ZÉRO LOẠI
Trước năm 1975, kỳ thi tú tài trải qua nhiều lần thay đổi. Lúc đầu, có hai tú tài liên tiếp: Tú tài một hay Tú tài bán phần dành cho học sinh lớp Đệ nhị, qua được mới lên lớp Đệ nhất để thi Tú tài hai hay Tú tài toàn phần. Về sau, gần như song song với việc đổi tên lớp, người ta bãi bỏ Tú tài một cho lớp Mười một. Trẻ em học một hơi từ lớp Sáu đến lớp Mười hai và qua một kỳ thi Tú tài duy nhất để kết thúc quãng đời thơ mộng của mình.
Thể thức thì cũng thay đổi. Lúc đầu có hai giai đoạn, thi viết xong, nếu đậu thì qua thi vấn đáp. Thi viết chỉ có ba môn chính cho tú tài II, vấn đáp thì tất cả các môn. Sau cùng bỏ luôn vấn đáp, chỉ thi viết cho tất cả các môn. Mỗi ban có các môn chính với hệ số cao, các môn còn lại, gọi là phụ, đều có hệ số một.
Tuy nhiên, mỗi môn, dù là phụ, đều có thể loại cả kỳ thi. Cho số không, đóng khung rồi đề thêm chữ 'loại', viết lý do, thế là xong đời. Các thí sinh bị loại, hầu hết là vì góp giấy trắng, hoặc chỉ chép để rồi ra về. Một ít viết nhảm nhí trong bài thì cũng bị loại luôn.
Đối với tôi, việc cho số không rồi đóng khung là việc quá thông thường, kỳ thi nào cũng có, nhiều nhất là chấm trúng các trung tâm quân nhân và thí sinh tự do là những người đã lớn tuổi, không phải là học sinh các trường trung học công lập hoặc tư thục. Thường họ chẳng học hành gì cả, không loại thì họ cũng rớt.
Tất cả lý đó đều là: «giấy trắng». Chỉ một lần duy nhất, không phải là «giấy trắng» mà là một bài dài thậm thượt, có một chút kiến thức đúng với đáp án. Tôi vẫn nhớ mãi lần đó. Về sau, điểm 'zéro loại' của bài nầy vẫn ám ảnh tôi mãi và trở thành nỗi ray rứt, mấy chục năm rồi cũng vẫn còn.
Tôi chỉ thực sự cầm bút đỏ một số năm lúc mới đi dạy. Về sau thường phải làm trong ban chỉ huy hội đồng nên ít có dịp tự tay chấm bài. Vì thế, câu chuyện xảy ra lúc tôi còn trẻ lắm, vẫn còn tính nông nổi và tự cao tự đại chứ chưa có tính thận trọng của người đứng tuổi.
Thông thường, khi lãnh một xấp bài thi do tổ trưởng trao, giám khảo cầm trong tay, đưa lên, đưa xuống để ước lượng sức nặng của nó. Xấp bài nhẹ thì lòng giám khảo cũng nhẹ vì mỗi thí sinh chỉ làm bài trên một tờ giấy, trong đó, có những tờ giấy trắng, vèo một cái là chấm xong. Xấp bài nặng thì lòng giám khảo cũng nặng theo vì ngay trước mắt là những giờ dài cắm cúi trên những trang giấy đặc lền chữ viết.
Tuy ngao ngán vì xấp bài nặng trĩu nhưng khi cầm cây bút đỏ trên tay, tình cảm thầy trò vẫn bàng bạc trong lòng. Gặp những bài làm đúng, nét chữ rõ ràng dễ đọc, trình bày mạch lạc thì vui thích lắm. Giám khảo thường nắn nót một số điểm khả quan vào ô điểm và câu khen ngợi không tiếc lời trong ô lời phê. Trái lại, gặp những bài chữ nguệch ngoạc, căng mắt ra để đoán suốt cả hơn mười trang giấy, quả thực là cực hình. Nỗi bực tức khó lòng mà kềm chế được.
Dạy ở các lớp thi, tôi luôn luôn nhắc nhở học sinh nhiều lần trong năm học về việc trình bày bài thi của mình. Tôi biết học sinh ít để tâm đến lời khuyên của thầy nên tôi thường mô tả tâm trạng của giám khảo bằng hình tượng so sánh như thế nầy:
- «Khi bắt gặp một truyện ngắn hay nhất thế giới, các em có thể đọc đi đọc lại bao nhiêu lần? Ba lần? Sáu lần? Mười lần? Không thể hơn được nữa. Thế mà trong kỳ thi, chúng tôi, mỗi người phải đọc chuyện ngắn dở nhất thế giới, liên tiếp hàng trăm lần mỗi ngày».
Ngao ngán không biết chừng nào mà kể. Hơn nữa, đâu phải đọc suông như đọc tiểu thuyết giải trí mà phải căng óc ra để suy nghĩ và nhận xét đúng sai. Trong tâm trạng đó, nếu gặp bài trình bày lôi thôi, bực mình là điều dễ hiểu.
Nhiều em lại viết chữ quá xấu, cẩu thả, đá móc lung tung, có khi đọc không nổi, phải đoán mò từng chữ. Khổ nỗi, những bài như thế thường rất dài, có khi đến hơn năm tờ giấy đôi tức là hơn hai mươi trang lớn tất cả. Tôi cam đoan, có nhiều thầy cô, không đủ kiên nhẫn, đã bỏ qua một số đoạn của bài làm, nhất là vào giờ cuối cùng của buổi chấm thi, khi đã mệt mỏi rã rời. Vì vậy, có nhiều học sinh rớt tú tài, không phải vì thiếu kiến thức mà vì chữ quá xấu.
Tôi biết, lỗi không hoàn toàn do các em, mà chính yếu là do các thầy cô ở bậc tiểu học. Viết chữ xấu là khuyết điểm trầm trọng nhất trong những năm học đầu đời của các em; đến lớp mười trở đi, khuyết điểm đó trở thành nhược điểm, không thể nào sửa được nữa.
Người ta thường gọi chữ xấu và khó coi là 'chữ bác sĩ' trên các toa thuốc. Điều đó không phải là bịa đặt đâu. Người ta thường có quan niệm sai lầm rằng bác sĩ nào viết chữ chân phương, ai đọc cũng được thì chưa phải là bác sĩ có tài. Tôi rất phẫn nộ về điều nầy. Chữ của bác sĩ trên toa thuốc là những chữ cực kỳ quan trọng, liên can trực tiếp đến sinh mạng con người. Thế mà, muốn chứng mình rằng mình là một bác sĩ giỏi thì một trong những yếu tố cần thiết là chữ phải rất khó đọc, càng khó đọc càng ngon lành!
Môn tôi dạy, một số học trò giỏi có mộng làm bác sĩ. Do đó, hàng trăm, hàng ngàn lần, tôi căn dặn các em phải hết sức đả phá quan điểm lạ kỳ và tai hại về 'chữ bác sĩ' trên đây. Với các em không có mộng làm bác sĩ, tôi cũng dạy các em rằng chữ viết tròn trịa và dễ thương trong các lá thơ, trong những đơn xin việc sẽ tạo ấn tượng tốt đẹp đầu tiên nơi người nhận và góp phần không nhỏ cho sự thành công trong cuộc đời mình.
Tôi xem trọng chữ viết của các em như thế đó, và tôi cũng ước mong cha mẹ học sinh và các thầy cô dạy tiểu học cùng chia sẻ quan niệm của tôi.
Bây giờ, tôi xin trở lại bài thi mà tôi đánh rớt. Đó là một bài thi gồm bốn tờ đôi, đủ mười sáu trang giấy thi khổ lớn, đầy những dòng chữ khó coi vô cùng, phải vừa đọc vừa đoán ý người viết. Thí sinh trả lời đủ năm câu hỏi của đề thi, cũng có trúng phần nào đó với đáp án, nhưng ít thôi còn phần lớn thì sai hoặc tôi đọc mà chẳng hiểu gì. Mỗi phần trong bài làm chỉ gồm một câu duy nhất kéo dài, có khi đến năm trang giấy, không một dấu chấm, không một dấu phết.
Bạn bè thường khen tôi tận tâm với bài thi vì khi chấm thi, tôi cố gắng nhắc như mình không được bỏ sót một chữ nào trong bài thi vì mỗi chữ đều là một công sức trí tuệ của các em. Do đó, với bài thi nầy, tôi lặn ngụp trong một vũng lầy hay đúng hơn một sa mạc mênh mông đầy cát nóng bỏng, không một bóng cây, không một ốc đảo. Nỗi bực tức cứ tăng lên dần thành sự phẫn nộ.
Đến khi tôi thoát ra khỏi sa mạc đó, tôi không còn tự kềm chế được nữa. Tôi quất ngày hai con số không và đóng khung lại, mạnh tay cho đến đỗi gần rách giấy. Còn lý do để loại, tôi ghi vào: «Không viết được Việt ngữ, không xứng đáng đậu tú tài!».
Dĩ nhiên, đây chỉ là lý do thứ yếu. Tuy nhiên, lý do nầy không phải là bịa đặt, vì ngoài lỗi không chấm câu, thí sinh còn phạm vô số lỗi về chính tả và văn phạm trong bài thi.
Khi anh tổ trưởng kiểm tra lại, lúc đầu anh ngạc nhiên vì bài mười sáu trang mà bị loại. Nhưng chỉ cần nhìn trang đầu thôi, anh cũng không có can đảm đọc cho biết bài đúng hay sai. Anh liếc sơ mấy trang sau và nhanh chóng thông qua và ghi vào biên bản, hay đúng hơn, ghi vào bảng danh sách các bài bị loại và số mật mã của bài thi.
Đến đó là xong vì kỳ thi thường kéo dài, mọi người đều mệt mỏi, lại có hàng núi công việc phải giải quyết cho đúng quy chế để kết thúc hội đồng cho gọn gàng, nên một việc nhỏ mọn như thế thì chẳng ai quan tâm sau đó.
Người quan tâm duy nhất là tôi. Lúc đầu, tôi cũng hiu hiu tự đắc lắm vì nghĩ rằng đã chứng tỏ mình là người rất yêu tiếng Việt, rất tha thiết với ngôn ngữ của Tổ quốc mình.
Dần dần, tôi cảm thấy lờ mờ, có một cái gì đó có vẻ không ổn trong quyết định bất thần nầy. Dạo đó, bằng Tú tài rất quan trọng và có tính quyết định khá cao trong bước ngoặt của một đời người. Vì vậy xã hội còn quý bằng Tú tài lắm. Thì mới chỉ cách đây không lâu, khi tôi đậu Tú tài, cả làng đều biết mặc dù làng tôi cách Sài Gòn, nơi tôi sống, đến hơn một ngàn kí lô mét. Hè năm đó, khi đậu xong, cha tôi bảo tôi cùng về thăm làng. Cha tôi về trước tôi mấy hôm.
Ngày hôm tôi về, tối đến, có ba cụ lớn tuổi trong làng, áo dài khăn đóng, đến thăm, mang theo một cái gói to và nhẹ. Các cụ trịnh trọng đặt gói lên bàn và dở ra. Bên trong là một tấm hoành phi có tua vàng. Trên nền vải đỏ, có bốn chữ Hán viết kiểu đại tự màu hoàng kim rực rỡ. Hai cụ đứng hai đầu căng tấm hoành ra. Cha tôi đứng yên nghiêm giọng đọc to: «Tam đại khoa bảng» (ba đời thi đậu). Ông nội tôi đang ngự trên bàn thờ, cha tôi thì đứng đó một cách kính cẩn, còn tôi lặng người đi vì kinh hoảng.
Bà nội tôi lúc đó còn sống, sai dượng tôi và một người đàn ông nữa treo bức hoành phi lên trước bàn thờ ông nội tôi. Đôi mắt ươn ướt của bà nhìn người con trai trưởng rồi quay sang đứa cháu đích tôn. Không bao giờ, tuyệt đối không bao giờ tôi có đủ từ ngữ để mô tả đầy đủ cái nhìn đó, từ khuôn mặt già nua và phúc hậu của bà. Mãi mãi, tôi không quen khuôn mặt ấy vì đó là trọn vẹn quê hương ngà ngọc của tôi.
Nam 1965, bà mất, tôi về chịu tang. Tấm hoành phi còn treo giữa nhà, màu sắc đã bạc đi, không còn rực rỡ như xưa. Các năm sau đó, chiến tranh đi qua đi lại làng tôi mấy lần. Ngay lần đầu tiên, ngôi nhà từ đường cháy rụi. Dượng tôi bảo bức hoành phi cũng cháy theo rồi. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi cho rằng bà tôi đã trở về mang bức hoành phi đi, đến treo nơi chỗ ở của ông nội tôi, chỗ ở vĩnh viễn của hai ông bà, một chốn xinh đẹp mà Đức Phật Tổ dành riêng cho linh hồn của những người hiền lương.
Càng nhớ đến cái cảnh năm xưa đó, tôi càng thêm áy náy về con số 'zéro loại' mà mình đã cho. Chắc chắn thí sinh nọ đã rớt ở khóa đó rồi.
Có khi, tôi tự an ủi rằng, nếu tôi không loại thì nó cũng rớt vì các môn khác do chữ viết cua bò của nó. Lúc khác, tôi lại tự trách mình là nguyên nhân làm cho nó rớt và biết đâu nó là đứa học sinh nghèo mà cái bằng tú tài cần thiết cho việc kiếm sống của nó. Tôi cứ lẩn quẩn với nhiều câu hỏi trong đầu. Tại sao tôi lại cho zéro loại để đánh rớt nó? Quả thật, tôi có lòng yêu tiếng Việt từ thuở nhỏ, nhưng tôi có quyền nhân danh tình yêu tiếng Việt đến đánh rớt một thí sinh hay không? Rồi tôi lại tự an ủi: «Mỗi kỳ thì có hàng chục ngàn đứa rớt, loại một thí sinh thì có nghĩa gì đâu». Tuy nhiên, cho đến bây giờ, tôi không thể không nhớ đến thí sinh đó. Mặt mũi nó ra sao, tôi không hề biết, cho nên không thể bảo tôi thù oán nó. Và nó cũng chẳng hề biết nó rớt, có thể tại tôi, cho nên cũng chẳng có lòng oán thù tôi.
Sau khi kỳ thi đó chấm dứt, nhiều khi sự áy náy dâng cao, tôi thành tâm cầu mong thí sinh đó được đậu vào khóa sau. Cầu mong như thế để hi vọng giảm bớt sự cắn rứt của lương tâm mình.
Trong cuộc đời, thường ai cũng có ít nhất một lần lầm lỗi để mà hối hận. Đối với tôi thì việc đánh rớt thí sinh đó gây cho tôi sự hối hận kéo dài nhiều năm và cho đến bây giờ một chút dư âm của niềm hối hận xưa kia vẫn còn phảng phất trong lòng.
Để kết thúc câu chuyện buồn nầy, tôi xin nhắn nhủ đến các thầy cô trẻ tuổi rằng phải suy nghĩ hết sức cẩn thận mỗi khi đặt bút xuống để đánh giá học sinh của mình.