← Quay lại trang sách

Chương 3 BỊ CẦM TÙ TRONG BÓNG TỐI

Chương 3

bị cầm tù trong bóng tối

rên những cột màu da cam của các máy chỉ thị chất a-na-mê-dôn, những chiếc kim to màu đen chỉ số không. Hiện thời, đường bay của con tàu vũ trụ vẫn chưa chệch khỏi hướng đâm vào ngôi sao sắt, vì tốc độ vẫn còn quá lớn và con tàu không ngừng tới gần cái thiên thể khủng khiếp mà mắt thường không thấy được.

Run rẩy vì yếu sức và phải gượng nhiều, Éc-gơ No-rơ được một nhà du hành vũ trụ dìu tới ngồi vào trước máy tính. Những động cơ liên hành tinh bị ngắt khỏi máy lái tàu, đã im tiếng.

- In-gơ-rít, ngôi sao sắt là cái gì? Cai Be khẽ hỏi, suốt thời gian đó anh vẫn đứng không nhúc nhích sau lưng nhà thiên văn.

- Một ngôi sao không trông thấy thuộc lớp quang phổ T, nó đã tắt nhưng chưa nguội hẳn hoặc vẫn chưa bừng cháy trở lại. Nó phát ra những tia sóng dài thuộc phần nhiệt của quang phổ. Đó là ánh sáng hồng ngoại mà mắt ta nhìn thì thấy đen. Ngôi sao ấy chỉ có thể thấy được qua máy đảo ảnh điện tử[1]. Con cú nhìn thấy những tia nhiệt thuộc loại hồng ngoại thì có thể nhận ra ngôi sao đó.

- Tại sao lại gọi nó là ngôi sao sắt?

- Căn cứ vào tất cả những điều đã nghiên cứu được thì trong quang phổ của nó có nhiều sắt. Có lẽ thiên thể đó có chứa nhiều sắt, vì vậy nếu ngôi sao ấy rất lớn thì khối lượng và trường hấp dẫn của nó cũng hết sức lớn. Tôi sợ rằng chúng ta gặp phải chính ngôi sao như thế...

- Làm thế nào bay giờ?

- Tôi không biết. Anh thấy đấy chúng ta không có chất đốt. Nhưng chúng ta vẫn đâm thẳng vào ngôi sao. Cần giảm tốc độ của "Tan-tơ-ra" xuống còn một một phần ngàn đơn vị tuyệt đối. Với tốc độ ấy, ta có thể hướng con tàu bay chệch một góc đủ lớn. Nhưng nếu ngay đến chất đốt liên hành tinh cũng còn không đủ thì con tàu sẽ dần dần tới ngôi sao, cho đến khi đâm hẳn vào nó. - In-gơ-rít hất đầu lên một cách nóng nảy, và Be âu yếm vuốt cánh tay trần sởn gai ốc của chị.

Trưởng đoàn thám hiểm chuyển sang đài điều khiển và tập trung chú ý vào các khí cụ. Mọi người nín thở, cả Nhi-da Cờ-rít vừa thức giấc cũng im lặng, linh tính giúp cô hiểu tất cả sự nguy hiểm của tình thế. Chất đốt chỉ đủ làm cho con tàu bay chậm lại, nhưng nếu bị mất tốc độ thì con tàu không có động cơ sẽ mỗi lúc một khó thoát ra khỏi sức hút dai dẳng của ngôi sao sắt. Giá như "Tan-tơ-ra" không đến gần ngôi sao sắt như thế và Pen Lin sớm hiểu ra... Nhưng nói cái chuyện "nếu như" thì còn nói làm quái gì kia chứ?

Ngót ba giờ trôi qua, và Éc-gơ No-rơ cuối cùng đã có quyết định. "Tan-tơ-ra" giật nảy lên vì sức đẩy cực mạnh của các động cơ liên hành tinh. Con tàu bay chậm dần, một giờ, hai giờ, ba giờ, rồi sang giờ thứ tư. Một động tác khó nhận thấy của trưởng đoàn, mọi người đều thấy nôn nao, khó chịu ghê gớm. Thiên thể màu nâu đáng sợ biến mất khỏi màn ảnh phía trước, chuyển sang màn ảnh thứ hai. Những sợi xích vô hình của sức hút vẫn tiếp tục níu lấy con tàu: các khí cụ cho thấy rõ như vậy. Éc-gơ No-rơ kéo mạnh những cần gạt về phía mình, các động cơ dừng lại.

- Thoát rồi! - Pen Lin thì thầm như trút được gánh nặng.

Trưởng đoàn thong thả đưa mắt nhìn anh.

- Không! Chỉ còn một số chất đốt vừa đủ để bay vòng theo quỹ đạo và đỗ xuống.

- Làm thế nào bây giờ?

- Phải chờ thôi! Tôi đã điều khiển con tàu bay chệch ra được một chút. Nhưng chúng ta bay gần ngôi sao quá. Hiện đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa sức hút của ngôi sao và tốc độ mỗi lúc một giảm của "Tan-tơ-ra". Lúc này con tàu bay như một tên lửa Mặt trăng, và nếu nó ra xa được thì chúng ta sẽ bay về phía Mặt trời. Thực ra thời gian du hành sẽ kéo dài thêm rất nhiều. Ba mươi năm nữa chúng ta sẽ đánh tín hiệu gọi, tám năm sau thì sẽ nhận được sự giúp đỡ...

- Ba mươi tám năm! Be thì thầm rất khẽ vào tai In-gơ-rít.

Chị giật mạnh tay áo anh và quay đi.

Éc-gơ No-rơ ngả người trên ghế bành và buông hai tay xuống đầu gối. Mọi người đều im lặng, các khí cụ hát khe khẽ. Một điệu nhạc khác, không ăn nhịp, vì vậy có vẻ hăm dọa, xen vào tiếng hát của các khí cụ điều khiển con tàu. Đấy là tiếng gọi gần như có thể cảm thấy bằng giác quan của ngôi sao sắt, là sức mạnh đuổi theo con tàu đã mất uy lực.

Hai má Nhi-da Cờ-rít nóng rực lên, tim cô đập gấp. Cô không thể chịu đựng nổi tình trạng bó tay chờ đợi này.

... Giờ này tiếp giờ khác trôi qua. Những đoàn viên trong đoàn thám hiểm vừa thức giấc lần lượt kéo đến Trạm trung tâm. Số người tăng mãi lên, cho đến khi đã đủ mặt cả mười bốn người.

Tốc độ thoát bay của con tàu giảm dần, bắt đầu nhỏ hơn tốc độ thoát ly[2]. "Tan-tơ-ra" không thể thoát khỏi ngôi sao sắt. Mọi người quên ngủ, quên ăn, không rời khỏi Trạm điều khiển. Nhiều giờ buồn nản trôi qua, trong lúc đó đường bay của "Tan-tơ-ra" cứ cong đi, cho đến khi con tàu lọt vào cái quỹ đạo en-líp tai hại. Ai nấy đều hiểu rõ số phận của "Tan-tơ-ra".

Đột nhiên, một tiếng gào khiến mọi người giật mình. Nhà thiên văn Pua Hit-xơ chồm lên và vung hai tay. Mặt anh méo đi, không còn nhận ra được nữa, không có chút gì giống với mặt con người của kỷ nguyên Vành-khuyên. Vẻ sợ hãi, vẻ thương xót cho chính bản thân mình, sự thèm khát trả thù đã xóa sạch mọi dấu vết suy nghĩ trên mặt nhà bác học.

- Hắn, chính hắn - Pua Hit-xơ vừa gào lên vừa trỏ Pen Lin - đồ đần độn, cái gốc cây, con sâu bọ không có óc!... Nhà thiên văn ngẹn ngào, cố nhớ lại những tiếng chửi mắng của tổ tiên mà đã từ lâu không ai dùng đến.

Nhi-da ngồi cạnh anh liền dịch ra xa với vẻ ghê tởm. Éc-gơ No-rơ đứng lên.

- Mắng mỏ đồng chí không có ích lợi gì. Cái thời mà người ta có thể cố ý phạm sai lầm đã không còn nữa. Còn trong trường hợp này - Éc-gơ No-rơ quay những tay gạt máy tính với vẻ hờ hững - các bạn thấy đấy, xác suất sai lầm ở đây là ba mươi phần trăm. Nếu kể thêm cả tình trạng suy nhược tinh thần không thể tránh khỏi vào cuối ca trực và sự choáng váng do con tàu bị lắc thì tôi dám chắc rằng anh cũng sẽ phạm sai lầm như thế, Pua Hit-xơ ạ.

- Thế còn anh?- Nhà thiên văn quát lên, nhưng đã bớt hung hăng.

- Tôi thì không. Tôi đã có dịp nhìn thấy cái quái tượng giống như thế ở khoảng cách không xa, trong chuyến thám hiểm số ba mươi sáu... Tôi có lỗi, tôi đã định tự tay lái con tàu trong khu vực chưa được nghiên cứu này, tôi không nhìn trước tất cả mọi việc, mà chỉ dặn dò một đôi điều.

- Làm sao anh có thể biết được rằng vắng mặt anh, họ sẽ đâm quàng vào khu vực này? - Nhi-da kêu lên.

- Tôi phải biết điều đó - Éc-gơ No-rơ đáp một cách cương quyết, khước từ sự giúp đỡ thân thiện của Nhi-da - nhưng chuyện đó chỉ nên bàn tới khi nào ta đã về đến Trái đất...

- Về đến Trái đất! - Pua Hit-xơ la ré lên, đến nỗi cả Pen Lin cũng cau mày, sửng sốt - lại còn nói đến chuyện đấy khi mọi việc hỏng bét cả và trước mắt chỉ còn cái chết.

- Trước mắt không phải là cái chết, mà là một cuộc đấu tranh lớn - Éc-gơ No-rơ đáp, giọng chắc đanh, đồng thời ngồi vào chiếc ghế bành trước bàn - Các bạn ngồi xuống! Không việc gì phải vội, "Tan-tơ-ra" chưa quay hết một vòng rưỡi kia mà...

Những người có mặt lẳng lặng nghe theo, còn Nhi-da trao đổi với nhà sinh vật học có nụ cười hân hoan, mặc dù tình thế hoàn toàn vô hy vọng.

- Ngôi sao chắc chắn là có một hành tinh, thậm chí có đến hai hành tinh, tôi nghĩ như vây, căn cứ vào độ cong của các đường đẳng cường[3]. Các bạn thấy đấy, - Trưởng đoàn phác nhanh một sơ đồ hoàn hảo - những hành tinh đó phải là hành tinh lớn, vì vậy chúng có khí quyển. Hiện thời chúng ta chưa cần phải đỗ xuống, ta vẫn còn nhiều ô-xy nguyên tử[4] ở trạng thái rắn.

Éc-gơ No-rơ ngừng lời để tập trung suy nghĩ.

- Chúng ta sẽ trở thành một vệ tinh của hành tinh và bay theo quỹ đạo xung quanh hành tinh. Nếu khí quyển của hành tinh thở được và chúng ta dùng hết không khí của chúng ta thì chất đốt liên hành tinh đủ để đỗ xuống và gửi đi một lời kêu gọi - anh nói tiếp - Trong thời gian nửa năm, chúng ta sẽ tính phương hướng, truyền đi những kết quả cuộc đến thăm Diêc-đa, gọi tàu cứu và sẽ giải thoát tàu của ta.

- Nếu giải thoát được... - Pua Hít-xơ nhăn mặt, cố nén niềm sung sướng vừa bột phát.

- Đúng, nếu vậy thì là hay nhất! - Éc-gơ No-rơ đồng ý - Nhưng đấy là một mục đích hết sức rõ ràng. Cần phải tập trung mọi sức lực làm cho bằng được. Pua Hít-xơ và In-gơ-rít, hai người tiến hành việc quan sát và tính kích thước các hành tinh. Be và Nhi-da căn cứ vào khối lượng của các hành tinh mà tính tốc độ thoát ly, rồi theo đó mà tính tốc độ quỹ đạo và ra-đi-an-tơ[5] tối ưu của con tàu.

Để phòng xa, các nhà nghiên cứu bắt đầu chuẩn bị cả cho tàu đỗ xuống. Nhà sinh vật học, nhà địa chất, thầy thuốc chuẩn bị phóng trạm thăm dò tự động, các kỹ sư cơ khí điều chỉnh các máy định vị và đèn chiếu dùng khi hạ cánh, lắp một tên lửa - vệ tinh để truyền tín hiệu về Trái đất.

Sau cơn kinh hoàng và tuyệt vọng vừa qua, công việc tiến hành khẩn trương và chỉ ngừng lại khi con tàu bị lắc ở những chỗ sức hấp dẫn tạo thành những xoáy cuộn. Nhưng "Tan-tơ-ra" đã giảm tốc độ xuống đến mức sự tròng trành của nó không nguy hiểm chết người.

Pua Hít-xơ và In-gơ-rít xác định là có hai hành tinh. Phải từ bỏ ý định tới gần hành tinh ngoài cùng: đó là một hành tinh khổng lồ, giá lạnh, có lớp khí quyển dầy đặc và có lẽ là độc bao quanh, đáp xuống đấy thì chỉ có chết. Nếu phải chọn cách chết thì có lẽ chết cháy ở gần bề mặt ngôi sao sắt còn hơn là chìm nghỉm trong bóng tối của bầu khí quyển a-mô-ni-ắc, cắm mũi vào lớp băng dầy một nghìn ki-lô-mét. Trong hệ Mặt trời cũng có những hành tinh khổng lồ khủng khiếp như thế: Mộc-tinh, Thổ-tinh, Thiên-vương-tinh, Hải-vương-tinh.

"Tan-tơ-ra" không ngừng tới gần ngôi sao. Mười chín ngày đêm sau thì đã biết rõ được kích thước của hành tinh phía trong: nó lớn hơn Trái đất. Vì ở gần ngôi sao sắt của mình nên hành tinh quay trên quỹ đạo với tốc độ điên rồ: một năm của nó kéo dài hơn hai hay ba tháng dưới Trái đất. Hẳn là Ngôi sao T không nhìn thấy đã sưởi cho hành tinh đủ ấm bằng những tia đen của nó. Ở đấy có thể có sự sống, nếu như có khí quyển. Trong trường hợp đó, việc đỗ xuống hành tinh này trở nên đặc biệt nguy hiểm...

Sự sống lạ lẫm, phát triển trong hoàn cảnh của các hành tinh khác, theo những con đường tiến hóa khác, song vẫn mang hình thức cơ thể an-bu-min chung cho toàn vũ trụ - đó là cái đặc biệt có hại cho người Trái đất. Những khả năng thích ứng tự vệ của cơ thể chống lại những cặn bã có hại, chống lại những vi khuẩn gây bệnh là kết quả của hàng triệu năm rèn luyện trên hành tinh của chúng ta, nhưng những khả năng ấy lại bất lực trước những hình thức khác của sự sống. Sinh vật của các hành tinh khác mà đến Trái đất của chúng ta thì cũng gặp những nguy hiểm như thế.

Hoạt động cơ bản của đời sống động vật là giết để mà ngốn và ngốn để mà giết. Hoạt động đó biểu lộ một cách tàn bạo, lộ liễu ghê gớm khi động vật của các thế giới khác nhau tiếp xúc với nhau. Những thứ bệnh không thể tưởng tượng được, những trận dịch lan nhanh như chớp, những vật gây hại sinh sôi nảy nở nhanh kinh khủng, những thương tổn khủng khiếp đã bám theo những người đầu tiên tới nghiên cứu các hành tinh có thể ở được, nhưng không có người. Và trong những những thế giới có giống người biết suy nghĩ bao giờ cũng làm vô số thí nghiệm và công việc chuẩn bị sơ bộ rồi mới bắt đầu việc liên lạc trực tiếp trong vũ trụ. Trái đất chúng ta ở xa các trung tâm nhưng tụ giàu sự sống của Thiên-hà, nên chưa từng có những vị khách từ những hành tinh của các ngôi sao khác, đại diện cho các nền văn minh khác đến thăm. Hội đồng du hành vũ trụ mãi gần đây mới hoàn thành việc chuẩn bị đón tiếp những người bạn ở những ngôi sao gần, thuộc các chòm sao: Thiên-nga, Đại-hùng-tinh và Phượng-hoàng.

Éc-gơ No-rơ lo ngại về việc có thể gặp phải sự sống khác lạ, anh đã ra lệnh lấy trong kho ra những phương tiện bảo vệ sinh vật.

Cuối cùng, "Tan-tơ-ra" đã điều chỉnh cho tốc độ quỹ đạo của mình bằng tốc độ của hành tinh phía trong của ngôi sao sắt và bắt đầu quay xung quanh hành tinh. Chỉ qua máy đảo ảnh điện tử mới nhìn thấy bề mặt hành tinh, nói đúng hơn là bề mặt lớp khí quyển của nó: ảnh mờ, màu nâu, phản chiếu ánh sáng của ngôi sao khổng lồ màu máu đông. Tất cả các đoàn viên đoàn thám hiểm, không trừ một ai, đều bận bịu bên các khí cụ.

- Nhiệt độ các lớp trên của khí quyển ở phía được chiếu sáng là ba trăm hai mươi độ Ken-vin[6].

- Một vòng quay xung quanh trục chừng hai mươi ngày đêm.

- Các máy thăm dò cho biết là có nước và đất...

- Khối lượng chính xác bằng 43.2 khối lượng Trái đất.

Thông tin đến tới tấp, tính chất của hành tinh mỗi lúc một rõ.

Éc-gơ No-rơ tổng kết các số liệu đã nhận được, để tính chế độ quỹ đạo. 43.2 lần khối lượng Trái đất, hành tinh này quá lớn. Sức hút của nó sẽ đè gí con tàu xuống đất. Người sẽ biến thành những con sâu bọ bị dính nhựa không tài nào thoát ra được...

Trưởng đoàn thám hiểm nhớ tới những câu chuyện khủng khiếp nửa hư nửa thực về những con tàu vũ trụ thời xưa đã rơi xuống các hành tinh khổng lồ vì những nguyên nhân khác nhau. Khi ấy, những con tàu có tốc độ nhỏ, dùng chất đốt có sức đẩy yếu thường là bị hủy diệt. Con tàu không đủ sức thoát ra và dường như bị dính vào bề mặt hành tinh, tàu rung dữ dội kèm theo tiếng gầm rú của động các cơ. Con tàu thì vẫn nguyên vẹn, nhưng xương người gãy răng rắc. Một cảnh tượng khủng khiếp, không lời nào tả xiết, được truyền đi trong những tiếng gào đứt quãng của lần truyền tin vĩnh biệt...

Đội tàu "Tan-tơ-ra" không bị cái số phận như thế đe dọa, chừng nào nó còn bay xung quanh hành tinh. Nhưng nếu phải đỗ xuống thì chỉ những người rất khỏe mới có thể mang nổi sức nặng thân thể của mình mà lê đi trong chỗ trú ẩn sắp tới của họ, nơi mà họ phải sống hàng chục năm... Liệu họ có thể sống nổi trong hoàn cảnh như thế không? Sống dưới sức nặng đè nén, trong bóng tối vĩnh viễn của vầng mặt trời đen phóng ra tia hồng ngoại, trong bầu khí quyển dầy đặc? Nhưng dù thế nào đi nữa đấy cũng không phải là cái chết, đấy là hy vọng được cứu thoát, và không còn cách lựa chọn nào khác!

"Tan-tơ-ra" bay theo một quỹ đạo gần sát mặt giới hạn của khí quyển. Những nhà thám hiểm không bỏ lỡ dịp nghiên cứu một hành tinh ở cách Trái đất không xa lắm mà trước nay chưa từng được biết đến. Mặt được chiếu sáng, nói đúng hơn là mặt được đốt nóng của hành tinh, không những có nhiệt độ cao hơn, mà còn tích tụ nhiều điện khiến cho ngay cả những máy thăm dò cực mạnh cũng bị cản trở: những chỉ dẫn của chúng sai lạc đi đến mức không nhận ra được nữa. Éc-gơ No-rơ quyết định nghiên cứu hành tinh bằng những trạm kiểu trái bom. Họ phóng ra một Trạm vật lý[7], và máy tự động báo cáo một điều đáng ngạc nhiên: có ô-xy tự do trong bầu khí quyển nê-on và ni-tơ, có hơi nước và nhiệt độ là hai mươi độ dương. Hoàn cảnh ấy nói chung là giống hoàn cảnh trên Trái đất. Riêng có áp suất của lớp khí quyển dày gấp 1.4 lần áp suất bình thường của Trái đất và trọng lực gấp hai lần rưỡi trọng lực của Trái đất.

- Có thể sống ở đây được! - Nhà sinh vật mỉm cười yếu ớt, báo cho trưởng đoàn biết những tin tức do Trạm vật lý truyền về.

- Nếu chúng ta có thể sống trên một hành tinh tối tăm và nặng như thế này thì chắc chắn là ở đây có một vài loài sinh vật có hại.

Tới vòng quay thứ mười lăm, họ chuẩn bị một trạm tự động kiểu trái bom có máy báo mạnh. Trạm vật lý thứ hai phóng vào bóng tối lúc hành tinh đã quay được 120 độ, nhưng trạm này mất tích, không phát tín hiệu.

- Nó rơi xuống đại dương - nhà địa chất Bi-na Lét xác nhận, cắn môi với vẻ bực tức.

- Sẽ phải dùng máy thăm dò chính để thăm dò trước khi phóng người máy - vô tuyến truyền hình! Vì chúng ta chỉ có hai người máy - vô tuyến truyền hình!

"Tan-tơ-ra" vừa quay quanh hành tinh vừa phóng ra một chùm bức xạ i-ôn định hướng để thăm dò những đường chu vi bị méo lệch và mờ đi của các lục địa và biển. Đã thấy rõ hình thế của một đồng bằng lớn ăn sâu vào đại dương hay ngăn đôi hai đại dương gần như ở ngay xích đạo của hành tinh. Con tàu điều khiển tia ra-đi-ô định hướng vạch một đường chữ chi bao quát một dải hai trăm ki-lô-mét chiều rộng. Đột nhiên, trên màn ảnh của máy định hướng bừng lên một điểm sáng chói rực.

Một tiếng còi quất vào những dây thần kinh căng thẳng của mọi người, xác nhận rằng đấy không phải là ảo giác.

- Kim loại! - Nhà địa chất kêu lên - Một mỏ lộ thiên.

Éc-gơ No-rơ lắc đầu:

- Mặc dù đốm sáng chỉ bừng lên trong khoảnh khắc, tôi đã kịp nhận thấy đường viền của nó rất rõ nét. Đấy là một mẩu kim loại lớn: một thiên thạch, hay là...

- Một con tàu! - Cả Nhi-da và nhà sinh vật học cùng xen vào.

- Chuyện hoang đường! - Pua Hít-xơ ngắt lời.

- Có thể lắm chứ - Éc-gơ No-rơ bác lại.

- Tranh cãi vô ích thôi - Pua Hít-xơ không chịu thua - Không có cách nào kiểm tra được. Chúng ta sẽ không đỗ xuống cơ mà...

- Ba tiếng nữa chúng ta sẽ kiểm tra lại, khi ta bay gần đồng bằng ấy một lần nữa. Các đồng chí hãy chú ý: vật kim loại nằm trên đồng bằng mà tôi định cho tàu đỗ xuống... Chúng ta sẽ phóng Trạm vô tuyến truyền hình vào chính chỗ ấy. Cho chùm tia của máy thăm dò hoạt động sau sáu giây!

Kế hoạch do trưởng đoàn thám hiểm vạch ra đã thành công, và lần thứ hai, "Tan-tơ-ra" bắt đầu vòng bay ba giờ xung quanh hành tinh tối. Bây giờ , khi tới gần vùng đồng bằng trên đất liền, con tàu nhận được báo cáo của Trạm tự động truyền hình từ xa. Mọi người dán mắt vào cái màn ảnh đã bừng sáng. Tia nhìn được phóng ra sau một tiếng tách, bắt đầu lia đi lia lại như con mắt người, vạch ra đường viền của những vật ở mãi dưới kia, trong cái vực thẳm đen ngòm xa tới một nghìn ki-lô-mét. Cai Be hình dung rõ mồn một cái đầu Trạm tự động thò ra khỏi lớp vỏ bọc cứng, nom giống như ngọn hải đăng, đang quay đều. Trong khu vực được tia sáng của máy tự động chiếu tới, những bờ dốc và những quả đồi thấp, những khe rãnh ngoằn ngoèo, đen ngòm lướt qua màn ảnh, rồi bóng tối đã bị tia sáng xua tan lại tràn lan ra, chỉ còn thấy những bậc thang của bình sơn nguyên được tia sáng quét tới.

- Con tàu vũ trụ! - Mấy người cùng buột miệng thốt lên.

Nhi-da nhìn Pua Hít-xơ với vẻ đắc thắng ra mặt. Màn ảnh tắt, "Tan-tơ-ra" lại ra xa máy phát truyền hình. Nhưng nhà sinh vật Ê-ôn Tan đã định ảnh được bằng phim điện tử. Bằng những ngón tay run run vì sốt ruột, anh cho băng phim vào máy chiếu của màn ảnh hình bán cầu[8]. Thành trong của bán cầu rỗng cho hình ảnh phóng đại.

Dạng xì-gà quen thuộc của phần mũi, phần cuối phình ra, cái chỏm cao của máy thu cân bằng... Cảnh tượng sao mà hoang đường thế, không thể nào tưởng tượng nổi là có thể có cuộc gặp gỡ này trên hành tinh tối, nhưng đấy quả thực là con tàu vũ trụ của Trái đất! Nó nằm ngang, ở tư thế đỗ bình thường, tựa trên những trụ đỡ rất khỏe, còn nguyên vẹn, dường như vừa đỗ xuống hành tinh của ngôi sao sắt.

"Tan-tơ-ra" quay vòng rất nhanh quanh hành tinh, vì khoảng cánh giữa nó và và hành tinh đã gần lắm. Nó phát tín hiệu mà không được trả lời. Mấy giờ trôi qua. Mười bốn người trong doàn thám hiểm lại tụ tập đầy đủ trong Trạm trung tâm. Éc-gơ No-rơ cho đến giờ vẫn ngồi mải mê suy nghĩ, liền đứng lên.

- Tôi định cho "Tan-tơ-ra" đỗ xuống. Có thể anh em ở đó cần giúp đỡ; có lẽ con tàu của họ bị hư hại và không về Trái đất được. Khi đó, chúng ta sẽ đưa họ lên tàu của chúng ta, sẽ nạp a-na-mê-dôn cho tàu của ta và chính chúng ta sẽ thoát nạn. Phóng tên lửa cứu xuống đó sẽ không có lợi ích gì. Nó không làm cách nào cung cấp chất đốt cho ta được, mà còn tiêu thụ nhiều năng lượng đến mức ta sẽ không còn năng lượng đâu để gửi tín hiệu về Trái đất.

- Nhưng nếu chính họ cũng thiếu a-na-mê-dôn nên mới bị hãm ở đó thì sao?

- Nếu vậy thì họ phải còn dự trữ chất đốt i-ôn liên hành tinh, họ không thể dùng hết sạch chất đốt được. Các đồng chí thấy đấy, con tàu đỗ ngay ngắn, nghĩa là nó đỗ xuống bằng các động cơ liên hành tinh. Chúng ta sẽ lấy chất đốt i-ôn, lại bay lên, và sau khi chuyển sang vị trí quỹ đạo, ta sẽ gọi Trái đất và chờ cứu viện. Nếu thành công thì chỉ phải chờ tám năm, còn nếu lấy được a-na-mê-dôn thì ta sẽ thắng.

- Ngộ nhỡ chất đốt liên hành tinh của họ không phải là các điện tích i-ôn mà là chất đốt phô-tôn thì sao? Một trong các kỹ sư thắc mắc.

- Chúng ta có thể dùng nó trong các động cơ chính, nếu ta xếp lại các những vòng thắt hình chén trong các động cơ phụ.

- Hình như anh đã cân nhắc đủ mọi mặt rồi thì phải - Người kỹ sư chịu thua.

- Chỉ còn liều một phen đổ bộ xuống hành tinh nặng này và mạo hiểm lưu lại đó - Pua Hít-xơ càu nhàu - Nghĩ tới thế giới bóng tối ấy mà rợn người!

- Cố nhiên là mạo hiểm, nhưng sự mạo hiểm đó nằm ngay trong cơ sở tình thế của chúng ta, và chắc là chúng ta không bơm phồng tình thế đó lên. Còn hành tinh nọ thì cũng không đến nỗi tồi tệ gì cho lắm, hành tinh có con tàu vũ trụ mà ta tìm thấy ấy mà, chỉ cốt sao giữ cho "Tan-tơ-ra" còn nguyên vẹn là được.

Éc-gơ No-rơ liếc nhìn mặt chia độ của bộ điều chỉnh và bước nhanh tới bàn điều khiển. Trưởng đoàn thám hiểm đứng một lát trước các tay gạt và các du xích điều khiển. Hai bàn tay to lớn của anh động đậy các ngón tay như để lấy những hợp âm trên một nhạc cụ, lưng anh khom xuống, và mặt lạnh như đá.

Nhi-da Cờ-rít tới gần anh, mạnh bạo nắm lấy tay phải anh và áp lòng bàn tay anh vào bên má mịn màng, nóng rực vì xúc động của mình. Éc-gơ No-rơ gật đầu tỏ vẻ cám ơn, vuốt mái tóc lồng bồng của cô gái và vươn thẳng người lên.

- Chúng ta đang đi vào các lớp dưới của khí quyển và đỗ xuống! - Anh nói to, và bật tín hiệu.

Một tiếng gầm vang động khắp tàu, mọi người vội vã chạy về chỗ, ẩn kín trong những chỗ ngồi nổi theo nguyên tắc thủy lực.

Éc-gơ No-rơ thả mình vào những cánh tay ôm mềm mại của chiếc ghế bành nhô ra khỏi ô cửa nắp trước bàn điều khiển, đấy là cái ghế đặc biệt dùng khi cho tàu đỗ xuống. Những động cơ liên hành tinh nổ vang như sấm, và con tàu gầm rú lao xuống phía dưới, hướng về các khối đá và các đại dương của hành tinh lạ.

Các máy thăm dò và gương phản xạ hồng ngoại lục soát bóng tối nguyên thủy ở phía dưới, Trên thang chỉ chiều cao, ánh sáng đỏ rực lên ở con số đã định: mười lăm nghìn mét. Không nên trông đợi sẽ gặp những quả núi cao quá mười ki-lô-mét ở trên hành tinh: nước và sức nóng của vầng mặt trời đen có tác dụng xói mòn như trên Trái đất.

Ngay trong vòng bay đầu tiên, họ đã phát hiện ra rằng khắp hành tinh hầu như không có núi, chỉ có những gò nhỏ, to hơn gò trên Hỏa-tinh một chút. Có lẽ hoạt động của các lực bên trong làm trồi núi đã gần như ngừng hẳn hay đã tạm ngừng lại.

Éc-gơ No-rơ đẩy chốt giới hạn độ cao bay sang mức hai nghìn ki-lô-mét và bật những đèn chiếu mạnh. Một đại dương khổng lồ trải rộng ở phía dưới con tàu: đích thực là cái biển khủng khiếp. Những con sóng đen ngòm dựng lên và đổ xuống phía trên những khoảng sâu bí ẩn.

Nhà sinh vật lau mồ hôi toát ra, cố bắt ánh sáng do sóng phản chiếu lên vào các khí cụ xác định những dao động cực nhỏ của khả năng phản xạ, nhằm định rõ độ chứa muối hay độ khoáng hóa của cái biển bóng tối này.

Màu đen lấp lánh của nước nhường chỗ cho màu đen nhờ: bắt đầu đến đất rắn. Những tia đèn chiếu giao nhau, mở một dải đường hẹp ở giữa những bức tường bóng tối. Trên con đường đó chợt lộ rõ những màu sắc bất ngờ: khi thì là những vệt cát vàng, khi thì là bề mặt xanh xám của những dãy đá tảng thoai thoải.

Theo sự điều khiển của bàn tay khéo léo, "Tan-tơ-ra" băng qua phía trên lục địa.

Cuối cùng, Éc-gơ No-rơ đã nhận thấy chính đồng bằng ấy. Nó không cao lắm nên không thể gọi là bình sơn nguyên được. Nhưng rõ ràng là sóng triều và những cơn bão của biển tối không thể xâm phạm đến nó, vì nó cao hơn những khu vực thấp nhất của đất nổi chừng một trăm mét.

Máy thăm dò phía trước, ở thành bên trái, nổi một tiếng còi. "Tan-tơ-ra" rọi đèn chiếu. Bây giờ thì thấy rất rõ con tàu vũ trụ hạng nhất. Lớp vỏ đằng mũi làm bằng i-ri-đi có cấu tạo tinh thể không đồng hướng sáng lóe lên dưới những đèn chiếu. Nó nom như còn mới. Ở gần con tàu, không thấy những vật kiến trúc tạm thời, không thấy một ánh đèn: con tàu tối om và không có sinh khí, tuyệt nhiên không phản ứng gì trước việc đồng loại đang tới gần. Những tia đèn chiếu tiếp tục lướt ra xa, vụt lóe lên sau khi phản xạ trên một cái đĩa khổng lồ giống như một mặt gương màu xanh có vòng gờ xoáy ốc. Cái đĩa dựng nghiêng, một phần ngập trong đất đen, Trong giây lát, những người quan sát có cảm giác rằng phía sau cái đĩa có những vật gì nhô lên, gống như những tảng đá, còn ra xa hơn nữa thì bóng tối càng đen đặc hơn. Ở đấy có lẽ là bờ vực hay một bờ dốc đổ xuống chỗ đất thấp...

Một tiếng gầm đinh tai của "Tan-tơ-ra" làm làm thân tàu rung lên. Éc-gơ No-rơ muốn đỗ xuống gần con tàu đã phát hiện được, và anh báo trước cho những người có thể có mặt trong vùng nguy hiểm chết người, bán kính khoảng một nghìn mét kể từ chỗ "Tan-tơ-ra" đáp xuống. Tiếng nổ kinh khủng của các động cơ liên hành tinh nổi lên vang dậy, ngay cả bên trong tàu cũng nghe thấy. Trên các màn ảnh, một đám mây bốc lên: đám mây của những mảnh đá bị nung nóng đỏ. Sàn tàu đột nhiên dựng ngược về phía sau. Không một tiếng ồn ào và rất nhịp nhàng, những khớp thủy động xoay các mặt ghế bành trở lại phương nằm ngang vuông góc với các thành tàu bây giờ đã ở thế dựng đứng.

Từ thân tàu, những cột đỡ khổng lồ có khớp lật ra xòe rộng, đón nhận sự tiếp xúc đầu tiên với mặt đất của thế giới lạ. Một cái xóc, một cái va đập, một cái xóc, "Tan-tơ-ra" nghiêng ngả phần mũi, và khi các động cơ hoàn toàn ngừng lai thì con tàu cũng đứng yên. Éc-gơ No-rơ giơ tay về phía bàn điều khiển ở ngay trên đầu, quay tay gạt để rút bỏ giá đỡ. Con tàu bắt đầu ngả mũi xuống một cách chậm chạp, từng quãng ngắn đột ngột, cho tới khi ở vị trí nằm ngang bình thường như trước. Việc đỗ xuống đã hoàn thành. Như thường lệ, cơ thể người bị chấn động mạnh đến nỗi các nhà du hành vũ trụ nửa nằm nửa ngồi trong các ghế bành phải mất một lúc mới hồi tỉnh được.

Người nào cũng cảm thấy bị đè nặng kinh khủng. Như sau một trận ốm nặng, họ phải khó khăn lắm mới đứng lên được. Nhưng nhà sinh vật học ham hoạt động đã kịp lấy không khí để thử.

- Thở được - anh cho biết - Bây giờ tôi sẽ nghiên cứu dưới kính hiển vi.

- Không cần - Éc-gơ No-rơ vừa đáp vừa cởi dây chằng của chiếc ghế bành có công dụng đặc biệt khi tàu đỗ xuống đất. - Không có áo giáp bảo vệ thì không được rời tàu. Ở đây có thể có những bào tử và những vi khuẩn rất nguy hại.

Trong khoang gián cách ở lối ra, người ta đã chuẩn bị sẵn những bộ áo giáp bảo vệ và "những bộ xương biết nhảy" - những bộ khung thép bọc da, có động cơ điện, lò xo và bộ giảm xóc. Bộ khung này lồng bên ngoài bộ áo bảo vệ, dùng làm phương tiện di chuyển cho từng người khi trọng lực quá lớn.

Mọi người đều nóng lòng muốn đặt chân lên đất dù là đất lạ, vì họ lang thang trong những vực thẳm giữa các vì sao đã sáu năm rồi. Cai Be, Pua Hít-xơ, In-gơ-rít, bác sỹ Lu-ma và hai kỹ sư cơ khí phải ở lại trong tàu để túc trực bên đài ra-đi-ô bên các đèn chiếu và các dụng cụ.

Nhi-da đứng riêng một chỗ, hai tay cầm cái mũ.

- Sao lại lưỡng lự thế, Nhi-da? Trưởng đoàn thám hiểm vừa kiểm tra đài ra-đi-ô trên chóp mũ của mình vừa bảo cô gái - Về tàu đi!

- Tôi...- cô gái ngập ngừng - Tôi có cảm giác rằng nó là con tàu chết, đậu ở đây đã lâu. Lại thêm một tai nạn nữa, thêm một nạn nhân của vũ trụ tàn bạo. Tôi hiểu rằng đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng bao giờ cũng vẫn đau lòng... đặc biệt là sau vụ Diếc-đa, vụ An-gráp...

- Có lẽ cái chết của con tàu này sẽ đem lại sự sống cho chúng ta - Pua Hít-xơ vừa nói vừa chĩa ống nhòm tiêu cự ngắn về phía con tàu vẫn tối om như trước.

Tám nhà du hành trèo vào căn buồng chuyển tiếp và dừng lại chờ đợi.

- Mở khóa không khí! - Éc-gơ No-rơ ra lệnh cho những người ở lại con tàu. Lúc này, một bức tường kín mít đã ngăn cách anh và họ.

Chỉ sau khi áp suất trong buồng đã tới mười át-mốt-phe, cao hơn áp suất bên ngoài, những kích thủy lực mới đẩy bật cánh cửa được hàn lại rất kín. Áp suất không khí gần như ném mọi người ra khỏi căn buồng, không để cho một vật gì có hại của thế giới lạ lọt được vào cái mẩu nhỏ này của Trái đất. Cửa sập lại nhanh như chớp. Tia đèn chiếu mở một con đường sáng rực. Những nhà nghiên cứu đi theo dọc con đường đó, bước chập chững bằng đôi chân lò xo, ì ạch lê những tấm thân nặng nề của mình. Ở cuối con đường sáng là con tàu khổng lồ cao ngất. Phần vì sốt ruột, phần vì bị lắc dữ dội do những bước nhảy vụng về trên đất mấp mô đầy đá nhỏ bị nung nóng rực dưới vầng mặt trời đen, họ cảm thấy một ki-lô-mét rưỡi này dài vô tận.

Qua lớp khí quyển dày, đầy hơi ẩm, những ngôi sao chỉ còn là những vệt sáng mờ nhạt. Thay cho vũ trụ tráng lệ, lấp lánh hào quang, bầu trời của hành tinh chỉ cho thấy hình bóng hư ảo của các chòm sao. Ánh sáng đỏ nhạt, mờ đục của chúng không thể tranh đua với bóng tối trên mặt đất của hành tinh.

Con tàu đặc biệt nổi rõ giữa bóng tối dầy đặc. Lớp sơn dày bằng Bo-azô-nô Zi-cô-ni phủ ngoài lớp vỏ bọc đôi chỗ đã mòn nhẵn. Chắc là con tàu đã lang thang rất lâu trong vũ trụ.

Ê-ôn Tan kêu lên một tiếng, tiếng kêu của anh vang dội trong các máy điện thoại. Anh chỉ tay vào cái cửa mở toang, nom như một vệt đen, và cái thang máy nhỏ thả xuống đất, trên mặt đất cạnh chiếc thang máy, dưới bụng tàu, có những cây gì mọc chồi lên. Những thân cây to mập đỡ những cái chén màu đen dạng pa-ra-pôn ở cách mặt đất chừng một mét. Rìa chén có khía, nom như những bánh răng cưa - không rõ đấy là lá hay là hoa.

Đám bánh răng cưa màu đen bất động này nom thật ghê rợn. Cái lỗ cửa há hoác, câm lặng càng đáng đề phòng hơn. Đám cây không ai đụng đến và cái cửa mở toang có nghĩa là đã từ lâu người ta không còn dùng con đường này nữa, không bảo vệ cái thế giới nhỏ bé của họ chống lại thế giới lạ nữa rồi.

Éc-gơ No-rơ, Ê-ôn và Nhi-da vào thang máy.

Trưởng đoàn quay cần phát động. Máy bắt đầu làm việc, phát ra tiếng ken két khe khẽ và ngoan ngoãn đưa ba nhà nghiên cứu vào khoang buồng chuyển tiếp mở toang. Những người còn lại lên theo. Éc-gơ No-rơ truyền tín hiệu về cho "Tan-tơ-ra" tắt đèn chiếu. Lập tức tốp người mất hút vào trong vực thẳm của bóng tối. Thế giới của ngôi sao sắt vây chặt lấy họ, như muốn hòa tan cái lò lửa yếu ớt này của sự sống Trái đất mà nay bị dính chặt vào mặt đất của hành tinh tối khổng lồ.

Những ngọn đèn quay trên các chóp mũ bật sáng. Cửa dẫn từ khoang buồng chuyển tiếp vào trong tàu đóng kín, nhưng không khóa và mở được một cách dễ dàng. Các nhà nghiên cứu vào hành lang giữa, họ tìm phương hướng, không có gì là khó khăn gữa những lối đi tối om. Cấu tạo của con tàu vũ trụ này chỉ khác "Tan-tơ-ra" về một vài chi tiết nhỏ.

- Con tàu này được chế tạo cách đây vài chục năm - Éc-gơ No-rơ vừa nói vừa tới gần Nhi-da.

Cô gái quay lại nhìn. Qua lớp si-li-côn[9] của cái mũ, khuôn mặt được chiếu sáng mờ mờ của trưởng đoàn nom có vẻ bí ẩn.

- Một ý nghĩ phi lý - Éc-gơ No-rơ nói tiếp - nếu như đây là...

- "Cánh buồm"! - Nhi-da kêu lên, quên rằng mình đang nói vào mi-crô, và cô thấy mọi người đều quay về phía cô.

Nhóm trinh sát đi vào ngăn chính của con tàu là phòng thí nghiệm kiêm thư viện và đến gần mũi tàu hơn, vào Trạm điều khiển trung tâm. Đi khật khưỡng trong bộ khung thép của mình, lảo đảo và va vào tường, trưởng đoàn lần tới bảng phân phối chính. Hệ thống thắp sáng của con tàu đã được bật lên nhưng không có dòng điện. Trong bóng tối của các ngăn buồng tàu, chỉ có những dấu hiệu chỉ báo và những ký hiệu có dạ quang vẫn tiếp tục sáng. Éc-gơ No-rơ tìm ra đầu dây tuột, và mọi người ngạc nhiên thấy ánh sáng bừng lên, một thứ ánh sáng đùng đục mà họ cảm thấy là chói lóa. Chắc hẳn ánh sáng cũng bật lên ở thang máy, vì trong những máy điện thoại gắn ở mũ có tiếng Pua Hít-xơ hỏi về công việc thăm dò tiến hành ra sao. Nhà địa chất trả lời anh ta, trong lúc đó trưởng đoàn đứng sững ở ngưỡng cửa Trạm trung tâm. Dõi theo luồng mắt anh, Nhi-da thấy ở phía trên, giữa các màn ảnh phía trước, có những chữ đề bằng hai thứ tiếng: tiếng nói của Trái đất và mã của Vành-khuyên vĩ đại: "Cánh buồm". Bên dưới, dưới nét gạch là những tín hiệu gọi Thiên-hà và tọa độ hệ mặt trời.

Con tàu bị mất tích tám mươi năm trước, bây giờ đoàn thám hiểm đã tìm thấy nó trong hệ thống chưa từng biết của vầng mặt trời đen mà lâu nay người ta chỉ coi là đám mây tối.

Việc khám xét các ngăn tàu không giúp họ giải quyết được câu hỏi là những người ở đây biến đi đâu. Các bình chứa ô-xy chưa hết, dự trữ nước và thức ăn còn đủ dùng mấy năm, nhưng không thấy vết tích cũng như hài cốt của đội du hành vũ trụ tàu "Cánh buồm".

Đây đó trong hành lang, trong Trạm trung tâm và trong thư viện, có những vệt tối thẫm kỳ lạ. Trên sàn thư viện cũng có một vệt đã cong lên thành tấm màng nhiều lớp, dường như một chất lỏng gì đó đã đổ xuống và khô đi ở đây. Trong buồng máy ở phần đuôi, những sợi dây điện bị đứt buông lủng lẳng ở phía trước cánh cửa mở của vách sau, còn những cột đồ sộ bằng đồng thanh phôt-pho của hệ thống làm lạnh thì cong vẹo hẳn đi. Ở các phần còn lại, con tàu vẫn hoàn toàn nguyên vẹn, vì thế không thể hiểu được những hư hại này: chỉ có những va đập rất mạnh mới có thể gây nên những hư hại như thế! Các nhà nghiên cứu nỗ lực hết sức mà vẫn không tìm ra một điều gì có thể giải thích được nguyên do vì sao đội du hành tàu "Cánh buồm" biến mất và chắc chắn là đã chết.

Nhưng họ khám phá ra một điều khác cực kỳ quan trọng: dự trữ a-na-mê-dôn và điện tích i-ôn liên hành tinh còn giữ lại trên tàu này đủ để "Tan-tơ-ra" rời khỏi hành tinh nặng và bay về Trái đất.

Tin đó được truyền ngay về "Tan-tơ-ra", xua tan tâm trạng tuyệt vọng đè nặng trong lòng mọi người từ khi con tàu của họ bị ngôi sao sắt bắt giữ. Bây giờ không cần mất nhiều thời gian để lo việc truyền tin về Trái đất nữa, nhưng sẽ phải lao động hết sức vất vả để chuyển những thùng chứa a-na-mê-dôn về "Tan-tơ-ra". Ở đây, trên hành tinh có trọng lực gần gấp ba trọng lực của Trái đất, cái nhiệm vụ tự nó vốn đã rất khó khăn biến thành một việc đòi hỏi phải có sáng kiến cao độ. Nhưng người của kỷ nguyên Vành-khuyên không sợ những khó khăn về trí tuệ, mà vui thích khi gặp những khó khăn ấy.

Trong máy ghi âm ở Trạm trung tâm, nhà sinh vật học lấy một cuộn dùng chưa hết của cuốn Nhật ký bay. Cùng với nhà địa chất, Éc-gơ No-rơ mở được cái tủ bảo hiểm chính đóng chặt kín, tủ này lưu trữ những kết quả nghiên cứu của "Cánh buồm". Họ khuân về một đống rất nặng; vô số cuốn phim phô-tôn từ, những nhật ký, những kết quả quan sát và tính toán thiên văn. Bản thân là những nhà nghiên cứu, những người trong đoàn thám hiểm không thể bỏ lại những thứ quý giá mà họ đã tìm được, dù chỉ là để lại một thời gian ngắn.

Mệt lả người, nhóm trinh sát gặp các bạn trong thư viện của "Tan-tơ-ra": ai nấy đều nóng lòng sốt ruột mong họ về. Ở đây, trong hoàn cảnh quen thuộc, bên cái bàn thuận tiện, dưới ánh sáng chói rực, bóng tối mịt mù bao trùm khắp nơi và con tàu vũ trụ đã chết, bị bỏ rơi dường như chỉ là ảo ảnh trong cơn ác mộng ban đầu. Nhưng sức hút của hành tinh khủng khiếp vẫn hành hạ họ, không buông tha họ lấy một giây. Mỗi cử động, người này hay người kia lại nhăn mặt vì đau. Không tập quen thì rất khó phối hợp cơ thể mình với động tác của các cánh tay đòn của bộ xương thép. Vì thế khi đi, họ thường bị va vấp, bị lắc dữ dội. Chỉ đi một quãng ngắn cũng đau nhừ người. Nhà địa chất Bi-na Lét có lẽ đã bị chấn thương nhẹ ở sọ não, chị tì người xuống bàn một cách khó nhọc, hai tay bóp thái dương, nhưng không chịu đi chừng nào chưa nghe hết cuộn cuối cùng của cuốn nhật ký tàu vũ trụ. Nhi-da chờ đợi cuộn ghi chép còn được giữ qua tám mươi năm trong con tàu chết, trên hành tinh ghê rợn này sẽ cho biết điều gì phi thường. Cô tưởng tượng ra những tiếng kêu cứu khàn nhàn, những tiếng kêu kêu gào đau khổ, những lời vĩnh biệt bi thương. Cô giật mình khi nghe thấy máy phát ra tiếng nói âm vang, lạnh lùng. Ngay cả Éc-gơ No-rơ cũng không biết một người nào trong đoàn du hành tàu "Cánh buồm", tuy anh am hiểu rất tường tận tất cả những gì liên quan tới các chuyến bay vũ trụ. Đoàn này gồm toàn thanh niên, họ đã lên đường thực hiện chuyến bay vô cùng táo bạo về phía Chức-nữ mà không gửi lại cho Hội đồng du hành vũ trụ cuốn phim thường lệ về những người trong đoàn.

Tiếng nói không quen biết trình bày những việc xảy ra vào quãng bảy tháng sau lần truyền tin cuối cùng về Trái đất. Từ gần một thế kỷ trước, khi vượt qua vành đai băng của hệ thống "Chức-nữ", "Cánh buồm" đã bị hư hại. Họ đã bịt được lỗ thủng ở phần đuôi tàu và tiếp tục cuộc hành trình, nhưng biến cố đó đã phá hỏng sự điều chỉnh cực kỳ chính xác đối với trường bảo vệ các động cơ. Sau cuộc đấu tranh kéo dài hai mươi năm, họ phải tắt động cơ. "Cánh buồm" còn bay theo quán tính năm năm nữa, cho đến khi sự thiếu chính xác tự nhiên của đường bay làm cho nó hoàn toàn chệch hướng. Lúc ấy, họ phát tin lần đầu tiên. Con tàu sửa soạn phát tin lần thứ hai thì rơi vào hệ thống ngôi sao sắt. Sau đó, sự việc diễn ra như đã xảy ra với "Tan-tơ-ra", chỉ khác một điều là con tàu không có động cơ khởi hành, nên khi đã hãm thì không thể bay ra khỏi hệ thống đó được nữa. Nó không thể trở thành vệ tinh của hành tinh, vì các động cơ liên hành tinh tạo gia tốc ở đuôi tàu cũng mất khả năng hoạt động, giống như các động cơ a-na-mê-dôn: "Cánh buồm" hạ xuống bình yên bên cái bình sơn nguyên thấp gần biển. Đoàn thám hiểm bắt đầu thực hiện ba nhiệm vụ đặt ra cho họ: cố gắng sửa chữa các động cơ, gửi tín hiệu về Trái đất và nghiên cứu hành tinh chưa từng biết. Họ chưa kịp lắp ráp xong tháp đặt tên lửa thì một số người bỗng mất tích. Những người được phái đi tìm kiếm cũng không trở về. Việc nghiên cứu hành tinh phải ngừng lại. Mỗi khi rời khỏi tàu ra dựng tháp, họ phải đi cả đoàn, và trong thời gian nghỉ giữa những đợt làm việc mệt nhọc quá sức tưởng tượng do phải chịu trọng lực của hành tinh, họ ngồi lỳ rất lâu trong con tàu đóng kín. Vì mải làm gấp để phóng tên lửa đi, họ thậm chí không có ý định nghiên cứu con tàu vũ trụ lạ đậu gần "Cánh buồm". Có lẽ con tàu đó đã ở đây lâu lắm rồi.

"cái đĩa này! " - Nhi-da thoáng nghĩ trong óc. Cô bắt gặp luồng mắt của trưởng đoàn. Anh hiểu ý nghĩ của cô và gật đầu tán thưởng. Trong mười bốn người của đội thám hiểm tàu "Cánh buồm", còn tám người sống sót. Tiếp đó nhật ký cách quãng chừng ba ngày, rồi một giọng nữ trẻ trung cao vút cho biết:

"Hôm nay, ngày mười hai, tháng thứ bảy, năm ba trăm hai mươi ba của Vành-khuyên, chúng tôi, tất cả những người còn lại, đã chuẩn bị xong tên lửa phát tin. Ngày mai, vào giờ này..."

Theo bản năng, Cai Be nhìn khoảng chia thời gian trên dải băng đang mở ra: năm giờ sáng theo giờ của "Cánh buồm", và chẳng ai biết là mấy giờ của hành tinh này...

"Chúng tôi sẽ phóng tên lửa theo đường đạn đã tính toán kỹ...- tiếng nói đứt quãng, rồi lại tiếp tục nhưng khàn hơn và yếu hơn, dường như người nói quay mặt khỏi máy thu. - Tôi đóng mạch điện. Chưa xong!...

Máy im bặt, nhưng dải băng tiếp tục mở ra. Những người nghe đưa mắt nhìn nhau lo ngại.

- Có chuyện xảy ra rồi! - In-gơ-rít Đi-tơ-ra lên tiếng.Máy ghi âm phát ra những lời hối hả, nghẹn ngào: "Có hai người thoát được... Chị La-ích không nhảy tới được... thang máy... chúng tôi không đóng được cửa chính, chỉ đóng được cửa thứ hai! Kỹ sư cơ khí Xắc Cơ-tôn bò về phía các động cơ... chúng tôi bắn bằng các động cơ liên hành tinh... chúng hung dữ và khủng khiếp, nhưng chẳng là cái gì cả. Đúng, chẳng là cái gì cả...".

Dải băng quay một lúc không có tiếng, rồi vẫn cái giọng ấy cất lên.

"Hình như Cơ-tôn không kịp thoát, tôi còn lại một mình, nhưng tôi nghĩ ra rồi. Trước khi tôi bắt đầu - tiếng nói trở nên rắn rỏi, biểu lộ sức mạnh tự tin - Hỡi anh em, nếu các bạn tìm thấy "Cánh buồm" thì tôi xin báo trước là đừng bao giờ rời khỏi con tàu".

Người nói thở dài một tiếng và nói khẽ, như tự nói với mình:

"Cần phải đi xem Cơ-tôn ra sao rồi... khi trở về tôi sẽ nói tỉ mỉ...".

Một tiếng tách, dải băng tiếp tục mở ra khảng hai mươi phút nữa, cho đến hết cuộn. Nhưng họ hoài công căng tai ra chờ nghe tiếp: người phụ nữ không quen biết không còn giải thích gì nữa, có lẽ chị không trở về.

Éc-gơ No-rơ tắt máy và nói với các bạn:

- Những anh chị em đã khuất chính là cứu tinh của chúng ta! Các bạn không cảm thấy bàn tay của con người Trái đất đầy sức mạnh hay sao! Trên con tàu có a-na-mê-dôn. Bây giờ chúng ta đã được báo trước về mối nguy hiểm chết người đang rình chúng ta ở đây. Tôi không biết nó là cái gì, nhưng chắc chắn đấy là sự sống khác lạ. Nếu nó là lực lượng tự phát của vũ trụ, chúng không chỉ giết người, mà còn phá hỏng cả con tàu! Bây giờ đã nhận được sự giúp đỡ như thế mà chúng ta không tự giải thoát được, không đưa được những khám phá của "Cánh buồm" và chúng ta về Trái đất thì thật xấu hổ. Phải làm sao cho công sức vĩ đại của những người đã khuất không phí hoài.

- Anh định làm thế nào để lấy nhiên liệu mà không ra khỏi tàu? - Cai Be hỏi.

- Sao lại không ra khỏi tàu? Anh cũng biết là không thể làm như thế được và chúng ta sẽ phải làm việc ở bên ngoài. Nhưng chúng ta đã được báo trước và sẽ có biện pháp đề phòng...

- Tôi đoán ra rồi - Nhà sinh vật Ê-ôn Tan nói - Làm rào cản xung quanh chỗ làm.

- Không chỉ ở chỗ làm, mà còn suốt dọc con đường giữa hai con tàu - Pua Hít-xơ nói thêm.

- Cố nhiên! Vì chúng ta không biết đó là cái gì đang rình chúng ta, nên ta sẽ làm rào cản kép: rào bằng bức xạ và bằng dòng điện. Ta sẽ chăng dây dẫn, sẽ tạo nên một hành lang sáng suốt dọc đường. Phía sau "Cánh buồm" có một tên lửa chưa dùng đến, trong đó có năng lượng đủ dùng cho suốt thời gian làm việc.

Đầu Bi-na Lét đập xuống bàn đánh cộp một cái. Thầy thuốc và nhà thiên văn cố khắc phục sức nặng, nhích đến gần người bạn đã bị ngất!

- Không sao! - Lu-ma La-xvi tuyên bố - Chấn thương và mệt quá sức. Hãy giúp tôi đặt Bi-na lên giường.

Cái việc đơn giản ấy có thể chiếm mất nhiều thời giờ, nếu kỹ sư cơ khí Ta-rôn không nảy ra ý nghĩ dùng xe tự động. Nhờ chiếc xe ấy, cả tám người đi trinh sát đều được đưa về giường riêng: đã đến lúc nghỉ ngơi, nếu không thì sự mệt mỏi quá mức của cơ thể chưa thích nghi với hoàn cảnh mới sẽ biến thành bệnh tật. Vào lúc khó khăn này của cuộc thám hiểm, mỗi người đều không thể lấy ai thay thế được.

Lát sau, hai chiếc xe tự động dùng vào việc chuyên chở và làm đường đã được nối với nhau và bắt đầu san một con đường giữa hai tàu vũ trụ. Những sợi cáp cực khỏe được chăng ra hai bên con đường đã vạch sẵn. Ở cạnh hai con tàu đều đặt những tháp quan sát có vỏ chụp bằng si-li-cô-bo[10]. Những người quan sát ngồi trong tháp, chốc chốc lại điều khiển buồng xung động phóng ra những tia bức xạ khốc hại thành hình rẻ quạt, chạy dọc hai bên đường. Trong suốt thời gian làm việc, ánh sáng của những đèn chiếu mạnh không hề tắt một giây. Ở bụng tàu "Cánh buồm", họ khám phá ra cái cửa nắp chính. Họ tháo những tấm vách và chuẩn bị đưa bốn thùng a-na-mê-dôn và ba mươi ống chứa điện tích i-ôn xuống xe tải. Đưa chúng lên "Tan-tơ-ra" là một nhiệm vụ phức tạp hơn nhiều. Không thể mở cửa "Tan-tơ-ra" như mở cửa con tàu "Cánh buồm" đã chết, vì như vậy là để lọt vào "Tan-tơ-ra" tất cả những sản phẩm của một sự sống khác chắc chắn là có tác hại giết người. Cho nên, họ chuẩn bị cửa nắp và sau khi tháo những tấm vách trong, họ chuyên chở những bình không khí lỏng dự trữ từ "Cánh buồm" sang. Theo kế hoạch đã định, từ lúc mở cửa nắp cho đến khi xếp tải xong các thùng chứa nhiên liệu, cần cho một luồng không khí nén có áp suất cao liên tục thổi qua nòng thu nhận. Ngoài ra, vỏ tàu được che chở bằng luồng bức xạ ào ạt.

Mọi người dần dần quen làm việc trong những "bộ xương" thép và phần nào quen với cái trọng lực gần gấp ba lần trọng lực bình thường. Cảm giác đau nhức không thể chịu được trong tất cả các khớp xương đã giảm bớt (họ bị đau nhức trong xương như vậy hầu như ngay sau khi tàu đỗ xuống).

Mấy ngày Trái đất nữa trôi qua. Vật bí ẩn "không tên" vẫn không xuất hiện. Nhiệt độ không khí xung quanh giảm hẳn xuống. Một trận cuồng phong nổi lên, mỗi giờ một mạnh. Đấy là vầng mặt trời đen bắt đầu lặn: hành tinh quay và phần đại lục có các con tàu vũ trụ đi vào phía "đêm". Nhờ các luồng đối lưu, nhờ sự trao đổi nhiệt của đại dương và lớp khí quyển dầy, cái rét không đến nỗi gay gắt lắm. Nhưng vào khoảng nửa đêm của hành tinh trời bắt đầu rét dữ. Các máy sưởi của bộ áo giáp bắt đầu hoạt động, và công việc vẫn được tiếp tục. Họ vừa đưa một thùng nhiên liệu đầu tiên về đến "Tan-tơ-ra" thì bắt đầu "rạng đông". Một trận bão mới nổi lên, dữ dội hơn so với trận bão lúc "hoàng hôn". Nhiệt độ tăng nhanh đến trên độ không, những luồng không khí dày đặc mang theo rất nhiều hơi ẩm, chớp lóe lên làm rung chuyển bầu trời. Trận bão mạnh đến nỗi làm cho con tàu rung lên vì sức gió kinh khủng. Toàn đội dồn hết nỗ lực để gắn chắc thùng nhiên liệu vào bụng "Tan-tơ-ra". Tiếng gầm ghê rợn của trận bão cứ mạnh mãi lên, những cột lốc nguy hiểm xoáy tít trên bình sơn nguyên, nom rất giống những cột vòi rồng trên Trái đất. Trong dải ánh sáng, một cột vòi rồng khổng lồ bằng tuyết và bụi mọc lên, cái chóp hình phễu chọc vào vòm trời thấp tối thẫm, loang lổ. Sức ép của cột đó làm đứt sợi dây cao thế, những tia lửa xanh nhạt của dòng đoản mạch lóe lên giữa những đầu dây chập vào nhau. Ánh sáng vàng nhạt của "Cánh buồm" tắt ngấm như ngọn đèn trước gió.

Éc-gơ No-rơ ra lệnh ngừng việc, ẩn vào trong tàu.

- Những người quan sát vẫn còn ở ngoài - nhà địa chất Bi-na Lét kêu lên, chỉ ánh đèn gần như không nhận thấy được của cái tháp bằng si-li-cô-bo.

- Tôi biết, Nhi-da hiện ở đấy, tôi đến đấy ngay bây giờ - Trưởng đoàn thám hiểm đáp.

- Dòng điện bị ngắt, vật "không tên" tha hồ muốn làm gì thì làm - Bi-a phản đối một cách nghiêm nghị.

- Nếu bão ảnh hưởng đến chúng ta thì cũng ảnh hưởng cả đến "vật không tên" ấy. Tôi tin chắc rằng chừng nào bão chưa ngớt thì chưa có gì nguy hiểm. Còn ở đây, tôi nặng đến mức gió không thể thổi tôi bay đi, nếu tôi bò ép xuống đất. Đã từ lâu, tôi muốn ẩn trong tháp để rình "vật không tên" ấy.

- Cho tôi đi với nhé? - Nhà sinh vật nhảy tới gần trưởng đoàn.

- Được, nhưng chỉ mình anh thôi, không thêm người nào nữa. Anh cần biết vật đó có ích cho chuyên môn của anh.

Hai người bò một lúc lâu, bám lấy những chỗ mấp mô và những kẽ đá, cố làm sao để không đâm vào những cột mốc trên đường đi. Bão vẫn bền bỉ tìm cách giằng họ ra khỏi mặt đất, lật ngửa họ ra và lăn họ đi. Có một lần nó đã thành công, nhưng Éc-gơ No-rơ vồ lấy Ê-ôn đang lăn, nằm đè lên anh và dùng hai tay có vuốt bám chặt lấy rìa một tảng đá lớn.

Nhi-da mở cửa tháp, và hai người lần lượt bò vào. Ở đây vừa ấm vừa yên tĩnh. Tháp đứng vững, được củng cố chắc chắn, vì họ đã sáng suốt nhìn thấy trước là sẽ có bão.

Cô gái tóc hung vừa cau có vừa vui mừng vì các đồng chí đến đây. Cô thú thực rằng nếu phải ở một mình suốt ngày đêm giữa bão tố trên hành tinh lạ này thì thực khó chịu.

Éc-gơ No-rơ báo cho "Tan-tơ-ra" biết chuyến vượt đường được yên ổn và đèn chiếu của tàu liền tắt ngay. Bây giờ, trong bóng tối nguyên thủy, chỉ còn một đốm sáng yếu ớt bên trong tháp. Đất rung chuyển vì sức gió của cơn bão, vì những luồng sét, vì những cột vòi rồng ghê gớm. Nhi-da ngồi trên cái ghế quay, tựa lưng vào bộ biến trở. Trưởng đoàn và nhà sinh vật ngồi xuống dưới chân cô, trên cái gờ hình vành khuyên của đáy tháp. Người to xù vì mặc áo giáp, họ chiếm gần hết chỗ.

- Tôi cho rằng ta nên ngủ đi một lát - tiếng Éc-gơ No-rơ vang lên khe khẽ trong các ống điện thoại - Còn đúng mười hai giờ nữa mới đến "bình minh đen", vào lúc ấy bão mới lặng và nhiệt độ mới ấm.

Các đồng chí vui vẻ ưng thuận. Mặc dù phải chịu đựng trọng lực gấp gần ba lần mức bình thường, co quắp trong bộ giáp có khung cứng gò bó, chen chúc trong cái tháp chật ních rung chuyển vì bão, họ vẫn ngủ được: khả năng thích ứng và sức đề kháng tiềm tàng trong cơ thể con người thực là lớn lao.

Chốc chốc Nhi-da lại thức giấc, cô báo tin về cho người trực trên "Tan-tơ-ra" để các đồng chí yên tâm, rồi lại thiu thiu ngủ. Bão yếu đi rõ rệt, đất không còn rung chuyển nữa. Vật "không tên" hay đúng hơn là "vật gì chưa rõ" có thể xuất hiện. Những người quan sát uống P.V. - những viên thuốc tăng cường sự chú ý - để cho hệ thần kinh đã bải hoải tỉnh táo lại.

- Con tàu lạ làm tôi luôn luôn băn khoăn - Nhi-da thú thật - Tôi muốn biết "họ" là ai, từ đâu đến, đã rơi vào đây như thế nào...

- Tôi cũng vậy - Éc-gơ No-rơ đáp - Đã từ lâu trong hệ Vành-khuyên vĩ đại có loan đi câu chuyện về những ngôi sao sắt và những hành tinh cạm bẫy của chúng. Tại những khu vực đông dân hơn của Thiên-hà, các con tàu đã