Chương 2 NHỮNG THÁNG NĂM HẠNH PHÚC-1
Tại điện Kiến Trung, cặp vợ chồng trẻ - người đứng đầu nhà nước phong kiến – đã sống những năm tháng tràn trề hạnh phúc. Cho đến những năm sau ngày cưới, vua Bảo Đại vẫn vô cùng yêu vợ. Ông tự hào về bà. Chẳng những về nhan sắc của bà như ông đã từng viết trong hồi ký: “Chân dung Nam Phương hoàng hậu mặc quốc phục thật xứng đáng là “Đệ nhất phu nhân”. Trông gương mặt bà sang trọng mà không kiêu, hiền mà không tầm thường, dễ dãi. Nụ cười kín đáo nhưng không quá e lệ. Đôi mắt nhỏ mà tinh anh. Chiếc cổ tròn, thon và cao hợp với khuôn mặt, vóc dáng bà…” mà còn về tư cách, đạo đức, tính tình hiền dịu nhưng kiên quyết, về cách sống và công việc hàng ngày mà bà thể hiện.
Toàn bộ nhân cách và trí thông minh sắc sảo của hoàng hậu Nam Phương là những yếu tố cần thiết để xóa tan không khí ngờ vực xung quanh bà, trong triều đình và kể cả trong dân chúng. Bà tham dự các buổi lễ Phật, đi thăm các lăng tẩm, luôn đứng thẳng người nhưng hai tay bao giờ cũng chắp lại ngang ngực với một thái độ kính cẩn. Bà luôn tôn trọng những nghi lễ của triều đình. Tuy nhiên bà quyết tâm thực hiện những cải cách đã đưa ra. Việc xóa bỏ chế độ phi tần chính là chấm dứt cả bộ sậu hoạn quan, thái giám, những người trước đây đã cai quản và dẫn dắt các cung nữ. Từ nay, bà sẽ là hoàng hậu duy nhất. Vua Bảo Đại đã cam kết với bà sẽ không sinh hoàng nam với ai khác để không xảy ra chuyện tranh giành ngôi báu về sau.
Qua những gì đã xảy ra tại triều đình nhà Nguyễn qua các đời vua trước, Bảo Đại đã thấm thía vấn đề này. Vì vậy sự bàn bạc của hoàng hậu Nam Phương chỉ là một phần còn bản thân ông cũng hiểu điều ông cần phải làm. Về vấn đề này, ông đã viết trong hồi ký của mình: “… Khi đề cử tôi lên làm Đông cung thái tử, không có gì là khó khăn, vì tôi là con trai độc nhất của cha tôi, nhưng tôi từng biết, có nhiều tấn bi kịch đẫm máu xảy ra vì chuyện tranh chấp kế vị, nhiều khi có tính chất hèn hạ, xấu xa, giữa anh em ruột hay anh em khác mẹ, mà tôi muốn tránh vết xe đổ ấy”.
Là một phụ nữ đầu tiên có học, ảnh hưởng nếp sống, nếp nghĩ phương Tây, hoàng hậu Nam Phương tôn trọng tinh thần dân chủ, coi trọng ý thức xã hội. Ngoài việc chăm lo nâng giấc cho đức vua như các phi tần trước đây, bà tham dự vào hầu hết các hoạt động của triều đình. Bà cùng họp với các quan bộ Lễ, bàn cách tổ chức các buổi lễ tế Nam Giao hay lễ Vạn Thọ. Mỗi năm khi lễ Vạn Thọ được tổ chức để mừng sinh nhật nhà vua, bà lo lắng tham gia sửa soạn cùng các quan để buổi lễ được diễn ra tốt đẹp tại điện Thái Hòa. Rồi tiếp đến là lễ Bái Khanh để cho mọi người có dịp bày tỏ lòng trung thành đồng thời chúc thọ nhà vua trăm tuổi. Ngoài đường, các học sinh đi diễu hành, tay cầm cờ Long Tinh, vừa diễu hành qua cửa Ngọ Môn vừa hát. Bên trong hoàng thành, tổ chức các màn múa hát do các nữ sinh trung học trình diễn và màn dâng hoa lên hoàng thượng và hoàng hậu.
Lần đầu tiên trong hoàng cung, vóc dáng một người phụ nữ uy nghi, đoan trang đem lại những nét đổi mới trong sinh hoạt cung đình. Đó là việc giản dị hóa lễ nghi, giản dị hóa những tương quan giao tiếp giữa bầy tôi và chủ, tư tưởng phóng khoáng, ngay thẳng, ghét những kẻ xun xoe, nịnh hót, những lời đàm tiếu. Trước đây có cả trăm ngàn cung nữ phi tần sống và sinh hoạt cùng một nơi để rồi kèn cựa, ghen ghét nhau, tìm cách hạ uy tín của nhau mỗi khi có người được vua yêu mến chiều chuộng hơn. Cả trăm ngàn người suốt ngày chỉ có mỗi việc tự chăm sóc mình, quanh ra quẩn vào chờ cái đèn lồng tối hôm đó thắp sáng lên, rồi tíu ta tíu tít chuẩn bị son phấn, đón tiếp như một thứ đồ giải trí cho vua. Nay tất cả những con người ấy đã không còn, những cảnh ấy đã lùi về dĩ vãng. Bản thân vua Bảo Đại cũng cảm thấy cuộc sống đỡ phức tạp hơn. Đặc biệt khi giờ đây, hoàng hậu không chỉ là người lo nâng khăn sửa túi cho ông mà còn biết chia sẻ lo lắng cùng ông trong công việc, đủ trí tuệ để giúp ông giải quyết những vướng mắc trong triều đình, những quyết định gay cấn. Bà đã làm dịu lòng ông trong cuộc sống đời thường. Bà biết chia sẻ cùng ông cả trong những trò giải trí từ âm nhạc, thể thao cho đến săn bắn, một thú vui tiêu khiển bậc nhất của ông.
Yêu thương bà, ông đã hết lòng vì bà. Để tỏ lòng biết ơn người vợ hiền yêu quý, sau hôn lễ ông đã phong cho nhạc phụ ông Pierre Nguyễn Hữu Hào tước Long Mỹ quận công. Ngoài những ruộng đất của gia đình rải rác khắp các tỉnh Nam Kỳ, năm 1928 tại quận Long Mỹ, thuộc tỉnh Rạch Giá, sau sát nhập vào tỉnh Cần Thơ, ông Nguyễn Hữu Hào có khoảng một nghìn mẫu ruộng. Vì thế ông đã lấy địa danh này để làm tước phong cho mình. Bảo Đại cũng đã phong cho cậu ruột của vợ là ông Denis Lê Phát An tước An Định Vương. Đây là lần cuối cùng, triều đình nhà Nguyễn phong cho một người xuất thân từ hàng dân dã.
Năm 1935, Bảo Đại phong cho nhạc phụ ông Nguyễn Hữu Hào “Long Bội tinh” hạng nhất trong một buổi lễ tại Đà Lạt. Đồng thời nhà vua cũng phong cho nhạc mẫu, bà Lê Thị Bình “Nhị phẩm phu nhân”. Tháng 6 năm 1937, Bảo Đại tặng mề đay “Kim Khánh” hạng nhất cùng mề đay “Kim Tiền” hạng nhất là huy hiệu cao nhất của triều đình cho nhạc phụ và phong cho nhạc mẫu “Nhất phẩm phu nhân”.
Ngày 13 tháng 9 năm 1937, Long Mỹ quận công Nguyễn Hữu Hào qua đời. Ông được an táng theo nghi thức tước quận công trong một ngôi nhà mồ tráng lệ, trên một đồi thông. Nơi đây có một vị trí rất đẹp, theo thuật phong thủy phương Đông: phía tả có Thanh long là thác Cam Ly, phía hữu có Bạch hổ là đồi thông xanh ngắt. Lăng được xây dựng khá lớn, có hình dáng giống như các lăng mộ của vua triều Nguyễn ở cố đô Huế. Lăng có khoảng hai mươi tam cấp. Mỗi tam cấp có từ sáu đến mười một bậc, kéo dài từ cổng chính từ dưới lên và thẳng tắp, tạo cho lăng một vẻ uy nghi, bề thế.
Lăng của thân phụ bà Nam Phương do chính gia đình bà Lê Thị Bình bỏ tiền ra xây cất. Lễ quy lăng được tổ chức vào ngày 10 tháng 9 năm 1941. Ngày đó là một sự kiện lớn tại Đà Lạt bởi hoàng gia, gia quyến ông Nguyễn Hữu Hào, các quan chức cao cấp Pháp -Việt đều có mặt đông đủ trong buổi lễ trang nghiêm tại nhà thờ thánh Nicolas: hoàng đế Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương, vợ chồng chị gái của hoàng hậu – ông bà bá tước Didelot, Khâm mạng Hoàng triều Cương thổ, ông bà Lê Phát An tức An Định Vương – cậu ruột hoàng hậu, Toàn quyền Đông dương Decoux và vợ, Giám mục Cassaigne, Drapier, Khâm sứ Trung Kỳ Grandjean và nhiều quan khách khác.
2.Hạnh phúc của gia đình hoàng hậu Nam Phương như càng tăng lên gấp bội khi bà báo tin cho ông hay bà đã mang thai. Mặc dầu mang thai đứa con đầu lòng, bà Nam Phương không quá giữ gìn, đi lại rón rén hay ngừng các hoạt động. Bà vẫn tham gia bàn bạc chuẩn bị những ngày lễ lớn của triều đình, giúp chồng đón tiếp khách.
Về mùa hè hay mùa thu, đôi lần theo vua Bảo Đại đi kinh lý các tỉnh miền Trung, hoàng hậu Nam Phương thường dừng lại bãi biển Quy Nhơn, tranh thủ hít thở gió biển bởi không khí ở đây hoàn toàn khác hẳn kinh đô Huế chật hẹp, đông đúc. Nơi đây, ông bà như thấy sự bình yên của thiên nhiên tuyệt đẹp. Ngồi bên nhau vừa trò chuyện tâm đầu ý hợp vừa có thể lắng nghe tiếng vi vút của rừng dương hòa trong tiếng chim hót, tiếng sóng biển êm đềm, họ có thể cảm nhận toàn vẹn sự trong lành của thiên nhiên hoang dã. Xa xa, những ghềnh đá, hang động với đủ hình thù kỳ dị. Bà thấy thích thú khi ngắm nhìn những con nhum mình tròn tua tủa những gai cứng và nhọn. Có lẽ bà đã thích ngồi mãi như vậy trước biển, trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ tươi đẹp và quyến rũ, nếu như ông không bảo:
Thôi, ta phải đi kẻo đoàn hộ giá chờ lâu quá!
Dạ thưa, ngài cứ đứng dậy trước, em sẽ theo ngài.
Tuy nói vậy nhưng ông bỗng quay sang ôm bà vào lòng và nói:
Không khí trong lành ở đây sẽ thật tốt cho con chúng ta. Em là người năng động, chắc chắn con sẽ khỏe mạnh.
Nếu là con trai, em mong con sẽ giống ngài. Ngài vui chứ?
Rất vui. Nhưng nếu giống em con sẽ vừa đẹp vừa thông minh.
Dạ, em cám ơn ngài!
Chẳng bao lâu sau, hoàng hậu Nam Phương sinh con trai vào đêm mồng 4 tháng 1 năm 1936 tại điện Kiến Trung trong Đại Nội - Huế. Bảo Đại và Nam Phương đặt tên con là Nguyễn Phúc Bảo Long. Đó là một cậu bé khỏe mạnh, dễ thương. Khi Bảo Long vừa lọt lòng mẹ, súng thần công đặt trên kỳ đài nổ bảy tiếng báo hiệu tin vui cho trăm họ. Sáng hôm sau khi trời mới lờ mờ, không gian còn chìm trong yên tĩnh, lại một lần nữa bảy tiếng súng thần công làm lay động cả hoàng thành. Cả thành phố Huế đều biết là hoàng hậu sinh con trai bởi nếu con gái sẽ có chín tiếng súng.
Ngay sau đó, người đứng đầu chính quyền Pháp, đứng đầu các nước Đông dương, các quan lại Nam triều tới tấp gửi điện về Huế chúc mừng. Tất cả trẻ em Việt Nam trên toàn quốc có cùng ngày sinh mồng 4 tháng 1 năm 1936 với Bảo Long đều được triều Nguyễn tặng quần áo và sữa.
Năm Bảo Long ra đời cũng là năm khánh thành sân vận động Huế. Vì thế cái sân vận động có lòng chảo đua xe đạp đầu tiên ở Đông dương này được mang tên sân vận động Bảo Long (về sau đổi lại là sân vận động Tự Do, nay gọi là sân vận động Huế).
Sự ra đời của Bảo Long đã đem lại cho cả triều đình, đặc biệt là hoàng đế, hoàng hậu và hoàng thái hậu Từ Cung niềm vui vô bờ bến. Thời phong kiến, một cặp vợ chồng sau khi cưới có được một đứa con trai cứ coi như là đã cầm chắc trong tay người nối dõi tông đường, tiếp tục thờ cúng tổ tiên và là người chống gậy khi cha mẹ qua đời. Điều đặc biệt hơn là đứa con trai đó lại là con vua. Nói sao hết niềm sung sướng hạnh phúc của hoàng hậu Nam Phương. Dù không nói ra nhưng chín tháng mang thai là chín tháng lòng bà thấp thỏm chờ mong. Ai có thể nói trước được điều gì. Hơn nữa cha mẹ bà cũng chỉ sinh con một bề. Bà hiểu cha mẹ bà đã mong có con trai như thế nào mà đã không thể. Bảo Long không chỉ là niềm vui sướng hạnh phúc vô biên mà còn là niềm tự hào cho chính bà và cả dòng họ nhà bà nữa. Vậy là bà đã đáp lại tình yêu chân thành, đắm say mãnh liệt của chồng bà – vị vua trẻ tuổi đẹp trai, tài ba, người đã vì bà mà sẵn sàng vượt qua hết thảy cản trở của cuộc hôn nhân, người đã dám trái lệnh người mẹ yêu quý và hầu hết những vị quan tai to mặt lớn của triều đình để bảo vệ hạnh phúc đôi lứa của mình. Càng ngắm nhìn con, bà càng thấy yêu ông đến bội phần. Lòng bà thầm cám ơn ông, cám ơn Chúa.
Dù là một phụ nữ có cá tính, bảo vệ đến cùng đạo giáo của mình, bà vẫn là người phụ nữ sống hết mình với chồng, với mẹ chồng. Bà đã nghĩ yêu mẹ chồng cũng chính là mình yêu chồng. Là người con dâu hiếu thảo, kể cả lúc có thai, hàng tuần bà vẫn đến vấn an sức khỏe bà hoàng thái hậu Từ Cung, thăm hỏi các bà Tiên Cung, Thánh Cung (bà nội của Bảo Đại).
Rồi niềm vui nối tiếp niềm vui. Lúc Bảo Long chưa đến kỳ thôi nôi, hoàng hậu Nam Phương lại mang thai đứa con thứ hai.
Mặc dù bận rộn công việc triều chính, vua Bảo Đại rất yêu và tôn trọng vợ mình. Điều đó đã động viên an ủi hoàng hậu rất nhiều, khiến mọi cảm giác mệt mỏi gần như tan biến hết. Tuy nhiên là một phụ nữ ưa hoạt động và có tính độc lập, bà không muốn để chồng và những người thân lo lắng cho mình. Hiếm khi thấy bà tỏ ra mệt mỏi lúc mang thai hay mới sinh con.
Ngày mồng 1 tháng 8 năm 1937 bà sinh con gái và đặt tên con là Nguyễn Phúc Phương Mai.
.
Rồi hơn một năm sau vào ngày mồng 3 tháng 11 năm 1938, cô con gái thứ hai chào đời trong niềm hạnh phúc khôn tả của cả gia đình. Bảo Đại và Nam Phương đặt tên con là Nguyễn Phúc Phương Liên.
Vậy là ba năm liền, bà sinh cho vua Bảo Đại ba đứa con, một trai, hai gái. Tất cả đều khỏe mạnh, xinh xắn như những thiên thần bé nhỏ.
Bà vẫn không ngừng bận rộn với công việc triều chính, với những cải cách của triều đình mà bà muốn giúp vua thực hiện. Bà mong muốn ông hết lòng vì công việc nên hết sức động viên ông. Đồng thời bà không muốn ông bị khiển trách điều gì. Điều này thật không dễ đối với người đứng đầu một nhà nước. Nhưng là người cầu toàn lại hết sức có trách nhiệm với dân, bà cố gắng gồng mình làm tốt mọi việc và cũng muốn chồng mình như thế. Những lúc rảnh rỗi, bà dành thời gian cho ba đứa con yêu quý. Nhiều lúc bà muốn tự tay mình chăm sóc các con. Bà vui khi thấy các con ăn ngon, ngủ yên và lấy làm lo lắng khi chúng không được khỏe.
Một trong những cải tổ mà vua Bảo Đại muốn được áp dụng ngay từ lúc ông vừa về nước và sau này đã được hoàng hậu Nam Phương hết sức ủng hộ, đó là một cuộc cách mạng trong nghi lễ triều đình, như việc bỏ năm lạy, chỉ có xá ba xá là Tam khấu lễ. Mặc dù là một việc nhỏ nhưng lúc bấy giờ đó là một việc trọng đại đặc biệt là đối với các quan lại phong kiến trong triều đình. Và điều quan trọng hơn là vua và hoàng hậu muốn tôn trọng người lớn tuổi, những người đáng bậc cha chú. Ông bà nghĩ nếu các vị quan trong triều mà phủ phục quỳ lạy một người tuổi chỉ đáng hàng con cháu thì thật khó coi. Từ nay thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn long nhan nhà vua khi ngài tới. Còn người ngoại quốc thì lúc gặp hoàng thượng chỉ bắt tay theo phép xã giao như người phương Tây, không phải chắp tay xá lạy.
Tiếp theo bà động viên và ủng hộ ông trong việc thực hiện những đạo dụ để cho các vị thượng thư già lão về nghỉ. Các cụ Nguyễn Hữu Bài (bộ Lại), Tôn Thất Hân (bộ Hình), Phạm Liêu (bộ Binh), Võ Liêm (bộ Lễ), Vương Tứ Đại (bộ Công) được về nghỉ với danh hiệu là nguyên lão cố vấn. Sau đó vua Bảo Đại chọn một số trí thức và quan lại tương đối có tiếng tăm vào nội các mới do ông lập. Đó là Ngô Đình Diệm (bộ Lại), Thái Văn Toản (bộ Lễ nghi – Mỹ thuật), Hồ Đắc Khải (bộ Công), Bùi Bằng Đoàn (bộ Tư pháp), Phạm Quỳnh (bộ Giáo dục).
Hoàng hậu Nam Phương vô cùng phấn khởi khi thấy việc cải tổ nội các này đã có những tiến triển bước đầu tốt đẹp. Dân chúng đồng tình bởi những người được cử đứng đầu các bộ thật sự là những người có khả năng thời bấy giờ.
Năm 1934 lúc mới về làm dâu triều Nguyễn, bà còn đồng ý với vua Bảo Đại trong việc đặt thêm một bộ nữa là bộ Xã hội – Kinh tế, giao cho Nguyễn Khoa Kỳ đảm trách. Từ khi Bảo Đại về nước nắm quyền cai trị Nam triều, ông bỏ vị thượng thư chấp chánh và chính ông chủ tọa Viện Cơ mật. Ngoài ra còn có viện trưởng Viện Dân biểu để trình bày những nguyện vọng của nhân dân lên nhà vua và chính phủ Pháp. Viện trưởng Viện Dân biểu cũng được quyền bàn luận việc nước như một vị thượng thư trong triều.
Tất nhiên, là những người được Pháp đào tạo từ nhỏ, những cải cách của vua Bảo Đại và hoàng hậu cũng chịu ảnh hưởng của nhà nước bảo hộ.
Về sau, càng ngày cả ông và bà càng thất vọng và chán nản vì sự can thiệp quá sâu của người Pháp. Hầu như mọi việc quốc gia đại sự đều nằm trong tay người Pháp. Các Viện Dân biểu ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ cũng không làm được việc gì, cũng không liên lạc gì với nhà vua. Chính vì vậy, Bảo Đại muốn làm gì cũng khó, cũng không xoay xở được. Dần dần, ông tỏ thái độ bất mãn, phản ứng với những viên chức Pháp làm việc gần gũi với mình. Ông đã cự lại với viên Khâm sứ Thibaudeau khi cảm thấy mình không được chủ trương trong công việc khiến ông này bị đứt gánh giữa đường phải về Pháp. Ông đã mắng tên đại úy Pháp làm sĩ quan bảo vệ mình: Tu t’appelles Bon mais tu n’es pas bon! (Cậu tên là Tốt nhưng cậu không tốt).
Một chi tiết không thể không nói đến kể từ khi hoàng hậu Nam Phương bước chân vào triều đình nhà Nguyễn. Đó là việc bà đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Thiên Chúa ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn. Như chúng ta đã biết, lịch sử đã ghi lại những quan hệ căng thẳng, tưởng chừng như không bao giờ có thể hòa hợp, cảm thông giữa đạo Thiên Chúa với các vị vua triều Nguyễn, đặc biệt là sau cái chết của Mathieu Lê Văn Gẫm, người đã tử vì đạo. Sự có mặt của hoàng hậu Nam Phương như một làn gió mát, thoa dịu sự đối nghịch lịch sử đó. Một mặt, thường vào ngày chủ nhật, bà đi lễ nhà thờ Phú Cam như mọi người dân bình thường. Ban đêm bà kín đáo cho Bảo Long học các phép tắc Công giáo, dự lễ Misa, học giáo lý trong phòng riêng của bà. Bà yên tâm với việc làm của mình bởi bà thấy Bảo Long ngoan ngoãn, biết nghe lời và cầu nguyện ban đêm trước khi đi ngủ một cách thành tâm, vui vẻ. Hoàng hậu Nam Phương vẫn nhớ và kể cho các con nghe chuyện thời xưa những tín đồ Thiên Chúa giáo đầu tiên đã phải thờ Chúa trong các hầm mộ. Vì vậy các con bà thích thú khi tự ví mình như những bậc tử vì đạo phải che giấu đức tin của mình.
Mặt khác, hoàng hậu cũng cư xử khéo léo với những người tôn sùng đạo Phật trong Hoàng tộc. Bà năng đi lễ Chùa và có những lúc còn cho cả các con đi cùng với bà.
Tuy nhiên về chuyện tín ngưỡng và cả cách giáo dục con cái, hoàng hậu Nam Phương và bà hoàng thái hậu Từ Cung thường có sự xung đột.
Một hôm trước khi đi lễ nhà chùa, bà Hoàng thái hậu gọi các cháu nội lại và bảo:
Các cháu lại đây để bà đeo bùa vào cổ tay cho.
Bảo Long ngoan ngoãn chạy đến, rồi đến lượt Phương Mai và Phương Liên. Khi hai bé gái chìa tay ra để bà nội đeo bùa và Bảo Long chìa vai để bà khoác cho cái túi đựng những lá bùa thì bà Nam Phương đi đến và bảo:
Thưa mẹ, con cám ơn mẹ đã nghĩ đến điều đó. Nhưng có lẽ các cháu không nên đeo những thứ này.
Bà Từ Cung có vẻ bực tức:
Bà hoàng nói vậy có nghĩa là sao?
Thưa mẹ, mẹ cứ để cho các cháu cùng con đến dự lễ nhưng con không muốn các cháu đeo bùa vào người.
Nghe con dâu nói vậy, bà Từ Cung thật sự giận. Mặt bà đỏ bừng lên, rồi chẳng nói chẳng rằng, bà giật ngay cái túi đựng những lá bùa trên vai Bảo Long và mấy cái bùa ở cổ tay Phương Mai và Phương Liên. Từ đó, bà cho rằng cách sống của hoàng hậu Nam Phương không theo khuôn phép truyền thống nên từ ngạc nhiên bà đi đến phản đối. Mặc dù không có những cuộc cãi cọ um xùm nhưng là những cuộc chiến tranh lạnh. Cuộc sống của Bảo Long và các em đã diễn ra trong bối cảnh luôn luôn đối nghịch nhau giữa một bên là mẹ đẻ, một bên là bà nội. Làn gió mới trong cuộc sống cũng như trong giáo dục con cái mà bà Nam Phương muốn mang tới đã bị chính truyền thống từ ngàn xưa ngăn lại. Cuộc xung đột không bao giờ chấm dứt bất chấp thời gian, bất chấp hoàn cảnh chiến tranh, bất chấp cả những giọt lệ, bất chấp tất cả. Để rồi cái hố ngăn cách giữa mẹ chồng và nàng dâu như ngày càng sâu hơn.
Nhiều lúc hoàng hậu Nam Phương cũng tự trách mình không biết khéo léo, tính tình quá thẳng thắn. Có lẽ đó là điều day dứt bà nhiều hơn cả trong suốt mười một năm về sống trong triều đình nhà Nguyễn, bên cạnh người mẹ chồng mà bà luôn một mực tôn kính. Tuy nhiên là một người phụ nữ đoan trang, hiền thục, bà luôn là người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ hết lòng. Bà luôn là người chu toàn bổn phận làm dâu, nói năng lễ độ, mực thước, tôn trọng mẹ chồng.
Chính vì vậy mà sau này khi bà sang Pháp để lo cho các con, sống trong cảnh xa gia đình, quê hương, hoàng tộc, một mình phải bươn chải với cuộc đời, bà Từ Cung có phần nào ân hận về cách đối xử có phần lạnh nhạt của mình trước đây đối với bà Nam Phương và rất thương con dâu lúc đó. Bà đã tự nhủ: “Có lẽ mình đã đối xử không phải với bà hoàng Nam Phương!”.
3.Cuộc sống hạnh phúc vợ chồng, những đứa con như những thiên thần nhỏ của hoàng hậu Nam Phương cùng vẻ lịch sự quý phái, phong cách cao sang tao nhã của bà khiến nhiều người phụ nữ mơ ước. Mỗi lần hai vợ chồng bà đi ra đường hay xuất hiện trước công chúng, có lẽ không một người nào không tấm tắc khen họ đúng là một đôi trai tài gái sắc, hòa hợp về hình thức bề ngoài và cả sự đồng điệu bên trong. Cả hai là những con người tân tiến, luôn luôn muốn tỏ ra là tân tiến. Là hoàng hậu duy nhất lại được vua yêu thương chiều chuộng và tôn trọng, bà không khỏi không nao lòng trước hạnh phúc tưởng như sẽ là vĩnh cửu. Không giống một số những bà hoàng hậu trước đây, một vâng hai dạ, bà tôn trọng chồng và mẹ chồng tuyệt đối nhưng cũng rất kiên quyết trong việc đòi thực hiện các biện pháp cách tân của mình. Việc chấm dứt sự có mặt các cung phi trước đây vẫn quây quần xúm xít quanh nhà vua chính là để giải phóng phụ nữ. Trong Hoàng cung, vua chỉ có một vợ thì cớ gì ngoài xã hội những người đàn ông lại có vợ cả, vợ lẽ... Một hủ tục tồn tại dai dẳng từ hàng trăm năm trong xã hội phong kiến Việt Nam đã được xóa bỏ mà người thực hiện đầu tiên lại là vua, người có địa vị cao nhất nước. Những người phụ nữ Việt Nam sung sướng và tỏ lòng biết ơn bà hoàng vô hạn.
Báo chí Đông dương đăng nhiều ảnh về hoàng đế Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương, xem họ như một cặp vợ chồng ông hoàng xứ Monaco.
Năm 1937, dinh Ba còn gọi là dinh Bảo Đại được khánh thành và vua Bảo Đại dùng nơi đây làm nơi nghỉ mát mùa hè. Dinh thự này vô vùng đẹp đẽ và trang nhã, nằm giữa một rừng thông thuần chủng nhiều tuổi gắn liền với tiêu cảnh kiến trúc công viên, vườn Thượng Uyển, rừng Ái Ân và một hồ nước nhỏ hòa quyện vào nhau một cách hợp lý và thơ mộng.
Về phong cách kiến trúc, dinh mang nhiều nét kiến trúc của Pháp.
Mùa hè năm nào cũng vậy, vua Bảo Đại cùng hoàng hậu Nam Phương và các con đều về nghỉ mát tại đây. hoàng hậu yêu biết bao vườn hoa nhỏ kiểu cung điện ở Pháp trồng toàn cây cảnh được cắt tỉa rất đẹp và những cụm hồng quý nở quanh năm. Không hiểu từ lúc nào bà yêu quý loài hoa này, chỉ biết rằng trong phòng của bà không mùa nào không có hoa hồng. Có lẽ hoa hồng luôn luôn gắn liền với tình yêu và sắc đẹp của người phụ nữ chăng. Bà nói rằng chính hoa hồng đỏ là hoa hồng của thần thoại và truyền thuyết. Vào thời trung cổ, những người theo đạo Thiên Chúa giáo đã chọn hoa hồng làm biểu tượng cho máu của những người tử vì đạo. Hoa hồng còn được dành riêng để dâng tặng Đức Mẹ đồng trinh. Và các hạt của chuỗi tràng hạt đầu tiên, do thánh Saint Dominic nghĩ ra, đã được làm từ những cánh hồng thơm ngát, chúng được nén thật chặt như ép khuôn để trở thành từng hạt
Khi hoàng tử Bảo Long lên năm tuổi thì công chúa Phương Mai ba tuổi rưỡi và công chúa Phương Liên hơn hai tuổi. Cả ba rất thích được lên Đà Lạt và được ở trong dinh thự vừa đẹp vừa hiện đại, đủ tiện nghi này. Không những chỗ ở rộng rãi, không gian thoáng mát mà họ còn có cả một vườn cây và xung quanh là cả một rừng thông.
Còn hoàng hậu Nam Phương, ngoài những buổi ra sân chơi tennis với vua Bảo Đại, bà lại đi săn cùng ông. Trước đây khi chưa có con, ông bà lúc nào cũng có nhau nhưng nay cả ba con còn bé, xa các con lâu cũng nhớ và không yên tâm nên bà chỉ đi cùng ông trong những cuộc săn bắn gần và ngắn ngày mà thôi.
Khi trở về dinh thự, nhiều lúc bà tha thẩn trong vườn hoa, ngắm những nụ hồng không chán mắt. Bảo Đại cũng như bị thu hút bởi tâm hồn lãng mạn của bà.
Một lần, khi ngồi xuống bên nhau, Nam Phương khẽ đọc cho ông nghe mấy vần thơ về hoa hồng:
Thưa ngài, nếu ngài cho phép, em xin đọc ngài nghe mấy câu thơ này và em hy vọng sau đó, ngài sẽ còn yêu hoa hồng hơn cả em.
Nàng cứ đọc cho ta nghe đi, ta rất thích.
Từ thế kỷ thứ mười chín, nhà thơ Christina Rosetti đã nói: Tình yêu như một đóa hồng/ Loài hoa hạnh phúc nở trong vườn đời. Còn William Shakespeare lại nói: Chẳng thể nào tìm được/ Một tên gọi đẹp hơn/ Hoa hồng của sắc hương.
Ôi hay quá! Quả thật hoa hồng xinh đẹp luôn đứng đầu các loài hoa.
Còn đây nữa! Ngài có biết không? Chuyện kể rằng ngày xưa khi Aphrodite, nữ thần tình yêu được sinh ra từ biển cả, những đợt sóng bao phủ lấy thân trần của nàng và hóa thành những bông hồng trắng khi rơi xuống đất. Theo các nhà nghiên cứu thần thoại, cũng chính nàng Aphrodite đã tạo ra hoa hồng đỏ. Chuyện xảy ra khi Adonis, chàng thanh niên đẹp trai mà nàng yêu, bị một con lợn lòi tấn công, khi chạy đến để cứu chàng, nàng đã bị gai của một cây hồng cào xước, máu của nàng đã làm cho hoa từ màu trắng chuyển sang màu đỏ.
Nghe xong Bảo Đại nói:
Mỗi độ xuân về, những cành mai xứ Huế trổ hoa vàng rực rỡ. Cũng như cành đào ngoài Bắc, hoa mai đến với người dân xứ Huế và hầu hết các gia đình từ Huế trở vào Nam mỗi năm chỉ một lần vào dịp Tết Nguyên đán. Còn hoa hồng thì miền nào cũng có và mùa nào cũng có thể nhìn thấy sắc hồng đủ loại đỏ, trắng phớt hồng, vàng, trắng... Đặc biệt hoa hồng Đà Lạt lại vô cùng đẹp. Ta biết nàng rất yêu thích hoa hồng vì vậy ta vẫn nhớ câu chuyện về sự tích hoa hồng mà nàng đã kể cho ta từ những ngày đầu nàng mới về sống trong Hoàng tộc. Ta sẽ làm hết sức mình để bảo vệ nàng, bảo vệ tình yêu của chúng ta để không như ông vua nọ đã phế truất hoàng hậu ra khỏi Hoàng cung một cách phi lý cùng với đứa con trai kháu khỉnh dễ thương. Và mong rằng dù mang nhiều màu sắc khác nhau, hoa hồng vẫn mãi mãi tượng trưng cho sự yêu thương.
Nói rồi Bảo Đại ôm Nam Phương vào lòng, đặt lên môi bà những nụ hôn nồng nàn âu yếm ngay giữa vườn Hồng ngạt ngào hương thơm, đầy quyến rũ. Bà Nam Phương cảm thấy lòng ngập tràn hạnh phúc.
Mỗi lần có dịp lên Đà Lạt, hầu như không ngày nào hoàng hậu Nam Phương không ra thăm vườn hồng. Bà còn muốn tự tay mình chăm sóc, vun bón cho cây, vuốt ve những nụ hồng tươi tắn.
4.Năm Bảo Long tròn ba tuổi, Nam Phương và Bảo Đại đã bàn nhau làm lễ tấn phong cho con của họ. Có thể như vậy là quá sớm nhưng ông đã quyết định làm ngay việc đó để tránh việc tranh giành ngôi thứ cung đình có thể xảy ra như đời các vua trước. Phần nữa Bảo Đại cũng tỏ ra tôn trọng vợ và thấy con trai họ tuy bé nhưng đã tỏ ra chững chạc so với lứa tuổi. Sau này, ông đã viết trong hồi ký của mình: Con trai của chúng tôi là hoàng tử Bảo Long còn trẻ mà được trời phú cho những phẩm chất tự nhiên cao quý, có năng khiếu lỗi lạc, khiến chúng tôi có thể nuôi hy vọng tốt đẹp về tương lai của nó.
Và ngày đó là ngày mồng 7 tháng 3 năm 1939.
Mới đầu tháng ba nhưng lúc đó đã cuối mùa mưa. Thời tiết oi bức, nóng nực. Mới sáng sớm, những tia nắng đã hắt xuống sân triều đình. Vừa đi lại được một lúc đã toát hết mồ hôi nhưng ai nấy đều vui vẻ, cùng nhau xắn tay vào công việc đại sự của triều đình. Mặc dù có những cải cách của vua và hoàng hậu nhưng nhìn chung cả triều đình vẫn chìm đắm trong những tập quán cổ xưa và đặc biệt nó còn vắng lặng hơn khi quyền lực thực sự không còn nằm trong mười hai cung điện của hoàng cung nữa. Thật đáng buồn! Tuy nhiên chỗ này, chỗ kia, đặc biệt ở hậu cung gần như không còn cảnh các bà, các cô ngồi lê mách lẻo, bàn tán, đố kỵ, ghen tỵ với vị hoàng tử nhỏ tuổi. Bởi cho đến lúc ấy, nhà vua chỉ có duy nhất một hoàng tử thông minh, khỏe mạnh, ngoan ngoãn, khôi ngô tuấn tú. Nhà vua có một gia đình vô cùng hạnh phúc với một người vợ - mẫu nghi thiên hạ, thật xứng đáng với ngôi vị của mình.
Hôm đó, hoàng đế Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương tỉnh dậy từ lúc rạng đông. Cả hai ông bà đều hồi hộp chờ đón phút giây hạnh phúc đó, bà Nam Phương tranh thủ dặn dò con những điều cần thiết.
Kể từ ngày Bảo Long bập bẹ biết nói và sau này đến lượt Phương Mai và Phương Liên nữa, trong gia đình cha mẹ con với nhau, bao giờ Bảo Đại và Nam Phương cũng nói tiếng Pháp với các con và dạy cho chúng trả lời cũng bằng thứ tiếng đó nhưng khi tiếp xúc với bà nội và mọi người thì các cháu lại nghe và nói bằng tiếng Việt. Bởi vì cả hai ông bà đều muốn các con họ sau này lại tiếp tục được đào tạo như họ để có thể duy trì đồng thời cả hai nền văn hóa Đông phương và Tây phương.
Buổi lễ đã được triều đình tổ chức rất trọng thể và nghiêm túc. Về hình thức cũng giống như những lễ tấn phong hoàng thái tử trước đây cho các hoàng tử bậc trên. Vua Bảo Đại mặc sắc phục truyền thống thêu kim tuyến ngồi trên một bệ cao giữa sân rồng. Bà hoàng thái hậu Từ Cung và bà hoàng hậu Nam Phương đều có mặt bên ông. Các quan đại thần của triều đình và những người thân của hoàng tộc đã đến đông đủ. Bảo Long khuôn mặt bầu bĩnh đáng yêu trong sắc phục hơi rộng so với người, đầu đội mũ miện kiên nhẫn chịu đựng những nghi thức trang trọng rườm rà và khá nặng nề. Mới có ba tuổi đầu nhưng hình như Bảo Long đã ý thức được việc phải làm nên chịu ngồi yên với vẻ nghiêm trang. Cha mẹ cậu tỏ ra rất hài lòng.
Việc tôn trọng các nghi thức của triều đình trong buổi lễ tấn phong đã làm cho các quần thần của Bảo Đại cảm thấy thỏa mãn. Việc ông kiên quyết kết hôn với một tín đồ Công giáo đã từng làm cho họ hẫng hụt thì việc tấn phong Hoàng thái tử cho hoàng tử Bảo Long không có sự can thiệp của Toàn quyền Đông dương cũng như của chính quyền bảo hộ được coi như một cử chỉ đẹp, một lời xin lỗi đối với họ. Những người trước đây hờn dỗi, tức tối và muốn quay lưng lại với ông thì nay lại hoan nghênh ông. Tất cả họ trong trang phục nhiều màu sắc, tụ tập trên cái sân lát gạch rộng lớn chắp tay vái. Cánh cổng lớn dát vàng ở cửa Ngọ Môn, lối vào chính của Đại Nội hé mở. Bảy phát súng lệnh vang lên. Sau đó, hai thanh niên kèm Bảo Long vượt qua cửa Ngọ Môn, cái cửa thiêng liêng chỉ dành cho nhà vua đang tại vị.
Tiếp theo, Bảo Long được đưa vào trong gian phòng có vua cha Bảo Đại đang ngồi trên một chiếc ngai bằng gỗ thếp vàng, đợi con vào ngồi bên cạnh.
Mặc dầu chẳng hiểu gì về ý nghĩa các nghi thức, cũng không hiểu lời tung hô của các người đứng đầu hàng các quan đại thần, Bảo Long vẫn im lặng, kiên nhẫn chờ đợi buổi lễ kết thúc. Dù ở vị trí rất gần mẫu hậu, Bảo Long cũng không tỏ ra một cử chỉ gì khiến người lớn phải khó xử trong một buổi lễ long trọng như thế. Điều đó đã khiến nhiều người ngạc nhiên và cảm động.
Từ nay Bảo Long sẽ là tên hiệu của vị hoàng đế tương lai. Theo nghi lễ, các văn võ bá quan lần lượt đến vái lạy Bảo Long.
Sau khi buổi lễ tấn phong kết thúc, ai nấy trở về công việc của mình. Riêng Bảo Long được đưa lên một chiếc kiệu có hai người khiêng. Kể từ đây, Bảo Long được hưởng một số quyền dành riêng cho vua, chẳng hạn như có phủ riêng. Đó là một tòa nhà bên ngoài hoàng thành. Tuy nhiên, Bảo Long còn bé nên vẫn tiếp tục ở trong điện Kiến Trung cùng vua cha, mẫu hậu và các em.
Buổi tối hôm đó, để mừng thành công của sự kiện quan trọng này, vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương đã tổ chức một tiệc nhảy cho khoảng tám trăm khách mời tại một căn phòng rộng ngoài hoàng thành.
Ngay ngày hôm sau, quan Toàn quyền Đông dương viết thư cho hoàng đế Bảo Đại và nói rằng ông ta rất xúc động về tính nghiêm túc và trịnh trọng của buổi lễ tấn phong.