← Quay lại trang sách

Tác giả Tác phẩm (A) CHẤT NGƯỜI TRONG “TIẾNG HỜN CHÂN MÂY”-Vũ Ánh

(Nhật Báo Viễn Đông, số 1108, ngày 12/08/2000)

Tôi đã đọc “Tiếng Hờn Chân Mây” tới hai lần, đã đánh dấu những đoạn cần thiết phải đọc lại, đã cố gắng suy nghĩ lượng giá cho đúng mức chất người trong tác phẩm thứ hai của Trần Thy Vân. Tôi nghĩ đến nhà văn quân đội, đến người thương binh can đảm này, đến đời sống của ông, đến nỗi u sầu và những điều lạc quan thấp thoáng trong những tác phẩm ông viết với tất cả nỗi lòng của một người lính, người lính chiến đúng nghĩa. Đọc xong “Anh Hùng Bạt Mạng” và “Tiếng Hờn Chân Mây”, ít có người đánh giá những tác phẩm của Trần Thy Vân là những tác phẩm có giá trị lớn về văn chương. Và ngay chính bản thân Trần Thy Vân, ông cũng không hề trông đợi người đọc nhìn “Anh Hùng Bạt Mạng ‘ hay “Tiếng Hờn Chân Mây” theo cung cách ấy.

Buổi tối Thứ Sáu tuần trước, tôi ngồi xem lại lần nữa cuốn video “Chiến Tranh và.Hòa Bình” của Trung Tâm Asia gởi tặng, để thấy lại hình ảnh Trần Thy Vân, dù cũng đã có dịp gặp ông trên chiếc xe lăn nhiều lần. Nhưng không hiểu sao, đoạn phỏng vấn Trần Thy Vân xen vào cuốn video được thu hình đen trắng vẫn cứ ám ảnh tôi mãi. Có lẽ vì đoạn ông mô tả lại giây phút lúc bị thương, cái giây phút chưa cảm thấy đau mà chỉ thấy nóng, giây phút còn tỉnh, đủ thời giờ để ra lệnh cho những đồng đội những việc mà họ cần phải làm. Điều gây ấn tượng mạnh nhất là khuôn mặt khắc khổ của Vân hằn lên vết thời gian, dấu vết của một cuộc chiến, sự bình tĩnh, giọng nói vẫn còn mang đầy âm hưởng của một vùng đất triền miên những khó khăn, bão táp dù trong chiến tranh hay trong hòa bình. Và trên hết, những ai từng bị thương tại mặt trận, những ai từng trải qua giây phút một viên đạn đồng, một miếng bom hay mìn ghim vào da thịt rồi té xuống, hẳn sẽ thấy rằng ông rất thành thật khi mô tả đến khúc quanh u sầu của một đời lính: chinh chiến dở dang vì đã phải để lại đôi chân ngoài chiến địa. Có người đọc “Anh Hùng Bạt Mạng” xong đã có nhận xét với tôi như thế này: “Tuy là nhà văn nhưng không thấy ông ấy (Vân) văn chương hóa cuộc chiến để thảm kịch ấy nhẹ nhàng hơn, dễ thấm sâu hơn”. Tôi cũng nhận thấy như thế, nhưng tôi hiểu rằng, những tác phẩm mà Trần Thy Vân viết ra không phải là để làm cho cuộc chiến nhẹ đi, để mọi người dễ chấp nhận. “Anh Hùng Bạt Mạng” là câu chuyện của chính ông, của các đồng đội đã từng sát cánh với ông trong những giây phút rất gần với cái chết, thì nó phải như thế, không thể khác hơn được. Những biến động của câu chuyện là cả một chuỗi những kinh nghiệm và thử thách đầy máu của chiến tranh. Nhưng ở “Tiếng Hờn Chân Mây”, cuộc chiến được kể lại không có mạch lạc với những hình ảnh chỉ còn thấp thoáng, đôi lúc nhạt nhòa với một giọng kể chịu đựng, đôi khi pha một chút cay đắng. Sau biến cố tháng Tự ấy, những người lính chiến, dù là thương binh hay còn đủ cơ thể đã chạm ngay vào một thử thách khác: vào trại tập trung cải tạo. Trần Thy Vân không phải trải qua những thử thách ấy vì ông không còn hai chân. Nhưng cuộc sống căng thẳng và kỳ thị, cộng thêm với nỗi buồn bã, ông đã bỏ lên chốn thâm sơn cùng cốc mà theo như địa danh là một vùng nào đó cách Tùng Nghĩa không xa lắm, để ẩn dật..Thế nhưng điều này cũng không có gì đáng nói. Cái đáng nói nhất, chính là những gì mà ông đã trải qua trong cuộc sống sương gió với những cố gắng và can đảm của người thương binh ở vùng đèo heo hút gió, bối cảnh của “Tiếng Hờn Chân Mây”.

Cuộc sống của Trần Thy Vân ra sao trong “Tiếng Hờn Chân Mây”…? Thật ra, nếu đọc kỹ, chúng ta vẫn bắt gặp được ở đâu đó trong suốt 205 trang sách, những lầm than của cuộc sống mà ai cũng hiểu là tác giả muốn làm nhẹ bớt đi để nhấn mạnh đến những điều khác. Trong các câu chuyện Trần Thy Vân kể trong “Tiếng Hờn Chân Mây”, ông vẫn gởi gấm một chút hy vọng một nhóm tàn quân, vào những điều có thể giúp những người miền Nam lật ngược lại tình thế. Tuy nhiên, đó chỉ là những cái thêm vào để làm cái nền cho một bối cảnh khác: sau chiến tranh, người ta vẫn có thể tìm thấy trong hàng ngũ cựu thù những người vẫn còn giữ được chất người, vẫn còn lương tri.

Nếu Trần Thy Vân viết “Tiếng Hờn Chân Mây” sớm hơn mấy năm trước đây, có thể tác phẩm của ông gây ra những ngộ nhận, chạm vào những định kiến. Cái khung không biết do ai đã vạch sẵn: trong hàng ngũ cán binh Việt Cộng thì làm gì còn người có nhân cách. Từ cái khung ấy, có người nhìn cả mấy chục triệu dân miền Bắc đều là Cộng Sản. Những ai từng nằm tù ngoài Bắc chắc sẽ không thích cách nhìn đầy bất công, vơ đũa cả nắm ấy. Và Trần Thy Vân cũng vậy. Hàng ngày, trong cuộc sống, người thương binh Trần Thy Vân đã phải liên hệ, phải quen biết, phải nói chuyện với một số binh lính và sĩ quan thuộc Sư đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt, đơn vị ông đã từng đụng độ trong những năm chiến tranh, những năm ông chưa bị loại ra khỏi vòng chiến. Những cựu thù, cũng có người tốt, kẻ xấu. Nhưng khi ở mặt trận, trong cuộc chiến, mọi người đều phải làm trọn cái nghĩa vụ mà họ tin là đúng. Cái chủ quan đó, oái oăm thay đã đẩy cả một dân tộc vào hố chia rẽ, binh đao. Những Bình, những Tuất, những Đường… Họ là những người lính đối phương với Trần Thy Vân trước kia. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, người lính bỏ lại mọi hận thù. Dĩ nhiên, số này không đông. Nhưng trong cái cõi u minh của chủ nghĩa, Trần Thy Vân đã báo động với chúng ta rằng, vẫn còn có những mảnh đời còn trái tim, còn tình người. Và chính trong mối giao tiếp giữa những người thù địch trước đây, Trần Thy Vân khám phá ra rằng, trái tim người Việt Nam vẫn phát ra tiếng thầm gọi. Đó là điều quan trọng nhất và nó đã được ông nói ra một cách ngay thẳng, nói ra trong cái tư thế của một cựu sĩ quan, một nhân cách dõng dạc trên hai cái bàn ngồi di chuyển để nhẫn nại xới những gốc bắp trước sân nhà.

Trong tác phẩm, có những điều tưởng như là hư cấu, nhưng lại rất thật. Cũng giống như, nếu không có những nhân chứng đáng tin cậy và can đảm như Trần Thy Vân, những câu chuyện trong “Tiếng Hờn Chân Mây” chắc cũng chỉ được coi như một sản phẩm tưởng tượng nào đó mà thôi. Bởi thế, đề tài mà Trần Thy Vân đề cập tới không có gì mới mẻ, nhưng cái đáng quí nhất ở tác phẩm của ông là chất người được vinh danh qua những kinh nghiệm của cả một giai đoạn ông sống trong cơn giông bão của lịch sử.

::: Vũ Ánh:::