Chương 7
dịch giả: văn hòa
Chương 7
áu tuần lễ sau, vào một buổi sáng trời mưa, trong một phiên tòa, đang khi ông William sắp trình diện tòa án một nhân chứng của một vụ kiện, thì viên lục sự đến bên ngăn ông lại và bảo:
- Xin ông thứ lỗi, - Viên lục sự nói thầm - ông có điện thoại gọi gấp.
Ông William gạt anh ta ra, tay cầm cái kính buộc vào một dải băng đen và nói:
- Tôi không thể vắng mặt trong lúc này được.
- Xin lỗi, nhưng một người nhà ông đã chết.
Một người nhà ông... Ông William xin phép quan tòa bằng cách lặp lại lời của viên lục sự. Rồi ông băng qua đám đông đang ngạc nhiên giương mắt nhìn. Ông chạy đến máy điện thoại trong một phòng kế cận.
- Có phải ông Asher đấy không?
Ông William không nhận được tiếng nói của ai. Tiếng đàn ông hay đàn bà?
- Tôi đây. - Ông trả lời.
- Bertha đây, thưa ông.
- Bà đang ở đâu? Cái gì đã xảy ra thế?
- Ông Asher, thưa ông, bà Emma đã chết.
- Dì Emma. Ông hấp tấp chạy đi, chỉ dừng lại nhờ viên lục sự trình tòa là ông sẽ trở lại ngay trong chốc lát. Ông gọi tắc xi, nhảy lên và cho địa chỉ căn phòng cao nhất của một cao ốc trong thành phố.
Bà Emma đã quá già rồi. Tuổi bà rất cao, có lẽ cũng đến gần chín mươi. Ông không có lý do gì để bào chữa cho mình vì đã nhiều tuần không đến thăm bà ấy. Lần viếng thăm sau cùng là bà Elinor đi. Edwin cũng có nhắc đến bà Emma. Có lẽ anh ta nhắc đến tên bà khi anh ta và Vera về New York ở, tránh chi phí đi lại làm việc ở văn phòng ông. Anh ta làm việc với ông, hoãn lại ngày vào trường luật, chưa chắc tương lai sẽ làm gì.
Nhưng tại sao lại là bà Bertha gọi? Ông William tự hỏi. Trừ phi bà Emma vì tốt bung đã gọi bà Bertha về ở chung. Ông trả tiền xe và vào cao ốc. Chẳng có ai hay biết gì cả, người gác của bình tĩnh, người coi thang máy cũng thản nhiên, ông William do dự khi kêu cửa, và phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh, của mở và ông thấy bà Bertha đứng trước mặt. Bà ta mặc một bộ đồ đen đã sờn, thân hình nặng nề, đầu đội nón trễ một bên, tóc cứng màu nâu thòng xuống khuôn mặt tái nhợt của bà.
- Tôi mới đến đây, - Bà ta vừa thở dốc vừa nói - tôi vừa mới đến, hoàn toàn bà vừa chết.
Ông William gạt bà ta ra một bên và chạy dọc hành lang dài, đến phòng ngủ. Cửa phòng khách và phòng ăn bỏ ngỏ, trên cửa sổ con chim yến đang hót.
- Bà ấy ở đâu? - Ông William hỏi.
- Trên giường trong phòng ngủ. Bà ấy chưa dậy, đang nằm.
Ông mở cánh cửa duy nhất và nhìn thấy bà Emma. Căn phòng thiếu không khí, bức mành mành đã hạ thấp và màn của đã kéo lại. Một mùi hương dịu dàng thoang thoảng trong phòng. Tất cả đều lộn xộn phi lý, vì bà Emma là người luôn luôn tươm tất trật tự. Bà đang nằm, đầu tựa lên hai cái gối vuông khá cao, dường như bà đang giữa cơn hấp hối, hai đầu gối co lại, hai cánh tay gầy guộc co quắp, ống tay áo thêu rua lật lên. Rồi đèn được bật lên và ánh sáng rọi vào đôi mắt mở trao tráo của bà. Ông William liền thấy có hai chấm đen màu thép ở ngay giữa tròng con mắt của bà. Tự nhiên ông bỗng rên lên thành tiếng. Trong ánh sáng của ngọn đèn chong đầu giường, ông cúi xuống quan sát hai tròng mắt bất động. Hai điểm sáng giống như hai đầu cây đinh không có tai. Nhìn thật gần, ông nhận thấy đó là hai cây kim đan để đan vớ. Bà Emma thường đan luôn tay. Người ta đã đâm vào mỗi mắt bà một cây kim nhọn, máu và nước nhờn chảy ra thành vệt trên hai mắt bà vừa mới khô.
Ông William rùng mình va cảm thấy buồn nôn. Lưỡi ông tê cứng lại trong miệng đã khô khốc, ông cố gắng cầm lòng để khỏi nhổ những cây kim ấy ra, những cây kim mà ông ước chừng như nó đã xuyên sâu đến óc của bà Emma.
Ông quay qua hỏi bà Bertha:
- Khi bà gặp dì Emma, dì ấy như thế này à?
- Phải, đúng y như vậy. - Bà Bertha trả lời. Bà ta nắm chặt trong tay đôi găng bằng vải đen và đưa lên miệng.
- Bà đến đây lúc nào?
- Trước khi gọi ông. Tôi nhìn thấy bà ấy như vậy, liền chạy nhanh đến máy điện thoại để gọi ông. Cô thư ký của ông nói là ông đang dự phiên tòa. Cô ta muốn biết tại sao tôi gọi cho ông. Nhưng tôi muốn trực tiếp nói với ông. Có tiếng người đàn ông trả lời là không thể nào nói chuyện với ông được. Ông ta muốn biết lý do, khi đó tôi mới bảo là trong gia đình ông có người chết.
Có tìm nhịp đập của trái tim trong cái thân xác già nua này cũng vô ích thôi. Tay chân xác chết vẫn còn giữ nguyên dáng co rút đáng sợ của nó. Sự sống làm gì còn ở nơi mà trước kia nó đã còn quá ít. Ông William gọi điện thoại báo tin cho bác sĩ của bà Emma biết. Ông do dự một chút, rồi gọi tiếp cho Edwin đang ở văn phòng của ông.
- Edwin hả?
- Vâng, thưa ba con đây.
- Con đến ngay nhà dì Emma. Dì chết bất thình lình.
Edwin đã được huấn luyện rất kỹ càng, anh chẳng hỏi gì, chỉ nói:
- Con đến ngay bây giờ đây.
Ông William đóng cửa và gọi bà Bertha đến phòng khách.
- Bertha, nghe tôi cho kỹ và trả lời. Làm thế nào mà bà lại có mặt ở đây? Tôi cứ tưởng là bà đang ở dưỡng đường Mont Kisto chứ?
- Tôi vẫn con ở đó chứ ạ.
- Bà ngồi xuống đi - Con chim yến được kích thích bởi tiếng nói trầm bổng của hai người, lại bắt đầu cất tiếng hót, giọng ngân rung thảnh thót - Tại sao bà tới đây?
Bà Bertha lắc đầu quầy quậy. Hai bàn tay to và đỏ au của bà ta run rẩy đang khi siết chặt đôi găng vải đen của bà.
- Bertha, phải trả lời tôi. Nếu không thì người ta sẽ cáo buộc bà về tội giết người.
Đôi môi dày của bà ta run lên.
- Ông Asher, tôi xin ông, hãy giúp tôi.
- Tôi có thể giúp bà nếu bà nói hết sự thật cho tôi nghe. - Ông nói cách nghiêm nghị.
- Jessica, thưa ngài - Bà nói lẩm bẩm, đang cố nén tiếng khóc - Jessica có đến đây.
- Jessica hả?
- Phải, nó có đến đây...
- Sao bà biết?
- Nó đã gọi điện cho tôi biết là nó hết chịu nổi Herbert, và nó đã nói điều đó với bà Emma. Bà Emma đã bảo nó đến nói chuyện với bà ấy. Nó đã đến và bà Emma cũng gọi tôi đến nữa. Tôi nghĩ là bà Emma muốn thấy mẹ con tôi sống chung và làm hòa với nhau. Tôi rất mừng, nên đã vội vã đến.
- Khi bà đến, Jessica có mặt ở đây chưa?
- Rồi - Bà lấy giọng thảm thiết, nói tiếp - Nó đã có mặt ở đây rồi!
- Và sự việc xảy ra thế nào? - Ông William vừa hỏi vừa đưa tay chỉ cửa phòng ngủ.
- Như thế nay, thưa ông. Tôi và Jessica cãi lộn nhau. Nó luôn luôn chống lại tôi. Nó đã mở cửa và khi tôi vào, nó nhìn tôi với đôi mắt như thế này.
Bà Bertha mở to đôi mắt, ngó vào khoảng không với vẻ kinh hoàng.
- Sau đó?
- Sau đó nó la lên là nó ghét tôi và nó sắp giết tôi. Tôi không nghe; nó thường nói với tôi như thế khi không có ai nghe; nhưng tôi đã nói với nó: “Im đi, mày làm ồn bà Emma”. Bà Emma nghe tiếng chúng tôi, bà ra khỏi giường và nói với Jessica: “Con đừng thế, tội nghiệp cho bà già Bertha”.
Nói dối hay nói thật? Nói dối hay nói thật?
- Và Jessica bỗng nói rất dễ thương: “Bà Emma yêu quý. Bà hãy vô giường đi, lạnh hai chân đây!”. Và bà ấy đã trở về giường, có nó đi theo. Tôi đã chờ, chờ lâu lắm. Jessica trở ra, tôi pha chút ít cà phê. Nó nói với tôi: “Tôi đi tiệm thuốc kiếm thuốc cho bà Emma đây, bà ấy đang cần, chờ tôi về nhé”. Nó nói với tôi rất lịch sự và tôi chờ, tôi chờ... nhưng nó đã không trở lại. Bà Emma ở trong phòng yên tĩnh. Tôi mơ cửa phòng và tôi thấy...
Nghe đến đó, ông William liền gọi cảnh sát.
Nói dối hay nói thật? Ông William quan sát cái mặt bự đang sung huyết của bà Bertha mà không biết nói sao. Bốn mươi năm đã tạo cho bà ta một lớp thịt dày bao bọc bên ngoài. Tiếng chuông nhỏ ở cửa reo lên. Bà Bertha theo thói quen, nghe tiếng chuông liền đứng lên đi ra mở cửa. Edwin đang đứng bên ngoài cánh của.
Ông William đứng dậy:
- Đến đây con. Đến phòng bên đi.
Ông do dự một lát. Có nên để Bertha một mình không. Bà ta có tìm cách trốn thoát như Jessica không. Nhưng bà ta đã ngồi lại, hình dáng nặng nề và kệch cợm của bà ta tràn ra ngoài cái ghế gỗ có lưng dựa thẳng. Ông William nói:
- Lát nữa chúng tôi sẽ trở lại, bà Bertha.
- Vâng, tôi chờ. - Bà nói cách vui lòng. Bà ta lại, vò siết đôi găng đen trong tay.
Ông William đi trước, hướng về phía căn phòng đã khép cửa. Ông ngại Edwin đột ngột nhìn thấy cái xác chèo queo ở trên giường. Ông tìm cách để con ông khỏi nhìn thấy. Sự chết thật là đáng sợ đối với con mắt của những người trẻ trung, nhưng hết thảy mọi người đều phải nhìn thấy, không sớm thì muộn. Ông đi đến giương và bật ngọn đền chong ở đầu giường.
- Con có thấy hai mắt của bà không? - Ông hỏi, giọng bình thường.
Edwin cúi xuống nhìn và tái mặt.
- Trời ơi, ba! Thật dễ sợ!
- Jessica đã có mặt ở đây. Không biết lý do gì mà nó hành động như thế, đó là điều chúng ta phải khám phá. - Ông nói.
- Nếu cô ta đã điên rồi thì cần gì lý do nữa?
Ông William không đáp lại. Ông bảo:
- Nên lưu ý là chúng ta không có những cớ nào khác ngoài lời nói của bà Bertha là Jessica có mặt ở đây.
- Con nghĩ là cô này không có gan làm thế đâu. - Edwin trả lời.
Anh ta rời khỏi chiếc giường để khỏi nhìn thấy khuôn mặt già nhăn nhó của bà Emma.
- Chúng ta không biết bản tính thật của bà Bertha như thế nào. Ba chưa bao giờ nói với con về sự lỗ mãng của bà ấy khi ba đuổi bà ta đi. Còn Jessica, như con đã biết, cô ấy luôn luôn quả quyết là bà Bertha đã thường đánh đập cô.
- Jessica nói láo, ba cũng đã rõ. - Edwin kêu lên.
Ông William nghĩ, đó là chứng dẫn vết thương cũ chưa lành.
- Ba không tin những gì Jessica đã nói, phải không ba?
- Dĩ nhiên rồi. - Ông đáp.
Ông chôn chặt vào lòng ý nghĩ có thể là thật, tuyệt đối có thật tất cả. Ông đã thấy biết bao chuyện kỳ lạ trong cuộc đời làm luật sư của ông, và ông đã nghe biết bao nhiêu là lời dối trá còn quá quắt hơn những gì mà Jessica đã nói về ông. Nhưng Edwin có trực giác tinh tế hơn mấy đứa con khác, đã phát hiện sự dè dặt của ông.
- Ba không muốn thừa nhận Jessica đúng là một con nói dối sao? - Anh ta nói cay đắng và rồi phát hiện đám mây mù trên gương mặt cha - Vera không như thế. Cô ta bảo cô chắc là Jessica nói láo, nhưng cô không muốn thêm rằng cô đã bị thuyết phục hoàn toàn về điều đó, và con phải sống với cái đó.
- Vera đã nhầm to. Nếu ba có do dự, thì chỉ vì nghề luật sư bắt buộc ba phải nghi ngờ mọi sự.
Ông bỗng quyết định an ủi Edwin bằng cách nào tốt nhất trong khả năng của ông, ngay cả chấp nhận hy sinh bản thân mình. Ông cảm thấy máu chầm chậm dâng lên mặt, và mặt ông đỏ phừng.
- Thật sự, Winsten đã nói với ba là Jessica cũng đã có cùng một luận cứ phi lý như thế về ba.
Ông liền nhận thấy là Winsten và Madge đã nói điều đó với Edwin. Gương mặt non choẹt của anh ta chưa biết giấu diếm, mi mắt rung nhè nhẹ, nét nhìn có vẻ mất tự nhiên của anh, những đường nét trên gương mặt biến đổi một cách tinh vi, nó chứng minh là anh đã biết.
Ông William ra sức dùng giọng nói nhẹ nhàng:
- Ba giả sử là chúng con đã trò chuyện với nhau về các điều đó, và đã cười về cái thùng nhồi bột mà ông già tội nghiệp đang loay hoay trong đó.
- Chúng con đã nói với nhau về các chuyện ấy, thưa ba. Madge đã thuật lại cho Vera, khi chúng con đi nghỉ cuối tuần ở đó. Con quả quyết với cô ấy rằng, tất cả những chuyện đó đều là chuyện thêu dệt đầy dối trá.
- Thế con có tin là sự việc đó có thể xảy ra không? - Ông William hỏi có vẻ đùa cợt.
Trước khi Edwin kịp trả lời thì chuông ở cổng reo lên rộn rã và hai cha con cùng đi ra. Ông William khép cửa lại sau lưng. Bỗng ông cảm thấy đuối sức, sợ bị kiệt lực. Bà Bertha mở cửa và trên lối vào, ông thấy ông bác sĩ và một số cảnh sát viên. Ông nói nghiêm chỉnh với Edwin:
- Này Edwin, ba sắp giao cho con tất cả cái vụ gớm ghiếc này. Ba cần về chuẩn bị tinh thần cho mẹ con, liên lạc với Herbert và cô gặp Jessica lại.
Edwin nói và cố làm ra vẻ bình tĩnh:
- Thưa ba, được ạ.
Edwin không có thì giờ để giải đáp câu hỏi của ông William: anh có tin là sự việc đó có thể có hay là không?
Ông William cầm lấy gậy và mũ, đi qua tiền phòng, bắt tay ông bác sĩ và gật đầu chào hai nhân viên cảnh sát.
- Bây giờ các ngài đã đến đây, tôi để cho con trai tôi phụ trách về vụ án này. - Ông nói nghiêm chỉnh -Người đàn bà chết là dì của nhà tôi, và người này là người đầu bếp già của gia đình tôi mới nghỉ hưu. Bà ta sẽ giải thích cho các vị biết về sự có mặt của bà ta ở đây. Nếu các vị cần đến tôi, con tôi có thể liên lạc. Chúng tôi cùng làm chung văn phòng, và nó có đủ tư cách để phụ giúp các vị.
Ông chờ họ trả lời, và khi được sự đồng ý của họ. Ông vội vã ra khỏi nhà, nhờ điện thoại của một hiệu thuốc gần đấy để gọi đem xe ông tới.
Trên vòng đi về, ông cần suy nghĩ con đường ông phải theo. Anh tài xế mới, con của một tá điền ở Vermont, đã nhóa mắt vì thanh phố lớn. Anh ta im lặng và lái xe với ít nhiều phấn khởi, vì anh yêu nghề của mình, còn độc thân và được thoát khỏi nông trại là đã đủ cho anh lúc bấy giờ. Lòng hăng say của anh, sự tận tụy và ý muốn làm đẹp lòng chủ của anh, sẽ bị hao mòn như mọi chuyện khác theo thời gian, nhưng từ đây đến đó nó sẽ làm cho ông William vui. Hôm đó, ông gặp may mắn.
Trong thời gian ngồi trên xe trở về, trí phán đoán của ông William sẽ chạy nhanh và chạy đều. Ông ghi chép từng điểm một, những gì cần phải làm. Ông ghi lại để Edwin theo đó mà làm. Phải bênh vực bà Bertha hay là Jessica, nhưng sự việc không ở trong tay họ được. Ông duyệt qua trong trí danh sách các luật sư ở New york, và ông đã ngừng lại nơi người bạn học cũ và cũng là bạn thâm giao của ông, ông Barnes, Giám đốc văn phòng cố vấn pháp luật Holl Makintosh and Lane.
Khi những giờ phút suy nghĩ dài đằng đẳng sắp kết thúc, và khi ông nhìn thấy những mái nhà của ông rõ nét, nổi bật trên nền trời hoàng hôn, và những ánh đèn nơi các khung của xuyên qua lá cây, thì ông cảm thấy như sức lực của ông đang hồi phục, bao giờ ông cũng cảm thấy khỏe ra khi ông biết rõ ông cần phải làm gì.
Ông gặp bà Elinor nơi ngưỡng cửa. Ông về trễ, nhưng vì thấy bà tươi mắt và quyến rũ quá nên ông ngại, không muốn làm bà mất vui. Thế nhưng ông phải báo tin cho bà biết mới được. Hai ông bà ôm nhau hôn, và ông quàng một cánh tay qua mình bà. Ông nói:
- Em yêu quý, em phải chuẩn bị đón nhận một tin rất buồn.
Bà Elinor liền nghĩ đến các con và các cháu sức khỏe mong manh. Bà hỏi:
- Có phải các con không?
- Không, không. Nhưng là người lớn tuổi nhất trong gia đình chúng ta. Dì Emma. Bà đã chết đột ngột sáng mai này.
- Chết một mình, thật thế sao anh?
- Hãy vào thư viện đi, Elinor.
Khi bà đã ngồi xuống, ông liền kể lại một cách đơn giản những gì ông đã khám phá và bằng cách nào ông đã hay biết tin này.
Bà sợ quá, bà không hình dung nổi sự ghê tởm của những gì đã xảy ra. Không phải chính cái chết làm cho bà kinh hoàng, ông thấy rõ điều đó, vì bà Emma tuổi đã cao, nhưng cách chết của bà ấy nó mâu thuẫn với lòng tốt hiếm có của bà.
- Dì ấy tốt lành biết bao! - Ba Elinor nói - Em không tìm ra được lý do nào đã xảy ra điều ấy. Nhất là khi em nghĩ đến lòng nhân hậu của dì đối với Jessica. Dì ấy nói phải cư xử tốt với Jessica, vì nó là con của chị đầu bếp và anh bồi phòng. Đừng để cho Jessica cảm thấy có sự cách biệt nào đó. Em không bao giờ hiểu tại sao lại xảy ra như thế được. Anh có nhớ không, dì ấy không muốn Jessiac lấy Herbert làm chồng?
- Đừng có quả quyết là chính Jessica! - Ông đứng lên, bước tới máy điện thoại và gọi Herbert.
- A lô, Herbert hả, đây la ông Asher.
- Ồ, chào ông Asher.
- Tôi gọi cho anh từ nhà của tôi đây, Herbert, để hỏi thăm xem Jessica có mạnh khỏe không?
Ông chờ một chút, rồi nghe tiếng Herbart trả lời:
- Cô ấy không sao cả, thưa ông.
- Cô ấy đang ở nhà đấy chứ?
- Vâng, cô ấy đang ở đây này! - Herbert quay đầu, và ông William nghe tiếng của anh ta văng vắng, nhưng rõ ràng: “Em muốn nói chuyện với ông Asher không, Jessica?”. Ông cũng rõ ràng nghe tiếng Jessica trả lời: “Tại sao em lại muốn nói chuyện với con chồn già ấy?”. Tiếng Herbert trở lại trong ống nói: “Cô ấy đang bận việc gì đó, thưa ông Asher. Tuồng như móc đan thì phải”.
- Anh không định về thành phố à, Herbert?
- Không, chúng tôi không xê dịch đi đâu hết.
Ông William do dư. Đặt câu hỏi cách nào đây để được trả lời theo ý ông muốn? Ông nói:
- Có người nói với tôi là Jessica có mặt ở New York, tôi không biết có đúng hay không.
Herbert lặp lại chầm chậm:
- Ở New York? Cô ấy không có ở New York. Làm sao cô ấy ở New York được, tôi đâu có đưa cô ấy đến đó?
Herbert quay đầu lại. Ông William nghe trong điện thoại:
- Ông ấy nói là em ở New York. Jessica, tại sao vậy?
- Đồ tồi, - Có tiếng của Jessica dằn mạnh trong máy điện thoại - nói ông ta lo những chuyện bẩn thỉu của ông ta đi.
Tiếng của Herbert lại nghe rõ ràng trong điện thoại:
- Jessica bảo tôi nói là không, cô ấy không có ở New York. Tôi cho rằng cô ấy muốn ở đó lắm, nhưng tôi không có thì giờ lo cho lũ gà ở đây, tôi bận lắm!
- Có phải tiếng của con bé nhà anh đó không, Herbert? - Ông William hỏi cách lịch sự. Ông lại nghe có tiếng mắng mỏ và tiếng đánh chát một cái.
- Tôi cho là con bé đang hỗn láo với mẹ nó.
- Tôi không muốn làm mất thì giờ của anh, Herbert. - Ông William nói và gác máy.
Thật là rối rắm. Jessica nói dối chăng? Herbert có muốn che đậy cho cô ta không? Ông nói với bà Elinor:
- Herbert cho là Jessica không có ở New York.
- Đâu có gì quan trọng! - Bà Elinor buồn bã trả lời - Tội nghiệp cho dì Emma, một bà già đúng nghĩa, nếu thời buổi này nó còn có nghĩa. Em không rõ, nhưng dì ấy chết như thế là không công bằng. Thật khủng khiếp, giờ phút cuối cùng, em không dám nghĩ đến.
Bà đưa tay lên che mắt lại.
- Em đừng nghĩ tới nữa - Ông William nói - Em nên nhớ là dì ấy có phước, dì sống một đời sống tốt lành và hay giúp người. Dì không làm khác được, dù sự ra đi của dì có khác, dì cũng đã hoàn thành định mệnh của dì.
- Và bây giờ Jessica đã hoàn tất định mệnh của nó! - Bà Elinor kêu lên và buông rơi hai bàn tay xuống đầu gối.
- Em hãy chờ để biết sự thật. - Ông William nói.
* * * * *
Ngày mai táng đúng như những gì bà Emma đã chọn lựa. Thân xác già nua của bà tả tơi sau cuộc giải phẫu, đã trở lại bình thường dễ coi, được tắm rửa và mặc đồ tử tế. Đầu tóc bạc trắng của bà uốn khéo, che giấu vết mổ và hai mi mắt nhắm lại làm tan biến màn bi kịch vừa xảy ra. Xác bà được đặt vào một quan tài bằng gỗ cây dái ngựa, có tay nắm son bạc. Gia đình đã mua đất tại nghĩa trang Manchester, và một đoàn khách lạ đã có mặt. Bạn hữu của bà không mấy người còn sống, nhưng biến cố ghê gớm về cách chết của bà qua báo chí, đã thu hút nhiều xe khách đến từ bốn phương trời.
Gia đình bà đứng trước mộ huyệt chưa lấp đất, chẳng đếm xỉa gì đến đám đông này, trừ bà Elinor. Bà ngó quanh rồi nói một cách bực bội:
- Phải chi dì ấy còn sống, thì tất cả những thứ này đã làm cho dì buồn lòng không ít.
Bởi vì bà Emma không thích những người thô lỗ. Tâm hồn bà nhạy cảm, tế nhị đối với con người, nhưng bà né tránh đám đông và suốt đời sống một cuộc sống gần như biệt lập, chỉ giao du với một số rất ít người mà bà quen biết. Nhưng cái chết của bà lại trở thành một chuyện công khai, báo chí rêu rao nhiều chi tiết, cả bà Bertha lẫn Jessica đã bị câu lưu.
Điều đó không thể nào ngăn chặn được Herbert đã năn nỉ ông William:
- Ông là một luật sư danh tiếng, thưa ông Asher. Ông đã bào chữa cho những kẻ trộm cướp mà ai cũng biết là chúng có tội. Bây giờ Jessica bị giam giữ, trong khi tôi có thể thề rằng cô ta hôm ấy có mặt ở nhà. Con bé cháu lại phải gởi vào cô nhi viện. Bà Bertha bị bắt vì bà ta đã có mặt ở đó, còn Jessica, tôi có thể thề rằng...
- Sự việc này không ở trong tay tôi, - Ông William đáp, giọng chắc nịch - tôi không thể làm gì được hết.
Ông mục sư lấy một nắm đất, bóp vụn ra và rải xuống mộ huyệt. Ông nói: “Bụi tro, hãy trở về với tro bụi!”. Ông tiếp tục đọc bài Thánh vịnh thì một con chim bỗng cất tiếng hót từ cành cây trên đầu ông. Ông William tự hỏi: con chim yến của bà Emma ra sao rồi? Người ta đã quên nó. Đúa con thứ ba của Winsten bắt đầu khóc. Thà đừng cho nó đến đây. Ông William không chấp nhận việc cho trẻ con có mặt trong đám tang, song Madge đã năn nỉ cho chúng đi. Đó là một biến cố của gia đình, cũng giống như sự sinh đẻ. Lũ trẻ cũng phải được cho biết, chúng phải có mặt tất cả ở đó, trừ đứa con trai thứ tư của Wensten còn quá bé.
Các nghi lễ cuối cùng đã chấm dứt, hai cảnh sát viên vẹt đám đông lấy đường cho gia đình của người quá cố ra xe. Họ trở về đóng cửa ở trong nhà, để mặc đám đông bàn tán với nhau ai là người có thể là thủ phạm, bà đầu bếp hay cô gái hầu phòng, con của bà ta. Họ đánh cá với nhau trong khi các người phu vun đất đắp mộ và chất các vòng hoa lên trên. Thân nhân của bà Emma chẳng còn ai để làm chuyện ấy. Ông William và bà Elinor đã gởi đến một vòng hoa thật lớn, đầy hoa hồng và hoa dương xỉ. Phía dưới chân nấm mồ là vòng hoa huệ đỏ của vợ chồng Edwin và Vera. Trên đầu là hoa hồng vàng của Madge và Winsten. Một ít người trong đám đông đã ném vào những cành hoa đồng nội, một đóa hồng vườn, những cành hoa a-lu-ét và cúc đầu xuân.
Bà Emma không phải là một người đặc biệt, ông William tự nghĩ, bà đơn thuần chỉ là một người đàn bà tốt bụng, có lòng thương người, tuy sống có hơi biệt lập. Nhưng cái chết của bà quá tàn bạo, vụ sát nhân này đã lôi kéo sự chú ý của nhiều người, và đã khiến cho nó trở thành quan trọng.
Đánh máy: casau
Nguồn: casau - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 6 năm 2015