi một cái máy bắn đá. Bị đá đập trúng lưng. Chuyện xảy ra vào một buổi sáng. Tôi đi lấy cà phê cho cả hai và tôi vừa mới rời khỏi chỗ cậu ấy có năm phút, đang mang cà phê quay lại, thì cậu ấy đã nằm gục trên mặt đất, vài binh lính khác đang đứng xung quanh.” Đột nhiên Robert cảm thấy ngượng nghịu với đôi mắt nghiêm trang, kiên định mà cô đang hướng vào anh. Bấy lâu nay anh không hề nhắc đến Kermit cho bất cứ ai, chưa từng kể lại câu chuyện đấy cho một người bạn nào của anh ở New York hết. “Ngay khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, tôi đã tới New York,” anh nói.

Jenny gật đầu. “Vậy là anh cũng hiểu đôi điều về cái chết.”

“Tôi hiểu cảm giác khi mất một người bạn. Nhưng cái chết à? Tôi chưa bao giờ thấy những người đồng đội mà tôi quen biết bị giết sạch trước mắt mình như nhiều người khác từng chứng kiến trong chiến tranh. Cái chết à? Không đâu.” Robert lắc đầu.

“Em hiểu chính xác ý anh định nói về việc duy trì sự tỉnh táo. Em cũng phải làm vậy. Cách đây ba năm khi em trai của em mất, em bỗng nhiên nghĩ rằng chẳng còn điều gì có ý nghĩa nữa. Đối với em dường như tất cả mọi người đều điên rồ trừ em. Anh biết điều mà người ta vẫn luôn nói về những kẻ điên không?” Một nụ cười e thẹn nở trên môi cô và khiến đôi mắt của cô lấp lánh. “Ý em là, cả thế giới này vẫn tiếp tục guồng quay, bố em vẫn tới công ty, mẹ em vẫn dọn dẹp nhà cửa… vậy nhưng cái chết vẫn ở lại nơi ấy với gia đình em.” Cô nhả thuốc, nhìn chằm chằm vào khoảng không trống rỗng trước mặt. “Em từng sợ cái chết. Em đã phải liên tục suy nghĩ về nó cho tới khi có thể thỏa hiệp với nó, theo cách của em. Cho tới lúc nó trở nên quen thuộc… Anh có hiểu ý em không?” Cô liếc lên nhìn anh rồi lại nhìn ra trước mặt. “Giờ thì em không còn sợ nó nữa. Em có thể hiểu vì sao người đàn ông ấy nói ‘Người Anh em Tử thần’ trong giấc mơ của anh.”

“Này, tôi không hề thấy thoải mái khi mơ giấc mơ đó đâu,” Robert nói.

Cô nhìn anh. “Nhưng một ngày nào đó anh sẽ thấy vậy, nếu anh liên tục nghĩ về nó. Dành đủ thời gian để nghĩ về nó.”

Robert lắc đầu một cách vô thức. Rùng mình. Anh nhìn chằm chằm vào khuôn mặt non nớt của cô và thấy bối rối.

“Khi em nhận ra điều ấy về cái chết,” cô tiếp tục, “em đã nhìn thế giới theo một cách khác. Greg nghĩ cái chết làm em thấy tuyệt vọng nhưng anh ấy đã nhầm. Em chỉ không thích nghe những người khác nói về nó với vẻ khiếp đảm thường thấy. Anh hiểu không? Và… sau khi em gặp anh, anh cũng khiến em nhìn thế giới theo một cách rất khác, chỉ là hạnh phúc hơn rất nhiều. Ví dụ, toàn bộ hoạt động của ngân hàng nơi em làm việc. Lúc trước nó thật ảm đạm và nhạt nhẽo. Giờ thì khác rồi. Nó vui tươi. Mọi chuyện đều dễ dàng hơn.”

À, anh biết cảm xúc đấy. Chìm đắm trong tình yêu. Đột nhiên thế giới trở nên tươi đẹp. Đột nhiên các cành cây trơ trọi cất tiếng hát. Cô gái này còn quá trẻ. Giờ cô đang nói đến Dostoevski, và anh chẳng để tâm nghe, vì anh đang cố nghĩ cách chấm dứt câu chuyện mà không làm cô tổn thương. Anh cảm thấy tất cả những gì mà cuộc trò chuyện của họ đem lại là khiến cô xa càng thêm xa với anh. Anh đi lại trên sàn trong khi cô nói đến “định mệnh” và “vĩnh hằng” - có vẻ như cô tin vào thế giới sau cái chết - và rồi anh nói, “Jenny, tất cả những gì tôi đã cố gắng nói từ trước là tôi không thể gặp lại em nữa. Tôi xin lỗi, nhưng là thế đấy.”

Giờ đột nhiên trông cô thật thống khổ, hai khóe miệng trễ xuống, và anh thấy có lỗi vì đã nói huỵch toẹt ra như thế, nhưng anh còn có thể làm gì được? Anh đi đi lại lại, hai tay đút trong túi.

“Anh không thích gặp em à?” Cô hỏi.

“Tôi rất thích. Nhưng làm thế là sai lầm. Tôi thích nghĩ đến cảnh em hạnh phúc. Em có thể hiểu được điều đó không? Hồi tôi quan sát em qua cửa sổ phòng bếp, tôi thích nghĩ đến em hạnh phúc, với một người bạn trai mà rồi em sẽ cưới, và đó là tất cả. Quen em là một sai lầm và…” Nói hết câu dường như không còn cần thiết nữa. Anh ước gì cô sẽ ra về. Anh quay người, nghe tiếng cô sột soạt đứng dậy.

“Có một điều mà em muốn cảm ơn anh,” cô nói, “đó là giúp em nhận ra mình không yêu Greg và không nên cưới anh ấy. Em vô cùng biết ơn anh vì điều đó.”

“Tôi không nghĩ Greg chung cảm nhận ấy đâu.”

“Em không thể can thiệp vào điều đó. Như anh nói, chuyện nó thế rồi.” Cô gượng cười. “Vậy tạm biệt.”

Anh tiễn cô ra cửa. Cô đã lấy áo ra khỏi tủ đồ và mặc nó vào trước khi anh kịp giúp. “Tạm biệt.”

Và đột nhiên cô đi mất. Căn phòng lại trống trải.