CHƯƠNG THỨ MƯỜI CUỘC THANH TRỪNG VĨ ĐẠI-BIA ĐẢNG NGUYÊN HỰU
Cuối năm 1092 ông được triệu về kinh làm Binh bộ thượng thư rồi Lễ bộ Thượng thư. Mùa thu năm sau bà Tô mất, ông làm văn tế khen bà là hiền từ, nuôi con riêng của chồng như con mình, và bao lần chia xẻ cảnh cay đắng với chồng. Áo quan của bà quàn tại một ngôi chùa ngoại ô, mười năm sau, Tử Do mới đưa về Nhữ Châu cùng với quan tài của Đông Pha.
Tang đó không làm cho Đông Pha lúng túng vì Triêu Vân đã quen coi sóc việc nhà, mà con cái đều lớn cả: Mại ba mươi bốn tuổi, ít tài nhưng rất có hiếu; Đại hai mươi ba tuổi đã cưới cháu nội Âu Dương Tu; và Quá hai mươi mốt tuổi.
Bà Tô mất đầu tháng tám thì đầu tháng chín Tuyên Nhân Hậu cũng qui tiên, và chính cái chết thứ nhì đó mới làm cho cuộc đời về già của Đông Pha long đong, khổ vô ngần.
Tuyên Nhân Hậu là một người tốt, trong bảy tám năm thính chính, tận tâm lo việc nước chứ không mưu lợi cho họ hàng thân thích, ngay cả cho con mình nữa; bà lại nhờ Đông Pha và Trình Di giảng sách cho Triết Tôn (cháu nội bà) khi còn nhỏ, mong rằng Triết Tôn sẽ là một minh quân. Nhưng Triết Tôn lại không minh triết chút nào, ưa thanh sắc, tính tình nóng nảy, dễ nghe lời nịnh hót, bất bình về sự ngăn cấm nghiêm khắc của bà nội, chỉ mong mau tới cái ngày được cầm quyền để tự do làm theo ý mình. Nhất là lại thêm Trình Di luôn luôn giảng cái hại về sắc dục, cơ hồ như coi đàn bà đều là hạng Đắt Kỉ hết, răn đe mãi Triết Tôn không được mảy may động lòng trước nụ cười khóe mắt của họ, làm cho óc tưởng tượng của cậu bé mười một, mười hai tuổi đầu bừng bừng lên, nửa sợ mà lại nửa thèm trái cấm, và tới tuổi dậy thì, lòng xuân của cậu khó mà nén nổi. Cậu xa cách Trình Di mà gần gũi bọn nịnh hót.
Tuyên Nhân Hậu hiểu tính tình của cháu, mười ngày trước khi mất, cho vời sáu vị đại thần vào cung, trong số đó có Tử Do và Phạm Thuần Nhân (con Phạm Trọng Yêm), dặn dò họ phải hết lòng phò thiếu Đế.
Khi họ sửa soạn lui ra, bà giữ riêng Phạm Thuần Nhân và Lữ Đại Phòng lại, kể lể tâm sự:
- Có kẻ phao tin rằng ta có ý dành ngai vàng cho con trai ta (chú của Triết Tôn); các khanh thấy đấy, lời đó bậy. Khi ta mất rồi, hai khanh nên cáo quan đi, vì chắc chắn thiếu Đế sẽ dùng một nhóm người khác.
Vì vậy mà, Tuyên Nhân Hậu mới nằm xuống, Đông Pha xin đổi ngay lại Định Châu, ở gần Bắc Bình ngày nay.
*
Triết Tôn, mười tám tuổi, lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Thánh, có nghĩa là tiếp nối chính sách của tiên đế, tức tân pháp của Thần Tôn.
Ông ta oán bà nội hồi trước hay rầy ông là biếng học, hiếu sắc.
Theo tục lệ thời đó, vị thiên tử nào cũng có hai chục thiếu nữ choai choai đẹp như mộng đêm ngày hầu hạ chung quanh. Dĩ nhiên con số đó chỉ là tối thiểu, một khi đã thực sự cầm quyền rồi thì muốn cả trăm, cả ngàn xuân nữ cũng được.
Hồi mười bốn mười lăm tuổi, một hôm Triết Tôn nhận thấy rằng mười cung nhân không vào hầu hạ cậu nữa mà có mười ả khác vào thay. Ít bữa sau, lại thay mười người nữa, hỏi họ thì họ khóc lóc, tâu rằng bị Thái Hoàng Thái Hậu cật vấn dữ quá.
Cũng vào khoảng đó, Lưu An Thế giữ chức giám quan, kiếm vú sữa cho con hay cháu mà đợi cả tháng không được, cho điều tra thì hay rằng bao nhiêu vú sữa sạch mắt đều bị đưa vào cung hết. Ông ngạc nhiên, bèn dâng sớ tâu rằng: “Hoàng Thượng còn trẻ, không lẽ mà đã ham phụ nữ. Vậy nên hạ thần không tin lời đồn trong dân gian; nhưng thiên hạ đồn nhiều quá, riết rồi thần cũng đâm ngờ”.
Một vị đại thần khác, Phan Tổ Vũ dâng sớ thẳng lên Triết Tôn: “Có tin đồn Bệ hạ tiếp xúc thân mật với cung nữ. Bệ hạ còn trẻ mà đã như vậy ư, không quí trọng thánh thể ư”?
Tuyên Nhân Hậu phải vội vàng bịt miệng họ lại, nhờ tể tướng Lữ Đại Phòng nhắn Lưu và Phạm rằng trong cung quả thực cần vú sữa cho các công chúa còn nhỏ, còn Triết Tôn đêm nào cũng ngủ trong phòng của bà, thiên hạ đồn bậy đấy.
Lưu và Phạm nhận rằng vụ đó do hiểu lầm. Nhưng từ đó Triết Tôn oán hai ông, sau này Lưu suýt bị ám sát, còn Phạm thì chết trong thời gian bị đày.
Mùa hè năm 1090, do lời giới thiệu của “Dương ba mặt”, Chương Đôn được Triết Tôn phong làm tể tướng.
Chương Đôn hồi xưa là bạn thân của Đông Pha. Một lần hồi còn trẻ hai người đi chơi núi, tới một hẻm núi, chỉ có một chiếc ván bắc qua một vực thẳm, hai bên là vách núi dựng đứng. Chương thách Tô đi qua cầu, viết chữ lên vách núi bên kia. Tô từ chối, Chương ung dung qua cầu, nắm một chiếc dây thừng, lủng lẳng, tuột lần lần xuống rồi đề mấy chữ vào lưng chừng sườn núi: “Tô Thức và Chương Đôn đã tới thăm nơi đây”. Rồi ông ta lại ung dung trở về chỗ cũ. Tô Thức bảo: “Một ngày kia anh sẽ giết người”.
- “Tại sao?”
- “Một người coi thường cái mạng của mình như vậy thì còn coi mạng người ra gì nữa”.
Lời tiên tri đó ngày nay thấy đúng. Được làm tể tướng, Chương thẳng tay thanh trừng đối thủ. Hắn oán Tuyên Nhân Hậu vì có lần bà mắng hắn là dụ dỗ Triết Tôn, kiếm con gái đẹp và ca nhi cho Triết Tôn. Vì vậy ngay khi bà còn sống, hắn đã nói ra nói vào cho Triết Tôn càng ngày càng oán bà; bây giờ hắn dùng lại tất cả những kẻ đã bị bà cách chức để họ phao tin rằng hồi sinh tiền bà đã âm mưu với Tư Mã Quang, Vương Khuê, truất ngôi Triết Tôn.
Không có chứng cớ gì cả, mà hai ông này đã chết rồi, ai đâu mà đối nại. Hắn tra khảo một số người khác theo hai ông, bắt phải khai như hắn muốn.
Hắn còn dám đề nghị với Triết Tôn không thờ Tuyên Nhân Hậu trong thái miếu nữa, may mà Triết Tôn không nghe: “Như vậy trẫm còn mặt mũi nào vào tế lễ tiên đế Anh Tôn nữa”.
Nhưng Triết Tôn cũng cách hết chức tước của Tư Mã Quang và Lưu Công Trứ. Bấy nhiêu chưa làm cho hắn vừa lòng. Hắn còn muốn đào mả Tư Mã Quang, quất vào tàn cốt để trị cái tội “phản loạn”. Toàn thể triều đình đều a dua vì là tay chân của hắn, chỉ trừ một người họ Từ làm thinh. Triết Tôn chưa đến nỗi táng tận lương tâm, khi tan triều, giữ vị họ Từ đó lại, hỏi tại sao làm thinh.
Ông ta đáp:
- Vì thần nghĩ rằng làm như vậy không ích lợi gì mà để lai ô danh cho triều đại.
Việc đó bỏ qua, nhưng gia sản của họ Tư Mã bị tịch thu hết, mộ bia bị đập bể, và suýt nữa bộ Tư trị thông giám vĩ đại của Quang bị thiêu hủy. Chỉ nhờ bài Tựa của Thần Tôn, Triết Tôn không nỡ hủy luôn văn của cha, nên bộ đó mới còn lưu đến ngày nay.
Cuộc thanh trừng tiếp tục, trên chục vị đại thần triều đại Nguyên Hựu bị giết hay đày. Văn Ngạn Bác, thờ bốn chục[123] triều đại, ai cũng quí mến, năm đó chín mươi mốt tuổi cũng bị giáng chức, làm nhục, vì uất hận, một tháng sau từ trần. Cựu tể tướng Lữ Đại Phòng tuy không có tài nhưng hiền hậu, cần mẫn bảy mươi mốt tuổi, đương đau cũng bị đày. Không một ai dám lên tiếng bênh vực ông, trừ Phạm Thuần Nhân. Bạn bè khuyên Phạm đừng, Phạm khảng khái đáp: “Tôi gần bảy chục tuổi, mắt gần đui, đâu có muốn bị đày xa ngàn dặm. Nhưng việc phải làm thì tôi làm”. Rồi ông dâng sớ xin tha tội cho Lữ Đại Phòng để rồi bị đày xuống phương Nam.
Chương Đôn muốn diệt hết cựu đảng vì hắn sợ rằng nếu cựu đảng còn, một ngày kia trở gió thì hắn sẽ nguy.
Hắn thù Lưu An Thế, đã đày Lưu rồi lại sai người ám sát Lưu, người này trọng Lưu, từ chối. Hắn bảo một con buôn hễ ám sát được Lưu thì sẽ cho làm một chức quan thu thuế. Gia đình Lưu hay tin đó khóc lóc, Lưu cứ điềm nhiên ngồi uống rượu. Nửa đêm, con buôn nọ tới cửa, tính ám sát thì không hiểu tại sao khạc ra máu, té bất tỉnh và chết ở trước cửa nhà Lưu.
Chương Đôn tính hại Tử Do, buộc tội ông là có lần không được ở nhà của chính phủ, đã hiếp đáp dân, sung công nhà dân để ở, nhưng ông đưa ra giấy biên nhận của chủ nhà, chứng tỏ rằng ông mướn nhà đàng hoàng; hắn không làm gì được, giáng chức ông rồi biếm đi Nhữ Châu, rồi Cao An.
Vụ thanh trừng có một không hai trong lịch sử Trung Quốc thời xưa đó gây một không khí kinh khủng. Trước sau có tám trăm ba chục quan lại bị xử, hồ sơ gom lại thành một trăm bốn mươi hai quyển. Mấy chục người tự tử để khỏi bị nhục.
Chương Đôn còn sai đục hằng trăm tấm bia khắc tên ba trăm lẻ chín người trong đảng Nguyên Hựu (nghĩa là đảng cầm quyền dưới triều Nguyên Hựu: (1086-1093), mà người đứng đầu là Tô Đông Pha, rồi dựng những bia đó ở khắp nơi; hiện nay ở trên các đỉnh núi cheo leo, còn được vài tấm. Những người có tên trên bia sẽ vĩnh viễn bị nhục nhã: hậu duệ dù là mấy đời cũng không được làm quan; hoàng thất không được phép làm thông gia với bọn họ.
[123] Bốn chục hay bốn? (Quantam).