← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III MỐI TÌNH VỚI HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI-1

Sau chuyến trở về quê hương trên con tàu định mệnh ấy, Bảo Đại về Huế bái yết thân mẫu Từ Cung, ra mắt quần thần, điều hành triều chính ít ngày. Sau đó, ông đi thăm mấy tỉnh miền Trung, cao nguyên… cùng với Toàn quyền Khâm sứ Pháp để ra mắt dân chúng. Khi trở về, ông thấy trong người mệt mỏi nên được người Pháp đề nghị đến nghỉ mát ở núi Lâm Viên – Đà Lạt.

Nơi đây, người Pháp đã xây dựng nhiều biệt thự cho các viên Toàn quyền, Khâm sứ Pháp lên nghỉ mát, thêm vào đó còn có những ngôi biệt thự sang trọng của các nhà tư sản, người giàu bản xứ. Trong lúc chờ đợi xây một biệt thự dành riêng cho hoàng đế, nếu Bảo Đại muốn chọn biệt thự nào vừa ý để nghỉ mát thì người Pháp sẽ trưng dụng để ông ở ít tháng.

Cũng trong dịp này, gia đình ông Nguyễn Hữu Hào cũng lên Đà Lạt nghỉ mát nhân dịp cô con gái Nguyễn Hữu Thị Lan vừa từ Pháp về được một thời gian.

Sau sáu năm sống ở nước ngoài, về đến Đà Lạt, Lan thấy thật dễ chịu. Khí hậu vùng cao nguyên này giông giống ở Pháp. Đỉnh đồi Tùng Lâm cao 1.548m, giữa khu rừng thông cách trung tâm thành phố Đà Lạt gần mười kilômét trên đường đi Suối Vàng. Qua vòm cống nhỏ, cô như thấy mình lạc vào một thế giới thần thoại với những gốc cây cổ tích mà ở đó có những căn phòng được khoét lõm vào một cách ngộ nghĩnh, những cây nấm thật to bên ngôi nhà rông cách điệu hay đôi hươu sao khổng lồ quấn quýt, một con đang nhẩn nha uống nước còn con kia đang cảnh giới.

Được ví như một “Paris bé nhỏ”, Đà Lạt nên thơ và lãng mạn có lẽ nhờ cái lạnh cao nguyên ban đêm, sương mù buổi sáng sớm và những dải rừng thông bao quanh thành phố. Nơi đó có những con dốc cong, những thung lũng sâu đổ sương mù dày đặc và những ngôi nhà bồng bềnh trên triền núi.

Từ thành phố lớn Paris tráng lệ, hiện đại, nhộn nhịp và từ thành phố Sài Gòn, về nơi đây, Lan cảm thấy sung sướng bởi từ ngày còn thơ bé, cô đã rất yêu thiên nhiên và thích được sống trong lòng thiên nhiên đầy quyến rũ. Cô thích được đi dạo thoải mái, lúc thì cùng người chị gái, lúc thì với người cậu ruột thân thiết Denis An. Ở đây không có xe cộ ồn ào, khói bụi, khí trời lại mát dịu, cô thả sức ngắm nhìn cỏ cây hoa lá và đồi núi. Những thung lũng sâu, những đồi thông reo tạo ra một không gian thật lãng mạn và thơ mộng.

Trong khung cảnh đó, Bảo Đại cùng vợ chồng ông Khâm sứ Charles (cha mẹ đỡ đầu của vua) lên Đà Lạt nghỉ ngơi. Toàn quyền Pháp là Pierre Pasquier ra lệnh cho viên đốc lý Darles (Thị trưởng Đà Lạt) tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace (sau này gọi là khách sạn Lang Biang) với lý do họp mặt giữa vị hoàng đế trẻ tuổi, những người Pháp và một số thân hào nổi tiếng ở miền Nam đang làm ăn ở thành phố cao nguyên này.

Ông Denis Lê Phát An là người quen biết thân tình với ông bà Charles, lại có mối quan hệ với viên Toàn quyền Pháp Pasquier cũng được gửi thiếp mời tới dự tiệc cùng cô cháu gái.

Đó là cuộc gặp gỡ có vẻ tình cờ nhưng mang tính định mệnh giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan, nếu không muốn nói là có sự đạo diễn của người Pháp. Ông bà Charles, nói xa hơn là chính quyền Pháp đã kín đáo ấp ủ, vun đắp cuộc tình duyên này từ lâu. Khi biết Lan xuất thân từ một trong những gia đình thân Pháp nhất ở miền Nam, lại là cháu ruột của ông Denis Lê Phát An, họ nhìn cô với con mắt thiện cảm. Theo ông Charles, Lan là người vừa xinh đẹp, duyên dáng vừa nết na, con nhà giàu, theo đạo dòng, lại đã vào làng Tây học xong bậc Tú tài. Người con gái như vậy sẽ hội đủ điều kiện trở thành hoàng hậu, có thể giúp vua Bảo Đại trị vì xứ An Nam.

Trong lá thư gửi ngài Đại sứ Charles Roux, viên Toàn quyền Đông dương Pasquier giải thích rõ lý do cần thiết để bênh vực cuộc hôn nhân này và phải tích cực đề nghị Tòa thánh can thiệp. Qua lá thư này, chúng ta mới hình dung được tình yêu nồng thắm về sau của đôi trai tài gái sắc này lại bắt đầu từ ý muốn của người Pháp: “Chúng ta đã dạy dỗ đặc biệt chu đáo vị hoàng tử này từ thuở ấu thơ tại Pháp. Vị hoàng đế trẻ tuổi này về bản chất trung thành với nước Pháp đã che chở ông ta, nhưng những suy nghĩ của ông ta vấp phải những thế lực trì trệ và phản động của một chế độ lỗi thời đang suy sụp từ từ, bởi lẽ chính là, trước hết trong triều đình và trong tập quán truyền thống của hoàng cung và tục lệ hoàng gia người ta nhận thấy có sự chia rẽ về quan niệm giữa chế độ quân chủ An Nam già nua và nhà vua trẻ. Trong hoàng cung đầy rẫy dấu vết của cuộc sống xa hoa và khép kín của tổ tiên. Hoàng đế còn phải cưỡng lại quyền hạn của các bà hoàng thái hậu trước đây đã dành cho vua một hậu cung bao gồm những cô gái đẹp nhất trong nước và cố dập tắt trí tuệ mới mẻ của hoàng đế. Việc cấp thiết và có ý nghĩa chính trị là phải nhanh chóng chọn cho hoàng đế người vợ nào có thể giúp nhà vua vô hiệu hóa sức kháng cự và những sự chống đối đó. Còn tất cả các cô gái do các quan đại thần đề nghị đều không được giáo dục theo lối Tây phương và chắc chắn sẽ bị các bà hoàng thái hậu sai khiến. Trong số các cô gái học ở Pháp về chỉ có một người nổi bật lên, có thể sánh đôi với hoàng tử nhưng… cô ta lại là người Công giáo.”[1]

Ý định của người Pháp là có thật nhưng nếu như ngọn lửa tình yêu giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan, giữa đôi giai nhân tài tử này không le lói, không được ngày càng bùng cháy một cách mạnh mẽ không gì có thể dập tắt nổi thì cuộc hôn nhân giữa họ đã có thể không xảy ra.

2.

Một buổi chiều, đang ngồi ở nhà nói chuyện cùng cha mẹ, Lan giật mình khi nghe cậu An nói:

Hôm nay viên Toàn quyền Pháp tổ chức một buổi dạ tiệc tại khách sạn Palace, có mời hai người của gia đình mình. Cậu muốn được đi cùng với cháu Lan à.

Buổi tiệc có những ai và có đông khách mời không hả cậu?

Chắc đông và sang trọng bởi vua Bảo Đại cũng có mặt cùng viên Toàn quyền Pháp và ông bà Charles, cha mẹ đỡ đầu của nhà vua.

Ôi thế thì mình cậu đi thôi, cháu ngại lắm. Cháu chưa muốn xuất hiện chỗ đông người.

Thấy Lan không đồng ý, ông An năn nỉ:

Cậu muốn có cháu đi cùng cho vui. Nếu cháu không muốn, ta chỉ đến tham dự một lúc và vái chào nhà vua xong là về thôi mà!

Nể lời cậu, lại được cha mẹ động viên, Lan nhanh nhẹn mặc quần áo. Cô chọn chiếc áo lụa màu thanh thiên nhã nhặn và trang điểm sơ sài rồi đi cùng cậu đến dự tiệc.

Hai cậu cháu đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Ông An kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì bà Charles trông thấy, bà đi nhanh về phía họ và nói:

Ôi! Ông An, chào ông.

Quay sang Lan, bà bảo:

Chào cô. Rất vui là ông và cô đã đến. Đây là…

Ông An vội trả lời:

Chào bà. Chúng tôi cũng rất vui khi biết ông bà có mặt tại đây. Đây là Marie Thérèse Nguyễn Hữu Hào, cháu gái tôi.

Lan cũng nhanh nhẹn đáp:

Chào bà. Rất hân hạnh được làm quen với bà.

Nỗi niềm vui mừng hiện rõ trên khuôn mặt bà Charles bởi Lan đã chấp nhận đến dự tiệc. Trong thực tế, Lan không biết bà Charles nhưng bà Charles lại đã được nghe nói nhiều về cô. Bà nắm lấy tay ông An, kéo cả hai vào nhà. Vừa đi bà vừa nói:

Ông và cô phải đến bái yết hoàng thượng mới được.

Ông An trả lời:

Vâng, cám ơn bà.

Lần đầu tiên được đưa đến gặp trực tiếp nhà vua nhưng cô Lan thấy lòng bình thản, không có một dấu hiệu gì của sự lo lắng, hay run sợ. Có lẽ do cô đã có những năm tháng sống ở nước ngoài và đã được giáo dục, biết cách cư xử bình tĩnh, lễ độ với người trên chăng.

Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, cô thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Lúc đó, bà Charles bước tới bên cạnh vua rồi cúi chào và nói:

Thưa ngài, đây là ông Denis Lê Phát An và cháu gái ông ấy, cô Marie Thérèse.

Sau lời nói của bà Charles, cô Lan đã không ngần ngại đến trước mặt hoàng đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà để chào vua cho đến khi thấy bàn tay người cậu kéo cô dậy, cô mới đứng lên.

Vua Bảo Đại gật đầu chào cô. Đúng lúc đó, tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu tănggô. Ngài ngỏ lời mời và dìu cô ra sàn nhảy. Chỉ mấy phút sau, cả hai đã hòa nhịp cùng tiếng nhạc và tỏ ra là những vũ nam, vữ nữ sành điệu. Hầu như tất cả các con mất đều đổ dồn về phía họ: “Ôi! Nhà vua nhảy đẹp quá!”, “Bạn nhảy của ngài quả là tuyệt vời!”, “Cô ta ở đâu ra mà nhảy sành điệu thế nhỉ? Cứ như là vũ nữ nhà nghề ấy!”, “Quả là một cặp nhảy xứng đôi!”. Vừa nhảy, hai người vừa nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Nhà vua trẻ nhìn cô không chớp mắt, rồi vua lên tiếng:

Nàng sang Pháp từ năm nào?

Tâu hoàng thượng, cha mẹ em gửi em sang Pháp học từ năm 1926.

Bên đó, nàng ở thành phố nào? Học ở trường nào?

Tâu Hoàng thượng, em học tại trường dòng Les Oiseaux de Neuilly ở Paris.

Ồ trường ấy thì tốt quá. Nhưng tại sao nàng lại vào học tại trường dòng? Nàng là người theo đạo Công giáo à?

Lan đáp, giọng nhỏ nhẹ:

Thưa vâng! Từ ngày còn nhỏ, tại Sài Gòn, em cũng đã được học tại trường dòng.

Thế nàng về nước lâu chưa?

Dạ thưa, em về từ tháng 9 năm nay, trên chuyến tàu D’Artagnan, khởi hành từ Marseille.

Thật thế sao? Ôi một sự trùng hợp kỳ diệu! Ta cũng vậy, ta cũng trở về Việt Nam trên chuyến tàu đó.

Lan tiếp tục, lòng không chút giấu diếm:

Tâu hoàng thượng, em có biết điều đó và chính em đã trông thấy ngài ngay tại phòng ăn trên tàu. Nhưng em đã không nghĩ là chúng ta lại có thể gặp lại nhau.

Bảo Đại không rời mắt nhìn nàng, lòng tự nhủ: Ôi quả thật đây là một cô gái đẹp, một vẻ đẹp sắc nước hương trời, dịu dàng đầy quyến rũ cùng với lối cư xử hiện đại mang một chút văn hóa Pháp Âu! Nàng tiếp chuyện tự nhiên, không quá e lệ nhưng lại không sỗ sàng, làm người khác khó chịu.

Và quả thật, Bảo Đại đã bị chinh phục ngay từ phút đầu của lần gặp gỡ định mệnh tại buổi tiệc chiêu đãi ở khách sạn Palace ấy.

Về sau, khi đã thành vợ chồng, Bảo Đại đã nói cho Lan biết rằng buổi tối hôm đó, ông rất chú ý cách trang phục đơn sơ của cô. Và có lẽ ông đã đặc biệt chú ý đến cô bởi ngoài vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm của người con gái phương Đông, cô là người phụ nữ Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi phương Tây đối với ông.

Nhưng có lẽ cái vẻ trẻ đẹp phương Đông trời phú này cũng chưa thể làm xao động con tim của vị hoàng đế hào hoa phong nhã nếu như tâm hồn cô Lan không phong phú, không thấm đẫm nền văn hóa phương Tây, không có trí tuệ học vấn để tiếp chuyện ông bằng tiếng Pháp, thứ tiếng mà ông đã dùng trong suốt mười năm kể từ khi ông mới có chín tuổi. Đó cũng là một điều đáng kể.

Còn về phần cô Lan, tình cảm của vị hoàng đế trẻ, người đàn ông đàn hay, khiêu vũ đẹp, bắn súng giỏi, chơi quần vợt khó ai thắng, ăn nói lịch thiệp, ứng xử nhã nhặn khiến lòng cô xao xuyến. Là người được sống nhiều năm ở Pháp, hiểu biết văn hóa phương Tây nhưng trong tình yêu, cô Lan lại hành xử theo cách của người con gái phương Đông, đắm say chân thành nhưng nhẹ nhàng kín đáo. Về sau, khi một phóng viên của tờ báo Sài Gòn xin phỏng vấn về tình yêu giữa vua Bảo Đại và cô, cô đã trả lời: “Cuộc hôn nhân giữa tôi với hoàng thượng là một sự tình cờ. Chúng tôi gặp nhau trong một buổi dạ hội cuối năm 1932. Lúc đó tôi mới mười tám tuổi, tôi không để ý gì đến hoàng đế nhưng hoàng đế đã chú ý đến tôi…”.

Điều này cũng đã được Bảo Đại nhắc đến trong cuốn hồi ký của mình để nói lên sắc đẹp, nét duyên dáng và sự hiểu biết của Lan đã làm ông xao xuyến ngay từ lần gặp gỡ này: “Sau một vài cuộc trao đổi, một thứ tình cảm êm ái nảy nở giữa hai chúng tôi. Chúng tôi hứa với nhau sẽ gặp lại nhau”.

Không những Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan cùng yêu âm nhạc, mê nhảy đầm mà cả hai đều rất thích thể thao. Những ngày nghỉ ở Đà Lạt, Bảo Đại thường được vợ chồng ông bà Charles mời đến sân quần vợt của dinh Toàn quyền chơi tennis và họ cũng mời cả vợ chồng Denis Lê Phát An cùng Lan tới chơi. Dù không thiện nghệ như Bảo Đại, nhưng niềm đam mê thể thao và năng khiếu chơi tennis của Lan cũng làm cho lòng nhà vua trẻ ham thích các hoạt động, các thú vui tiêu khiển, ngày càng đắm say. Nhịp đập của hai con tim như hòa cùng với những cú đập bóng. Trái tim của họ đã thật sự rung động sau những cuộc chơi cùng như thế. Có lẽ vì quá yêu thể thao mà sau này Bảo Đại đã thừa nhận trong cuốn “Con rồng An Nam” là không chỉ mê Nam Phương hoàng hậu trên sân bóng mà còn cả về sau, khi đã thoái vị và trở thành công dân Vĩnh Thụy, được Bác Hồ mời ra sống và làm việc ở Hà Nội, ông lại mê một người phụ nữ trẻ, đẹp khác cũng trên sân quần vợt. Đó là Bùi Mộng Điệp.

Ngay trong khu vực đất trống ở phía tây bắc cửa Tử Cấm Thành của Đại Nội - Huế, vào năm 1933, vua Bảo Đại đã cho xây một sân quần vợt. Đây là nơi phục vụ hoạt động thể thao của hoàng gia, đặc biệt là vua Bảo Đại và tiếp tân quan khách.

Rồi như có tình yêu mách bảo, vua Bảo Đại không ngần ngại chấp nhận lời mời của ông bà Denis Lê Phát An để đến thăm gia đình cô Lan tại ngôi biệt thự sang trọng của gia đình họ Lê ở Đà Lạt.

Sau này, khi đã về già, những kỷ niệm của mối tình đầu đắm say mãnh liệt lại trỗi dậy trong lòng, Bảo Đại đã viết trong cuốn hồi ký của mình: “Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỷ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như các Tiên đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng (tức vua Gia Long) đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa hoàng triều Huế với người dân miền Nam”.

3.

Những cuộc thăm viếng, những buổi chơi thể thao, những tối khiêu vũ trong tiếng nhạc du dương, lúc trầm, lúc bổng, lúc nhanh, lúc chậm, những lúc dạo chơi cùng nhau trong khung cảnh thanh bình, thơ mộng của Đà Lạt, làm cho lòng họ như quyến luyến nhau hơn. Họ như thấy lại nơi đây khí hậu ôn hòa của thành phố Paris tráng lệ nhưng không ồn ào náo nhiệt mà lại tĩnh lặng cùng với thiên nhiên quyến rũ đến khủng khiếp. Cảnh vật, thiên nhiên và lòng người như tạo thêm cho họ cơ hội đến với nhau, gần gũi, đắm say và tha thiết.

Vậy rồi điều gì phải đến đã đến. Tình yêu là lửa. Nếu như lúc đầu có sự dàn xếp tính toán chính trị về phía Pháp thì lúc này đâu có cần họ phải can thiệp hay nói thêm một lời nào. Tình yêu thật sự giữa đôi trai tài gái sắc đã đốt chính người trong cuộc. Không thể kìm giữ lòng mình, dù là hoàng đế, nhưng là một vị hoàng đế hiện đại, Bảo Đại đã không ngần ngại thổ lộ với Lan:

- Lan ơi, ta đã yêu nàng say đắm. Ta không biết phải nói sao để nàng hiểu được lòng ta yêu nàng biết nhường nào?

Lan ngập ngừng:

- Tâu Hoàng thượng! Ngài không nói đùa đấy chứ?

- Không! Ta nói thật lòng. Ta yêu em từ cái nhìn đầu tiên và kể từ đó ta không muốn rời xa em nữa. Em có yêu ta nhiều không?

Lan tỏ ra kín đáo nhưng không hề e lệ:

- Thưa ngài, em cũng rất yêu ngài.

Bảo Đại mừng rỡ:

- Ôi! Ta cám ơn em!

Lan nói tiếp:

- Thưa vâng! Nhưng cũng xin ngài hiểu cho, đó là tình cảm của em đối với ngài và là ý kiến của riêng em. Em còn cần có sự đồng ý của gia đình em.

Được, ta sẽ chờ.

….

Đây là việc đầu tiên Bảo Đại phá tan thủ tục của triều đình. Bởi vì theo lệ xưa nay, mỗi khi hoàng đế tuyển phi, triều đình thường dâng lên hoàng đế bản danh sách những cô gái phần lớn là con các đại thần. Nhưng cũng có nhiều khi danh sách được dâng lên vua cha trước. Vua cha sẽ chọn trong số danh sách đưa lên những người xứng đôi vừa lứa với con trai mình. Như một khế ước với Trời, ông phải ưu tiên chọn những cô gái nết na, dòng dõi trâm anh thế phiệt, sùng kính thần thánh, tôn trọng các lời dạy của Khổng Tử và dĩ nhiên cả thờ Phật. Tổng hòa các tín ngưỡng đó tạo ra một thứ tôn giáo của đa số người Việt. Hơn là một tôn giáo, đó là dấu ấn của một nền văn minh khác biệt khá rõ với các tục lệ của các nước khác. Chạm đến quy tắc này coi như chạm đến luật lệ của nhà nước.

Vậy mà Bảo Đại đã lựa chọn một cô gái tại Đà Lạt và hỏi thẳng ý kiến của cô ta để quyết định lấy làm vợ không thông qua ý kiến của bất kỳ một vị đại thần nào ở triều đình cũng như hoàng thái hậu. Ông đã làm đảo lộn tất cả phong tục tập quán cũ của hoàng triều.

4.

Trong khi Bảo Đại còn theo học ở Pháp, bà Từ Cung thái hậu đã lo nghĩ đến tương lai của dòng họ, đã nghĩ đến việc tìm bạn trăm năm cho con. Tại Huế, bà đã cho dò xét thân thế, phẩm hạnh, sắc đẹp của bao nhiêu tiểu thư khuê các con những vị đại thần để bà có thể lựa chọn được một nữ sinh con một vị đại quan có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, đồng thời gia đình của tiểu thư đó cũng sùng mộ đạo Phật như bà. Cuối cùng, hình như bà đã chấm cô tiểu thư ấy (Về sau, do không thành đôi lứa cùng Bảo Đại, cô này đã lấy chồng họ Phạm, giáo sư trường Quốc học Huế). Kể từ đó, bà chỉ còn mong đợi ngày con mình ngự giá hồi loan chính thức điều khiển việc nước là làm lễ thành hôn cho đôi lứa.

Xuất thân từ nơi dân dã, do may mắn, bà được tiến cung làm hoàng hậu. Vì vậy, bà cố học hỏi cho thành người đài các chốn cung đình, cố trau dồi đức hạnh cho thành người vợ hiền dâu thảo. Nhưng chẳng may chồng bà (vua Khải Định) mất sớm. Bà chỉ có mỗi mụn con trai nên bà thiết tha mong cho con trưởng thành để nối nghiệp vua cha và nối dõi tông đường. Vì thế, đối với bà, việc tìm kiếm một nàng dâu đức hạnh mọi bề là điều quan trọng thiết yếu nhất. Quan trọng vì không phải chỉ thương con mà còn vì danh dự triều đại nhà Nguyễn nữa. Nhưng rồi điều trớ trêu lại xảy ra. Bà không ngờ rằng trong lúc bà đang sống những giây phút rộn ràng của bất kỳ một người mẹ nào đang lo chuyện trăm năm cho con, thì người Pháp với các thế lực giáo quyền và thế quyền có trong tay, đã âm thầm thực hiện ý đồ vượt quyền hạn và nhấn chìm giấc mơ của bà để cưới vợ cho Bảo Đại dựa vào những tiêu chuẩn chính trị của chính sách bảo hộ lâu dài.

Sau khi ngỏ lời yêu với Lan, Bảo Đại trở về Huế thưa với bà Từ Cung hoàng thái hậu về câu chuyện tình yêu của mình và những dự định sẽ làm. Nghe con nói chuyện nhưng bà Từ Cung không hề vui. Trái lại, bà tỏ ra lo lắng, nét mặt u buồn bởi cô Lan là một người theo đạo Thiên Chúa giáo, lớn lên trong lối sống của phương Tây, không phải sống và được đào tạo, giáo dục trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam. Lại còn chuyện giáo dục con cái về tôn giáo, khi chúng lớn lên, được phong làm hoàng thái tử thì làm sao cử hành được việc thờ cúng liệt thánh hay lễ tế đàn Nam Giao? Không chỉ trong hoàng tộc và đình thần, cả dân chúng, tất thảy đều lo lắng bàn tán xôn xao.

Sau này trong cuốn hồi ký “Con rồng An Nam”, khi nhớ đến việc này, hoàng đế Bảo Đại đã viết: “Khi trở về Huế, tôi có kể lại cho mẫu thân tôi chuyện này, và ý định của tôi. Bà không mấy hoan nghênh, khi biết cô theo đạo Công giáo và cũng Tây học như tôi. Bà muốn rằng tôi nên lấy được người vợ biết tôn cổ, biết đạo tam tòng tứ đức. Mặt khác, bà cũng rất quan tâm về vấn đề giáo dục con cái theo đạo Thiên Chúa. Thế nhưng, đây không phải chỉ là vấn đề hoàn toàn tôn giáo, mà là một vấn đề quốc gia. Bởi vì, nếu trẻ con sinh ra do cuộc hôn nhân này, lại theo đạo Công giáo, thì nay mai đây, người kế vị lên làm vua, làm sao có thể biết phụng thờ tôn miếu, và làm lễ tế Nam Giao? Triều đình cũng rất bỡ ngỡ, các vị Tứ trụ triều đình bàn cãi sôi nổi. Lần gặp gỡ về sau với cô Marie Thérèse, tôi ngỏ ý muốn lấy cô, tôi quyết định bất chấp cái thủ tục cổ lỗ kia và sẽ báo cho triều đình ý định này”.

Để làm an lòng mẫu hậu, Bảo Đại nói rằng ông sẽ thuyết phục người vợ tương lai để những đứa con sinh ra sẽ theo đạo Phật, đặc biệt là đứa con trai sẽ được phong làm Thái tử.

Nhưng khó khăn về phía gia đình cô Lan thì sao? Là người theo đạo Công giáo, cô Lan không được lấy chồng ngoại đạo nếu không được phép của Giáo hội. Đây là vấn đề tế nhị, cô phải yết kiến Đức Thánh Cha tại Vatican để xin phép. Theo luật Công giáo, hai bên nam nữ phải đến nhà thờ làm lễ thành hôn, nếu khác tôn giáo thì phải có phép của Giáo hội thề một vợ một chồng, các con sinh ra phải theo đạo Công giáo. Ai không tôn trọng luật đó thì bị “dứt phép thông công”, nghĩa là bị khai trừ khỏi Giáo hội như vua Henri VIII nước Anh và vua Napoléon nước Pháp.

Quả đúng như vậy. Đạo Công giáo của cô Lan là một trở ngại lớn nhất đối với hôn nhân, gây công phẫn trong hoàng gia đến mức vấp phải sự phản đối quyết liệt. Thời đó, triều đình nhà Nguyễn, qua nhiều đời vua, chủ trương chống lại Công giáo, chống lại chính sách của chính quyền bảo hộ Pháp, trong khi đó gia đình cô Lan lại mang quốc tịch Pháp và đặc biệt lại sùng đạo. Người ta còn nhớ năm 1847, cụ tổ của Lan là Mathieu Lê Văn Gẫm đã bị chính vua Tự Đức – cụ của Bảo Đại – xử giảo vì không chịu bỏ đạo. Ngày nay trước sân nhà thờ Huyện Sỹ, sừng sững một pho tượng mới dựng gần đây, đó chính là tượng Mathieu Lê Văn Gẫm đã tử vì đạo.

Thật là phức tạp! Bởi vì người được chọn ở đây sẽ là vợ vua, là mẫu nghi thiên hạ. Bỏ qua tất cả những thủ tục từ ngàn xưa đó chính là bỏ qua các quy tắc của một nhà nước phong kiến.

Vậy mà rắc rối vẫn chưa phải đã hết! Khi gặp lại Lan, Bảo Đại tưởng sẽ được an ủi ít nhiều với hy vọng cô thuyết phục được gia đình và hiểu được những khó khăn mà họ sẽ gặp phải. Bởi vì cụ Tôn Thất Hân, cựu thượng thư bộ Hình định thảo một kiến nghị có chữ ký của các đại thần đứng đầu các bộ và các nha phủ quan trọng trong triều yêu cầu nhà vua nên từ hôn với cô Lan. Bản thân ông và các quan còn nghĩ đến việc buộc cô Lan bỏ Công giáo theo đạo Phật pha trộn với đạo Lão đang thịnh hành ở Việt Nam nếu lấy Bảo Đại. Vị cựu thượng thư còn nói thêm có một vài vị quan quyền cao đức trọng tỏ ý thà chết còn hơn được thấy việc hôn nhân này vi phạm những nguyên tắc của nhà nước quân chủ. Rồi những chỉ dụ cấm đạo hồi nào mới chỉ vừa ráo mực. Đúng là lòng người còn chưa ổn. Bao mối suy nghĩ ngổn ngang trong long, vậy mà khi gặp lại người thương, vị vua trẻ như không còn nghĩ được gì trước biển tình yêu mênh mông mà ngài đang chìm đắm. Ngài hỏi cô:

Nàng ơi, ta nhớ nàng nhiều vô kể. Không một đêm nào trước khi ngủ ta không thầm gọi tên nàng, không một bữa ăn nào ta không nghĩ đến nàng.

Nói rồi, Bảo Đại kéo Lan vào lòng, ôm hôn say đắm cứ như họ đang sống ở đất nước của đôi tình nhân nổi tiếng: Roméo và Juliette, chứ không phải trong xã hội phong kiến Việt Nam với những kỷ luật còn khắt khe, trói buộc. Ghé sát vào nàng, nhà vua nói khẽ:

Lần trước nàng nói rằng nàng phải chờ ý kiến đồng ý của gia đình nàng trước đã. Nay nàng có thể nói cho ta hay.

Giọng nhẹ nhàng nhưng dứt khoát, Lan nói:

Thưa ngài, gia đình em đồng ý với điều kiện em phải được giữ nguyên đạo Công giáo và các con sinh ra phải được rửa tội theo luật Công giáo và giữ đạo. Riêng ngài thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo. Chúng ta phải được Tòa thánh La Mã cho phép hai chúng ta kết hôn và giữ đúng luật Công giáo, nghĩa là chúng ta phải thề hứa một vợ một chồng. Ngoài ra gia đình em muốn em phải được tấn phong hoàng hậu chánh cung ngay ngày cưới.

Ta hiểu điều nàng nói, ta sẽ tìm cách thuyết phục mẫu hậu và triều đình.

Lạ thay, những lời nói của Lan chỉ làm cho Bảo Đại càng mến yêu, cảm phục và nể trọng cô hơn. Bởi ý nghĩ và cách nói của cô chứng tỏ cô là người có cá tính, bản lĩnh, can đảm và trung thành với đạo giáo của cô. Giả dụ một người phụ nữ khác thì sao? Có thể họ sẽ bỏ tất cả, sẽ làm tất cả và bằng bất cứ giá nào để được làm hoàng hậu. Hiểu đến cội nguồn mới hiểu được nhân cách của cô, cái cao quý của một nhân phẩm và cái trong sáng, ngay thẳng của một cô gái có học thức, có giáo dục.

Nhưng thực tế, cản trở không dễ dàng vượt qua vì mối tình tuyệt đẹp đó lại không đi đôi với những tiền lệ. Mối tình của họ đẹp đến nỗi có người đã ví nó như mối tình giữa Clovis và Clotilde (Clovis đệ nhất là vua của người Francs, cư dân cổ xưa trên đất Pháp, thế kỷ V-VI sau công nguyên và Clotilde là vợ. Hai vợ chồng nổi tiếng đẹp đôi trong lịch sử). Vị vua trẻ tuổi không phải không biết tục lệ truyền thống nhưng ông tự dành cho mình quyền được cải tổ tập quán cũ và quy định những nghi thức mới.

Quyết định giải tán tam cung lục viện, phá bỏ chế độ đa thê đang thịnh hành ở Việt Nam của vua Bảo Đại đã thật sự làm cho giới thân cận ông ngỡ ngàng và choáng váng. Tại Huế, nhiều mưu tính dự định từ lâu bỗng tắt ngấm, nhiều số phận bị chao đảo. Số phận của biết bao cô gái nhiều năm nay đã được chuẩn bị để làm hoàng hậu bị lung lay. Trong số đó, ngoài cô gái đã được bà Từ Cung thái hậu để mắt, còn có hai cô khác được tách khỏi gia đình ngay từ thời thơ ấu để tập làm đẹp, học cách giữ gìn ý tứ. Các cô thiếu nữ này đã được dạy dỗ và học cách trang điểm để trở thành vợ vua, phải mất nhiều năm học mới thuộc hết những lề thói và phép tắc trong cung, học cách chăm sóc và chiều chuộng cả những ham thích của vua. Các cô còn phải học thuộc những lời giáo huấn của Đức Phật. Vậy mà giờ đây tất cả đều bị dẹp bỏ hết. Sự kiện không chỉ liên quan đến các cô gái bởi chính họ lại là con cái của các quan đại thần triều đình, trong đó còn có con của một vị thượng tọa trong một ngôi chùa ở Huế.

Với quyết định trên, Bảo Đại cam kết với Lan sẽ giữ luật một vợ một chồng, phong cho cô làm hoàng hậu và để cô được tự do về tôn giáo. Thật ra, đối với vấn đề tôn giáo, vua Bảo Đại rất thoáng, minh bạch và trung lập. Ông đã từng viết: “Au Palais, il n’y avait qu’un Dieu: l’empereur, fils du Ciel” (Tại Cung điện, chỉ có một Đức Chúa: đó là hoàng đế, con trai của Thượng đế).

Về vấn đề tôn giáo, gia đình cô Lan cũng vô cùng lo lắng. Họ quyết định nhờ Tòa thánh can thiệp. Nhận thấy đây là một gia đình ngoan đạo, gương mẫu và có vai vế trong xã hội, đại diện Tòa thánh ở Đông dương đã đặt vấn đề lên Giáo hoàng và ít lâu sau chính nước Pháp qua ngài Đại sứ Pháp tại La Mã đã có những cuộc vận động ráo riết với Vatican.

Tuy nhiên, ban đầu Giáo hoàng Pierre XI không đồng ý ngay. Có lẽ đức Giáo hoàng còn muốn có lời cam kết của đôi vợ chồng sắp cưới được thể hiện bằng một bức thư có chữ ký của cả hai mà trong đó con của họ sẽ sinh ra phải được rửa tội và được dạy dỗ theo khuôn khổ Cơ đốc giáo chăng. Điều đó thật khó tưởng tượng vì người đứng đầu một quốc gia theo Phật giáo sao lại có thể được rửa tội và nhận tên thánh.

Vì vậy trong thực tế, dù đồng ý với những đề nghị của gia đình cô Lan, vua Bảo Đại đã không viết lời cam kết trên. Theo hồi ký của ông, chỉ sau khi làm đám cưới xong, ông mới gửi cho Giáo hoàng Pierre XI một lá thư qua trung gian người Pháp vì thời đó nước ta chưa có liên lạc ngoại giao với Vatican. Lá thư của ông gửi cho Tòa thánh không phải là để xin phép hoặc cam kết như yêu cầu của Giáo hoàng mà là để bày tỏ lập trường và quan điểm của ông lúc đó: Cette lettre avait moins pour but de régler la question personnelle de mon mariage et de l’éducation envisagée pour mes enfants que d’apporter et de provoquer des éléments de réponse à un conflit ouvert depuis des siècles et, plus encore, de faciliter la rencontre entre deux mondes: l’Occident et l’Oriental, à travers notre pays d’Annam, terre de rencontres, et à travers ma personne qui, pour la première fois et vraisemblablement pour la dernière, par l’éducation reçue, réunissait les conditions d’une véritable confrontation entre deux civilisations.(Bức thư này gửi ngài không nhằm mục đích giải quyết vấn đề cá nhân về lễ thành hôn của tôi và về việc giáo dục đối với các con tôi về sau, mà nhằm mong muốn mang lại và gợi ra câu giải đáp cho sự xung đột đang diễn ra từ nhiều thế kỷ nay và hơn nữa nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho sự giao lưu giữa hai giới phương Tây và phương Đông thông qua đất nước An Nam, mảnh đất của những cuộc gặp gỡ, và thông qua cá nhân tôi, người đầu tiên và có vẻ cũng như là người cuối cùng, nhờ vào nền giáo dục được tiếp nhận, đã tập hợp được những điều kiện của cuộc xung đột thật sự giữa hai nền văn minh).

5.

Rắc rối về tôn giáo lớn đến là vậy nhưng khó khăn đến với họ vẫn còn nhiều. Khi vua Bảo Đại muốn thực hiện đề nghị của gia đình cô Lan: tấn phong cô làm hoàng hậu ngay trong ngày cưới, ông đã gặp biết bao trở ngại. Việc tấn phong hoàng hậu ngay sau khi cưới nếu xảy ra sẽ là một biệt lệ đối với các vợ vua triều Nguyễn, vì mười hai đời vua Nguyễn trước, các bà vợ vua chỉ được phong tước Vương phi, đến khi vua chết mới được phong là hoàng thái hậu.

Chức tước hoàng hậu bị bãi bỏ kể từ vua Minh Mạng trở về sau. Vì sợ tiếm đoạt ngôi nên vua Minh Mạng đặt ra ngũ bất lập. Đó là: bất lập hoàng hậu, bất lập Đông cung, bất lập Tể tướng, bất phong Vương tước, bất tuyển Trạng nguyên. Kể từ đó, cấp bậc các bà vợ vua được chia làm cửu giai cũng như các cấp bậc của ngạch quan lại được chia làm cửu phẩm. Người đứng đầu trong cửu giai là hoàng quý phi.

Khi nghe Bảo Đại đề đạt đến việc tấn phong hoàng hậu cho cô Lan, cụ Tôn Thất Hân, người giữ chức cao nhất triều đình lúc bấy giờ, là Viện trưởng Viện Cơ mật kiêm Thượng thư hộ Hình (Bộ Tư pháp), là Đại lão rất uy quyền, nói:

Thị Lan chỉ đậu Tú tài toàn phần Pháp, không thể so sánh với Trạng nguyên xứ ta, lại đòi làm hoàng hậu nữa thì không thể chấp nhận được.

Trong Hoàng tộc, mỗi người một ý nhưng hầu hết đều đồng ý với ý kiến của cụ Tôn Thất Hân. Tất cả, tất cả đang chờ đợi câu trả lời của hoàng đế. Thật căng thẳng! Tuy nhiên, rất bình tĩnh, trước Hoàng tộc, vua Bảo Đại thẳng thắn trả lời:

Trẫm cưới vợ cho trẫm, đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và triều đình!

Cả Hoàng tộc lặng im phăng phắc. Tất cả các triều thần đều trố mắt nhìn nhau. Họ còn biết nói sao, phản ứng ra sao nữa. Một câu nói chắc như đinh đóng cột, mạnh như vũ bão, nhanh như cắt đã thật sự làm nao núng lòng của những người quan quân mang tư tưởng cổ hủ bấy lâu nay. Câu nói của vị hoàng đế trẻ tuổi đã đi vào lịch sử.

Tình yêu không những là lửa, đốt lòng những người đang yêu mà còn là sức mạnh chiến thắng. Tình yêu là trên tất cả. Vua Bảo Đại đã vượt qua tất cả những lễ nghi phong kiến ràng buộc nghìn đời nay để lấy Nguyễn Hữu Thị Lan, bởi sức hấp dẫn từ người con gái này. Không những thế, ông còn thực hiện tất cả những yêu cầu của cô và gia đình cô.

Những điểm trên là sự ưu ái chưa từng có từ trước tới thời điểm vua Bảo Đại, đủ thấy sức hút của cô Lan đối với vị vua trẻ mạnh biết chừng nào.

Điều đó cũng chứng tỏ tình yêu giữa hai người là có thật. Không những họ yêu nhau mà còn yêu nhau tha thiết và đắm say. Trai tài gái sắc hợp ý mến mộ nhau rồi yêu nhau và quyết định đi đến hôn nhân.

Chú thích.

[1] Grand Clément – Bảo Đại ou les derniers jours de l’Empire d'Annam, trang 26.