← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 2 SƯ PHỤ TÔI LÀ THẦY TƯỚNG SỐ TIẾNG TĂM LẪY LỪNG THỜI DÂN QUỐC

tập 1

CHƯƠNG 2

sư phụ tôi là thầy tướng số tiếng tăm lẫy lừng thời dân quốc

hi thể tiên đồng trôi ngược dòng

Tôi tên là Lưu Thiên Lượng. Mẹ nói tôi sinh ra vào lúc trời sắp sáng, do đó cha tôi đã đặt tên cho tôi là Thiên Lượng. Khi mới gia nhập Đường khẩu, mọi người đều gọi tôi là Lượng ngốc, sau này Tổ Gia nói: “Gia nhập Đường khẩu, là huynh đệ một nhà, từ nay về sau không được gọi là Lượng ngốc nữa.” Nhị Bá đầu hỏi: “Vậy gọi là gì?” Tổ Gia nhìn tôi một lượt rồi mỉm cười nói: “Đầu to như vậy, hãy gọi là Đại Đầu đi.” Từ đó về sau, mọi người đều gọi tôi với cái tên Đại Đầu. Nhị Bá đầu thường nói tôi rằng: “Đầu rất to, nhưng bên trong toàn bã đậu.” Có lúc Tổ Gia hỏi tôi: “Đại đầu, có hối hận khi đi theo ta không?” Kỳ thực, nhiều năm trở lại đây, tôi luôn suy nghĩ về vấn đề này, hối hận hay không hối hận? Rõ ràng Tổ Gia biết tôi không phải là người thích hợp làm A Bảo, nhưng ông vẫn cho tôi gia nhập Đường khẩu… Tôi vốn là một tên hầu bàn trong quán trà, nếu không phải Tổ Gia thường xuyên đến uống trà ở quán, tôi cũng sẽ không quen biết ông. Chỗ ngồi của Tổ Gia đều do tôi đặc biệt giữ trước. Trước khi ông đến, tôi đều lau bàn ghế sạch bóng. Ông làm rơi quạt, tôi liền nhặt lên giúp. Ông làm rơi tiền, tôi đều nhặt lấy rồi đuổi theo trả lại. Dần dần, Tổ Gia không còn xem tôi là người ngoài, mỗi lần đến uống trà, đều cao giọng gọi: “Lượng ngốc, cho lão gia ấm trà Long Tỉnh!”

Tôi vui vẻ đáp lời: “Có ngay đây!”

Con người tôi có phần đẫy đà, dáng vẻ ngây ngây ngô ngô nên người trong quán trà đều gọi tôi là Lượng ngốc. Thực ra, ngốc hay không, trong lòng tôi là người rõ nhất, chúng ta đều là dân đen bách tính, rơi vào thời loạn thế binh đao, ngốc nghếch một chút cũng chẳng thiệt thòi gì.

Một lần Tổ Gia đến uống trà, hỏi tôi: “Lượng ngốc, gia đình ngươi có mấy người?”

Tôi đáp: “Thưa Tổ Gia, nhà chỉ có một mẹ già, năm ngoái mắc bệnh đã qua đời. Một em gái đã lấy chồng phương xa. Trong nhà chỉ còn mỗi mình con.”

Tổ Gia lại hỏi: “Vậy làm việc ở đây, một năm ngươi được bao nhiêu?”

Tôi cười nói: “Thưa ông, con chẳng có bản lĩnh gì, chỉ biết chạy đi chạy lại. Nhờ ơn của ông chủ quán trà, cho chúng con có miếng cơm ăn là tốt lắm rồi, đâu dám đòi thêm tiền chứ.”

Tổ Gia trầm ngâm một lát rồi bảo: “Sau khi đóng cửa hiệu, ngươi đến nơi này tìm ta, lão gia ta có điều muốn nói với ngươi.” Sau đó đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ có viết địa chỉ. Tôi may mắn học được ít chữ, không đến nỗi là kẻ mù chữ.

Sau khi quán trà đóng cửa, tôi cầm mảnh giấy, theo địa chỉ ghi trên đó, tìm đến chỗ của Tổ Gia. Trên đường đi, tôi hồi hộp đến nỗi tim đập thình thịch. Tôi không hiểu vị lão gia này tìm mình có việc gì, nhưng trực giác bảo với tôi rằng, chắc chắn không phải là việc xấu.

Đi qua mấy chỗ ngoặt, cuối cùng cũng đến được nơi ở của Tổ Gia, đó là một trang viên rất lớn. Cổng chính quay về hướng Nam, bước qua cổng thì gặp một cây táo to, giữa hành lang có một cái ang nước lớn, hai phía đông tây mỗi phía có một gian nhà kề, đi tiếp vào trong là sảnh chính. Đây chính là Đường khẩu, ở giữa có treo một bức Bát mặc tiên nhân đồ phỏng theo trường phái thời Tống, hai bên là hai câu đối, vế trước là: Nhân giả nhân tâm nhân nghĩa sự; vế sau là: Bảo hòa bảo thiện bảo thái bình.13 Sau này tôi mới được biết, câu đối này do Tổ Gia đích thân viết.

Khi tôi đến, Tổ Gia đang bàn việc với một nhóm chừng sáu bảy người. Tôi vừa đến, cũng đúng lúc cuộc họp kết thúc. Một vị quản gia dẫn tôi đến, Tổ Gia phẩy tay một cái, mọi người đều đi ra ngoài hết.

Tổ Gia dẫn tôi vào thư phòng, nói: “Lượng ngốc, ngồi đi, Tổ Gia ta có điều muốn nói với ngươi.” Ông lại dặn người dưới dâng trà lên.

Tôi chỉ là một chân chạy bàn, bình thường đều quen thói người khác ngồi, tôi đứng. Người khác uống trà, tôi nhìn. Tổ Gia bảo tôi ngồi khiến tôi lúng túng không biết đặt mông vào đâu.

Tổ Gia thấy tôi mặt mày căng thẳng thì cười nói: “Đừng nhút nhát thế! Ngồi xuống, ngồi xuống đi!”

Tôi dè dặt ngồi xuống. Một lát sau, một lão gia nhân khoảng 50 tuổi bê lên một bình trà, rót đầy hai chén, rồi đưa một chén lên nói: “Mời lão gia dùng trà”. Sau đó đưa cho tôi một chén, tôi vội vàng đứng dậy, lúng túng đón lấy chén trà. Tổ Gia lại mỉm cười: “Ngồi xuống, ngồi xuống! Hôm nay ngươi là khách của ta.”

Tôi cảm thấy các thớ thịt trên mặt mình căng ra, ngượng nghịu cười nói: “Tạ ơn lão gia, tạ ơn lão gia.” Bởi trà vẫn nóng nên khi nhấp một ngụm tôi suýt bỏng miệng, khiến Tổ Gia và lão gia nhân bật cười ha hả.

Tổ Gia nói với lão gia nhân: “Lui xuống đi.” Lão gia nhân nhìn tôi một cái rồi đi ra.

Trong phòng chỉ còn lại tôi và Tổ Gia. Tôi lúng túng xoay xoay chén trà trong lòng bàn tay, không biết phải nói gì.

Tổ Gia nhấp một ngụm trà, thủng thẳng hỏi: “Lượng ngốc, ngươi tính cả đời này làm tên hầu bàn sao?”

Tôi trả lời: “Lão gia, con chẳng có chút bản lĩnh gì, chỉ có thể làm chân chạy bàn. Kiếm được miếng ăn là quá tốt rồi.”

Tổ Gia nói: “Ngươi luôn miệng gọi ta là lão gia... lão gia. Bản thân ngươi đã bao giờ nghĩ đến một ngày nào đó, mình sẽ làm lão gia không?”

Câu nói này khiến tôi suýt đánh rơi chén trà xuống đất, vội vàng nói: “Lão gia, ông nói gì vậy? Con đời này chỉ là kẻ đi hầu hạ những người như ông. Phận con hèn, nào có phúc phận làm ông nọ bà kia.”

Tổ Gia sa sầm mặt nói: “Ngươi đúng là kẻ không có khí phách.”

Tôi ngẩn người. Đây đâu phải là việc có khí phách hay không. Ai chẳng muốn làm ông chủ để người khác hầu hạ, nhưng vấn đề ở chỗ phải có bản lĩnh. Tôi cúi đầu im lặng.

Tổ Gia thở dài một tiếng, nói: “Lượng ngốc, ngươi biết không, ta trước đây còn không bằng nhà ngươi nữa kia.”

“Ồ?” Tôi ngẩng đầu lên, không hiểu ý của ông là gì.

Tổ Gia nói: “Ngươi đi theo ta.”

Tổ Gia quay người đi, tôi lập tức theo sau, ra khỏi chính đường, sau đó sang gian nhà phía tây. Vừa vào đến cửa, tôi giật mình sợ hãi. Trong phòng đều là bài vị của người đã khuất. Tôi nhìn thật kỹ, có Tiên khảo từ phụ đại nhân, Tiên tỉ từ mẫu đại nhân, còn có huynh trưởng, tiểu muội, tiểu đệ... Tôi mơ mơ hồ hồ, ngây người ra nhìn Tổ Gia.

Tổ Gia thắp một nén nhang, cắm vào bát hương, rồi chậm rãi kể chuyện xa xưa.

Tổ tiên của Tổ Gia từng là thành viên của Thiên Địa hội, cuối thời nhà Thanh có tham gia quân Thái Bình14, đến đời cha của ông, cuộc sống vẫn rất khá giả. Sau Cách mạng Tân Hợi (năm 1911), cha ông giữ chức vụ quan trọng trong Chính phủ Quốc Dân, sau đó còn tham gia “Phong trào bảo vệ Hiến pháp”15. Do ủng hộ bảo vệ Hiến pháp bằng bạo lực do Tôn Trung Sơn khởi xướng và dẫn dắt, ông bị Quốc dân Đảng thủ tiêu nhằm nhổ cỏ nhổ tận gốc. Vào một đêm, có mấy tên đao phủ xông vào nhà Tổ Gia, giết chết cả nhà từ bé đến lớn, không trừ một ai.

Ông bà nội Tổ Gia bị chúng đâm chết không kịp kêu một tiếng, mẹ và anh trai ông liều mạng chống lại mấy tên sát thủ. Bà bị đâm mấy nhát vào bụng, xổ cả ruột gan ra ngoài, bò trên mặt đất, gắng chút hơi tàn ôm chặt chân một tên sát thủ, hét to với Tổ Gia: “Mau đưa em trai và em gái chạy đi!” Tổ Gia hoảng sợ đưa hai em chạy liền một mạch mười mấy dặm trong đêm mới dám dừng lại. Sau đó, ba anh em ôm chặt lấy nhau mà khóc.

Năm đó, Tổ Gia 15 tuổi, em trai 10 tuổi, em gái 8 tuổi còn anh trai bị giết chết 18 tuổi. Từ đó, ba anh em may mắn thoát khỏi tai họa, lưu lạc đầu đường xó chợ, ăn xin sống qua ngày.

Một hôm, đang ăn xin trên phố thì phía trước có mấy người đi đến. Trong đó, một người đeo kính đen cho ba anh em mấy chiếc bánh nướng rồi nói: “Bé con, ta có chút việc vặt, các ngươi làm giúp ta, làm xong ta cho các ngươi tiền.”

Tổ Gia nhìn bọn họ, rồi quay sang nhìn hai đứa em đang đói lả, rồi hỏi: “Việc gì?”

Người đó nói: “Rửa bát, lau bàn ghế, không có gì nặng nhọc cả.”

Tổ Gia nghĩ ngợi một lát, nói: “Được. Ở đâu vậy?”

Người đó trả lời: “Gần đây thôi, đi theo chúng ta.”

Kể đến đây, mắt Tổ Gia ngân ngấn đỏ, thở dài rồi nói: “Nếu… ta có thể quay lại thời điểm bấy giờ, ta thà để em trai và em gái chết đói, chứ không đưa chúng đi đến nơi đó.”

Mấy kẻ đó hết rẽ trái rồi lại rẽ phải, dẫn ba anh em Tổ Gia đến một căn nhà cũ nát không có người ở. Vừa bước qua cửa, ba anh em Tổ Gia bị đám người đó dùng khăn tay bịt vào mũi, sau đó thì không biết gì nữa.

Hóa ra, đây là mấy tên A Bảo ở vùng này. Bọn chúng vì muốn dàn cục, mà không từ cả việc gây nên vụ án mạng mất hết nhân tính. Năm đó, nơi này bị hạn hán, hoa màu đều sắp chết héo cả. Bọn A Bảo tung tin đồn nhảm, rằng đây là ác quả mà người nơi này phải gánh chịu do không làm việc thiện. Gần đây xuất hiện “Tiên đồng báo mộng”, khi ngủ mọi người phải thật chú ý. Hơn nữa Nhị vị tiên đồng hòa hợp sẽ chọn ngày lành tháng tốt hiển hiện nhục thân trên sông, tức ở giữa sông sẽ xuất hiện “Thi thể trôi ngược dòng”, để báo hiệu cho thế nhân biết.

Bọn A Bảo sau khi tung tin đồn này ra, liền bắt đầu tỏa đi khắp nơi tìm kiếm người thế mạng. Bọn chúng không dám đụng vào những đứa trẻ con ở vùng này. Đúng lúc chúng gặp ba đứa nhóc ăn mày, những đứa trẻ lang thang này có chết cũng chẳng ai tìm kiếm. Thế là chúng dùng mê hồn tán đánh thuốc mê ba anh em Tổ Gia. Vì em trai và em gái của Tổ Gia tuổi xấp xỉ nhau, vóc người cũng không chênh lệch là mấy nên chúng nhẫn tâm xuống tay giết chết chúng. Sau đó chúng cho hai thi thể mặc y phục xanh đỏ, đóng giả làm “Nhị vị Tiên đồng hòa hợp”, rồi buộc lên lưng thi thể một mảng bè trúc, thả xuống nước, bên dưới mảng bè có một sợi dây dài, kéo thẳng lên tận phía thượng nguồn. Trưa hôm sau, hai tên A Bảo ở trên thượng nguồn chầm chậm kéo sợi dây, những tên A Bảo khác đứng bên bờ sông phối hợp, thu hút rất nhiều người vây đến xem.

Do đây là một con sông lớn, khoảng cách lại khá xa nên không ai có thể nhìn rõ được mánh khóe này. Hai thi thể đồng nam đồng nữ bị kéo trôi ngược về phía thượng nguồn, bọn A Bảo trên bờ hô to: “Thi thể trôi ngược dòng! Thi thể trôi ngược dòng!” Khi thấy người kéo đến bên bờ sông đủ đông rồi, bọn A Bảo liền cho người bơi ra, kín đáo cắt sợi dây, đem hai thi thể lên bờ.

Bọn A Bảo nói, hai thi thể Tiên đồng này chính là hóa thân của “Nhị tiên hòa hợp”, đã nhiều lần báo mộng cho mọi người. Giờ đây là các ngài hiện thân thuyết pháp, mọi người nhất định phải làm thật nhiều việc thiện.

Lúc này, người dân nơi đây tuyệt đối tin vào lời của bọn A Bảo. Bọn chúng đem hai thi thể đi hỏa thiêu, lấy tro cốt trộn với bùn, nặn thành hai pho tượng, cung tiến vào một ngôi miếu. Từ đó người dân địa phương ào ào tới thắp hương, dâng tiền, đặt lễ bái vọng, bọn A Bảo nơi đây nhờ đó cũng đã kiếm được một khoản lớn.

Do Tổ Gia vóc dáng đã lớn, không có tác dụng cho việc dàn cục nên sau khi bị đánh thuốc mê, bọn chúng dùng dây thừng trói chặt lại. Chúng cho rằng Tổ Gia đã bị trói thít chặt chết nên ném cậu ra phía sau núi cho sói ăn thịt. May mắn thay, đêm hôm đó, một trận mưa lớn đổ xuống, sói không ra khỏi hang nên Tổ Gia thoát chết một cách kỳ diệu.

Sau khi tỉnh lại, không tìm thấy em trai và em gái đâu. Bản thân cậu cũng không biết mình đang ở nơi nào. Cậu điên cuồng gào thét gọi hai em mình trong đêm mưa.

Gọi đến khản cả giọng, lạc cả tiếng, nhưng đều bị tiếng mưa ào ào, tiếng sấm ầm ầm át đi tất cả. Đứng dưới cơn mưa, Tổ Gia khóc một cách tuyệt vọng.

Sau khi trời sáng, Tổ Gia tìm đường quay về thành. Sợ gặp phải mấy người bọn chúng lần nữa, cậu liền ăn trộm mấy bộ quần áo của một gia đình bên ngoài thành, cải trang thành một đứa trẻ con nhà tử tế. Vừa vào trong thành, Tổ Gia nghe người dân bàn tán về sự việc “Thi thể Tiên đồng trôi ngược dòng”, một dự cảm bất an chạy dọc toàn thân. Cậu theo đoàn người chạy ra bờ sông, lúc này mấy tên A Bảo đã vớt thi thể từ dưới sông lên. Thoạt nhìn, cậu đã nhận ra đó là hai em của mình. Lòng như bị ngàn mũi dao đâm, đau đớn suýt nữa thì ngất đi.

Tổ Gia hận không thể chạy đến cắn chết mấy tên A Bảo đó, cậu muốn nhào ra ôm lấy thi thể hai em mà khóc, nhưng đã kịp kiềm chế lại. Tim cậu tuy vỡ nát, nhưng ý thức vẫn còn tỉnh táo. Phải báo thù, nhưng trước tiên cần nhẫn nhịn, nếu không sẽ chỉ có con đường chết. Đây là việc mà người bình thường khó có thể làm được nhưng khi đó Tổ Gia mới 15 tuổi đã làm được điều này. Vì vậy nên sau này, ông được mọi người gọi là Tổ Gia.

Nhìn thi thể hai em bị thiêu cháy, ngửi thấy mùi thịt cháy của hai em, cậu nghiến răng căm hận đến mức cắn nát cả môi. Đứng lặng nhìn tất cả sự việc đang diễn ra, mắt hằn lên những tia máu hận thù.

Đột nhiên, một tên A Bảo nhìn thấy Tổ Gia, bèn đảo mắt ra hiệu cho mấy tên khác. Hai tên đó liền đi về phía cậu. Thoạt nhìn liền biết sự việc không ổn, Tổ Gia quay đầu chạy thục mạng. Hai tên A Bảo đuổi sát theo sau, nhưng thoắt một cái đã không thấy đâu nữa. Cậu đã nhanh chân chui vào một cái ngách để trốn.

Sau khi mặt trời lặn, Tổ Gia quay trở lại bờ sông. Lúc này, đám đông đã giải tán hết. Cậu khóc rống lên đầy bi ai. Trong vòng không đầy một tháng, nhà tan cửa nát, người thân phải chịu cảnh chết thảm là điều mà đến trong mơ ông cũng không thể nghĩ rằng bất hạnh lại liên tiếp nhau rơi xuống đầu mình như vậy. Lần đầu tiên trong đời, Tổ Gia nghĩ đến tự sát. Chết là hết, mọi đau khổ sẽ tiêu tan. Nhưng nghĩ đến tiếng hét của mẹ khi bị phanh thây, ánh mắt bơ vơ thất thần của em trai, em gái, cậu luôn tự nhắc nhở bản thân: “Không được chết! Chết rồi là chấm hết. Ta phải báo thù. Phải báo thù!”

Một thời gian sau, Tổ Gia vừa lén lút ăn xin, vừa tìm kiếm tung tích của mấy tên A Bảo đó, cậu vẫn cải trang thành một đứa trẻ con nhà tử tế, lặng lẽ đi theo sau những lão bà, hệt như một đứa cháu ngoan đưa bà đi dâng hương trong ngôi miếu đó vậy. Nhìn tượng đất được nặn từ tro cốt của hai em mình trên hương án, Tổ Gia nén đau khổ, vừa thắp hương, vừa thầm nói trong lòng: “Hai em hãy yên tâm, anh nhất định sẽ báo thù.”

Tổ Gia biết rằng, người canh miếu này thông đồng với bọn A Bảo, nên không dám lưu lại lâu. Thắp hương xong, liền chạy về luôn. Trước tiên, Tổ Gia phải tìm được mấy tên A Bảo đó, sau đó tìm cách xử bọn chúng. Cậu theo dõi bên ngoài ngôi miếu mấy ngày liền, nhưng không hề tìm thấy chút manh mối nào. Bỗng nhiên, cậu nhớ đến ngôi nhà nát đó, nơi mình và hai người em bị đánh thuốc mê. Vốn là người có trí nhớ rất tốt nên Tổ Gia vẫn nhớ rõ đường đi đến đó. Cậu liền lên kế hoạch quay lại, không biết chừng lại có thể tìm ra được chút manh mối nào đó. Sau khi ăn xong, đến nửa đêm, cậu lần mò tìm đường quay lại.

Đó là một ngôi nhà kiểu tứ hợp viện16 cũ ở ngoại ô, tường có nhiều chỗ bị sụt lún xuống. Tổ Gia bò bên ngoài tường nghe ngóng, không hề có động tĩnh gì cả. Cậu giả vài tiếng chó sủa, vẫn không thấy động tĩnh, liền vượt tường vào trong.

Bên trong là một màn tối đen đặc quánh. Tổ Gia lần mò một hồi và phát hiện ngoại trừ một vài thứ đồ dùng đã cũ nát, còn lại chẳng có gì cả. Cậu định đêm nay ngủ lại đây, trời sáng sẽ ra ngoài nấp trong đống cỏ khô cách không xa ngôi nhà. Đột nhiên có tiếng bước chân vội vã vọng lại, Tổ Gia giật mình, tim đập thình thịch. Bước chân ngày một tiến gần hơn, cậu vội vàng chạy ra ngoài, nhưng lại vấp phải vật gì đó, toàn thân lảo đảo suýt ngã.

Nhờ có ánh trăng, Tổ Gia nhận ra đó là một que cời lò dài, được làm bằng thép, to khoảng bằng ngón tay, dùng để khơi thông đáy bếp lò. Một đầu được gắn cán cầm bằng gỗ, đầu còn lại được mài nhọn. Tổ Gia liền nhặt lấy, rồi vượt tường nhảy ra ngoài. Lúc này, cửa chính bị mấy người bật mở tung, Tổ Gia nấp sau tường nhìn vào, chỉ thấy có mấy người khiêng hai chiếc hòm đi vào, trong hòm dường như có tiếng người kêu khẽ.

Mấy người đó khiêng hai chiếc hòm vào trong phòng. Một người trong đó lấy đá ra đánh lửa, thắp đèn. Ánh đèn lờ mờ rồi dần chiếu sáng cả căn phòng, Tổ Gia nhìn thấy rõ mặt của những người này. Trong đó, có hai tên A Bảo đã lừa ba anh em Tổ Gia đến ngôi nhà này hôm đó. Lúc này, tên thủ lĩnh nói với hai tên A Bảo kia: “Đêm nay hai ngươi canh giữ ở đây, chớ có rượu chè. Hãy cẩn thận! Nếu để chạy mất hai người trong hòm, Tứ gia ta sẽ lấy mạng các ngươi.”

Hai tên A Bảo vội vàng nói: “Nhị ca yên tâm. Nhị ca yên tâm.” Sau đó, tên thủ lĩnh dẫn những tên A Bảo khác nghênh ngang bỏ đi. Hai tên ở lại liền lấy ra một bình rượu to, ngồi bệt xuống đất, đồng thời móc từ trong áo ra một bọc thịt, vừa ăn vừa nói chuyện.

Mắt Tổ Gia dán chặt vào hai tên A Bảo đó, trong lòng chợt nghĩ: “Ta nhất định sẽ giết chết chúng.”

Nhưng trong lòng Tổ Gia biết rất rõ, lúc này, nếu xông bừa ra, chắc chắn sẽ không thể đánh lại được hai tên to con này, nên cần phải đợi cơ hội, đợi đến khi chúng uống kha khá, say ngất nga ngất ngư, khi đó mới động thủ.

Tổ Gia ngồi bất động dán mắt vào chúng chừng hơn một canh giờ. Cậu thấy rượu cũng sắp cạn, lưỡi chúng cũng líu hết cả lại thì mới cầm thanh cời lò lên, chầm chậm từ ngoài trèo vào rồi nhẹ nhàng đi về hướng căn phòng. Khi đến giữa sân, một tên đột nhiên đứng dậy khiến Tổ Gia hoảng sợ, vội vàng chạy nấp sau gốc cây thạch lựu. Tên A Bảo đó lắc la lắc lư cũng đi về hướng đó, miệng lẩm bẩm: “Xả một bãi… tiểu một bãi nào…”

Tên đó đến bên cây thạch lựu, vạch quần, ưỡn bụng, vừa tiểu vừa hát: “Cô nhi quả phụ lên gò đất, mưa phùn rả rích a…”

Tổ Gia nấp sau gốc gây, bị nước tiểu xuyên qua lá cây bắn đầy vào mặt. Tổ Gia vốn định đợi hắn ta đi tiểu xong quay lưng đi, sẽ ra tay từ sau lưng. Nhưng tên này đi tiểu quá lâu, nước tiểu bắn đầy mặt Tổ Gia khiến ông điên tiết, không nhẫn nhịn được nữa, cầm thanh cời lò, đâm thẳng vào bụng dưới của hắn. Tổ Gia dùng hết sức bình sinh, đâm đúng vào bàng quang, vòi phun nước của hắn lập tức tịt ngóm. Bụng dưới của hắn thủng một lỗ, nước tiểu và máu đều phun ra cả từ cái lỗ ấy.

Tên tiểu tử đó kêu một tiếng “A” thảm thiết, hai tay ôm phần bụng dưới, nằm lăn lộn dưới đất. Tổ Gia liền đứng phắt dậy, đâm tiếp thanh cời lò xuyên qua yết hầu của hắn, máu phun ra. Tên tiểu tử đó muốn kêu, cũng không thể kêu được thành tiếng, một lát sau nằm im bất động.

Tên A Bảo kia nghe thấy có tiếng động bên ngoài, vội vàng từ trong phòng cất giọng nhừa nhựa hỏi vọng ra: “Chuyện gì… chuyện gì vậy? Mẹ kiếp nhà ngươi chớ… chớ có dọa ta nhé!”

Tổ Gia nhanh như cắt xông vào, tung một gối khiến đối phương ngã bổ chửng. Còn chưa kịp phản ứng xem chuyện gì xảy ra, hắn đã bị thanh cời lò đâm thẳng vào yết hầu. Cú đâm này còn mạnh hơn lần trước, thanh cời lò đâm thẳng từ trước xuyên ra sau cổ. Tên tiểu tử đó giãy giãy mấy cái, rồi cũng nằm bất động.

XẢ THÂN CỨU KẺ THÙ

Tổ Gia bước lại gần chiếc hòm được đóng bằng gỗ dày, cậu dùng thanh cời lò đâm vào mép gỗ trên nắp, nạy thật mạnh mở tung được chiếc hòm. Bên trong có hai người bị trói chặt. Những kẻ bắt cóc có kỹ thuật trói rất đặc biệt. Hai tay, hai chân bị trói lại với nhau, một sợi dây thừng ở giữa trói tay chân chụm lại. Như vậy cả thân người bị trói cuộn tròn giống như con tôm vậy, nằm trong hòm không thể cựa quậy gì được.

Tổ Gia móc nắm giẻ trong miệng hai người này ra. Sau một hồi ho sặc sụa, họ mới cất được lời cảm ơn rối rít: “Cám ơn cậu em đã cứu mạng!” Nhờ có ánh đèn, Tổ Gia nhìn thấy rõ hai người này. Đó là một người khoảng 50 tuổi, dưới cằm có một chòm râu dê. Còn người kia khoảng 60, 70 tuổi, trên mặt đầy những nếp nhăn, nhưng tuyệt nhiên không có sợi râu nào.

Tổ Gia liền cởi trói giúp họ, nhưng nút thắt rất chặt, dù dùng răng cắn cũng không sao mở được. Cuối cùng người lớn tuổi hơn nói: “Cậu em, cậu hãy mở chao đèn ra, sau đó dùng đèn đốt dây trói.”

Tổ Gia vỗ tay lên trán một cái rồi nói: “Đúng rồi! Sao mình lại không nghĩ ra nhỉ?” Nói xong vội vàng lấy chiếc đèn xuống, cùng với sự phối hợp của hai người đó, dây trói nhanh chóng bị đốt cháy đứt rời ra. Bỗng một cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng Tổ Gia. Giọng của ông già này tại sao không giống với người bình thường chút nào? Hơn nữa nó lại mang âm điệu vô cùng kỳ quái như vậy?

Lúc này người khoảng 50 tuổi nói: “Cậu em, xin hỏi cậu là người ở đâu đến vậy? Tại sao lại đến đây cứu chúng ta?”

Câu hỏi của ông ta khiến Tổ Gia ngây người, cậu nghĩ: mình vốn đi tìm manh mối kẻ thù, không ngờ lại cứu được hai người này, biết nói thế nào đây? Hay là nói thật với họ? Không được! Chưa biết chừng chúng cùng một bọn, không khéo lại chuốc thêm phiền phức!

Những biến cố đã tác động rất lớn đến Tổ Gia khiến cậu không còn tin tưởng vào bất kỳ ai nữa. Tổ Gia cười nói: “Tôi… thực chất là một kẻ phiêu bạt giang hồ, năm ngoái vì chuyện nộp địa tô mà gia đình tôi có xung đột với bọn địa bảo17. Trong lúc tức giận, tôi đã đánh lại hai tên địa bảo tâm địa xấu xa, từ đó phải rời bỏ quê quán, lang thang phiêu bạt chân trời góc biển. Đúng lúc ngang qua đây, tôi nhìn thấy mấy người khiêng chiếc hòm đi vào ngôi nhà này. Ngờ có chuyện chẳng lành, tôi liền bám theo. Quả nhiên, tôi thấy trong hòm có tiếng người kêu khẽ, lại nghe được cuộc trò chuyện của hai kẻ bắt cóc xấu xa. Con người tôi thích can thiệp vào những chuyện bất bình, huống hồ Cứu một mạng người còn hơn xây bảy tòa tháp. Vì không nhẫn nhịn được nên tôi đành mạo hiểm xông vào cứu các ông. Kỳ thực cũng chẳng có gì to tát cả, giữa đường gặp chuyện bất bình rút dao tương trợ, anh hùng hảo hán trên giang hồ đều làm như vậy cả.”

Hai người đó sau khi nghe xong, đưa mắt nhìn nhau, một lúc lâu mới nói: “Cậu em, cậu còn trẻ mà đã có lòng dũng cảm và có tâm trượng nghĩa như vậy. Thật bội phục!”

Người khoảng 50 tuổi chắp tay lại nói: “Ta là Chu Chấn Long.” Sau đó chỉ vào người kia nói: “Vị này là sư phụ của ta, Trương Đan Thành. Xin hỏi cậu em quý tính đại danh là gì?”

Tổ Gia chắp tay lại đáp lễ: “Không dám. Tôi họ Vương, tên Nhất Hành, lấy ý là chuyên tâm tu hành.”

Trương Đan Thành gật gù: “Chà. Tên rất hay, tên rất hay.”

Lại một lần nữa Tổ Gia dựng tóc gáy, nổi da gà. Giọng nói của lão già này quả thật vô cùng đặc biệt, âm điệu the thé, giống như dê kêu, khiến cho người nghe toàn thân toát mồ hôi lạnh.

Thực chất, Tổ Gia đang nói dối. Từ sau khi cha đắc tội với bọn quân phiệt mà gặp họa diệt môn, cậu cũng không dám để lộ tên thật của mình. Vừa rồi là nghĩ bừa ra một cái tên, ý nghĩa cũng chỉ có Tổ Gia mới hiểu: Nhất Hành, tức một người cô độc lẻ loi đi trên đường đời.

Chu Chấn Long nói: “Nơi này không thể ở lại lâu, chúng ta đi tìm chỗ khác nói chuyện.”

Tổ Gia vốn không muốn đi theo bọn họ, nhưng lại nghĩ hai người này chắc chắn có khúc mắc gì đó với mấy tên khốn kiếp kia, có hai khả năng, hoặc họ là kẻ thù, hoặc là đồng bọn. Tóm lại là có quan hệ với nhau. Tại sao không nhân cơ hội này thăm dò một chút? Hôm đó, ở trên phố, tổng cộng là có ba tên giăng bẫy lừa anh em Tổ Gia, hiện nay hai tên đã chết, còn một tên đeo kính vẫn chưa thấy đâu cả.

Dưới ánh trăng vằng vặc, ba người liền nhanh chóng rời khỏi căn nhà đó. Đi qua một con sông nhỏ, xuyên qua mấy ngõ hẻm, đến trước một ngôi nhà, Chu Chấn Long lấy ra một chùm chìa khóa mở cửa, lúc này trời đã tờ mờ sáng. Sau khi ba người vào nhà, Chu Chấn Long không vồn vã mời mọi người ngồi, mà đi đến bên chiếc giường đất, lật chiếu lên, để lộ ra bên dưới là một tấm gỗ, rồi lật tiếp tấm gỗ lên. Đó là một cái hầm, có thang để đi xuống. Chu Chấn Long nói với Trương Đan Thành: “Sư phụ! Chúng ta xuống hầm đi.”

Trương Đan Thành gật đầu, Chu Chấn Long đỡ ông ta đi xuống. Sau đó quay lạ nói với Tổ Gia: “Vương lão đệ! Mời!”

Tổ Gia sửng sốt nhìn căn hầm lớn bên dưới chiếc giường đất, ngây người đắn đo một lúc rồi cúi người đi xuống. Chu Chấn Long là người xuống cuối cùng. Ông ta với tay kéo tấm gỗ lại vị trí cũ che cửa hầm lại.

Sau khi Chu Chấn Long thắp đèn dầu lên, Tổ Gia mới nhìn rõ cảnh vật xung quanh. Căn hầm được thiết kế có bốn trụ đỡ, ở giữa có đặt một bàn trà nhỏ, bên phải có một cái lỗ đen chạy sâu vào trong, không biết là thông đến nơi nào.

Sau khi ba người ngồi xuống, Trương Đan Thành bắt đầu mở lời vẫn bằng cái giọng âm u đó: “Ơn cứu mạng của cậu Vương đây, lão không biết phải đền đáp thế nào. Đại Bá đầu à, lát nữa ngươi lấy một chút vàng bạc. Mong cậu Vương vui vẻ nhận cho.”

Chu Chấn Long nói: “Vâng!”

Đây là lần đầu tiên Tổ Gia nghe thấy hai từ “Bá đầu”. Trong lòng Tổ Gia lúc này chỉ quan tâm đến việc tìm manh mối và báo thù. Bản thân cậu vốn nghĩ rằng có thể moi được chút tin tức từ hai người này nên không quá để tâm đến vàng bạc, liền nói: “Đại trượng phu sống trong thiên hạ, luôn đối đãi chân thành với nhau. Trương tiên sinh làm như vậy, tức là xem thường tôi rồi.”

Trương Đan Thành và Chu Chấn Long lại quay ra nhìn nhau, bọn họ bị cậu bé trước mặt làm cho choáng váng. “Vậy… cậu… bọn ta phải báo đáp người anh em thế nào đây?”

Tổ Gia mỉm cười nói: “Tôi có thể gặp được hai vị tiên sinh đây, cũng coi như có duyên phận. Nói cách khác, số mạng của hai vị chưa đến hồi tuyệt, người tốt tất sẽ được trời giúp để tai qua nạn khỏi. Tôi chỉ là kẻ đóng vai người cứu mạng, hai vị tiên sinh muốn cảm tạ, hãy cảm tạ ông trời đi.”

Hai người ngây ra, rồi bật cười ha hả, cười đến nỗi chảy cả nước mắt, họ cảm thấy tên tiểu tử đang ngồi trước mặt thật đáng yêu.

Tiếng cười the thé, mảnh như sợi tơ đó lại khiến Tổ Gia nổi hết cả da gà.

Ông không đợi được nữa, nói: “Hai vị tiên sinh nguyên cớ làm sao lại bị bọn trộm cướp đó bắt trói vậy? Lẽ nào đã đắc tội gì với bọn chúng?”

Hai thầy trò Chu Chấn Long cười như đưa đám, Chu Chấn Long nói: “Hưởng hương rồi!”

Tổ Gia không hiểu: “Cái gì hương cơ?”

Chu Chấn Long nhìn Trương Đan Thành, ý muốn hỏi có nên nói tiếp hay không. Trương Đan Thành gật gật đầu rồi nói: “Cậu Vương là ân nhân cứu mạng, hai mạng của chúng ta nhờ cậu ta mà giữ lại được. Nói-đi-đừng-ngại!”

Âm thanh bốn chữ cuối Trương Đan Thành kéo dài ra. Tổ Gia nhíu mày. Cái giọng nói như từ chốn âm linh vọng lại này quả thật chói tai khiến cậu chỉ muốn bịt tai lại.

Trương Đan Thành phát hiện ra sự khó chịu của Tổ Gia, mỉm cười nói: “Cậu em, phải chăng cậu ghét giọng ta nói khó nghe? Người không ra người, quỷ không ra quỷ?”

Tổ Gia chợt thấy mình phản ứng quá lộ liễu, cười xòa nói: “Không phải, không phải. Chỉ là tiểu nhân nghe không quen.”

Trương Đan Thành nói: “Cậu là ân nhân cứu mạng của ta, nếu đổi là người khác, ta đã cho một vả vào miệng rồi! Hừ.” Trầm ngâm một lát, rồi ông ta hỏi: “Cậu em, cậu biết vì sao giọng nói của ta u ám, nam không ra nam, nữ không ra nữ không?”

Tổ Gia trả lời: “Không biết.”

Trương Đan Thành nói: “Vì ta là quả trứng thối.”

Tổ Gia nghe mà thấy như sấm nổ bên tai, “quả trứng thối” là lời nói dùng để mắng chửi của người nơi này. Vị lão tiên sinh này tại sao lại nói bản thân mình như vậy?

Theo lời kể của Trương Đan Thành, Tổ Gia mới dần hiểu được ngọn ngành. Hóa ra họ là một phường lừa đảo, được gọi là phái Giang Tướng. Trương Đan Thành là ông trùm ở vùng này, cũng chính là Đại Sư bá. Trước đây vì một cuộc dàn cục lớn để lừa một vị Bối lặc trong cung, Trương Đan Thành đã phải mất ba năm liền để bố trí. Vị Bối lặc đó luôn coi ông ta là bằng hữu nên không hề đề phòng. Đến khi thu lưới, có kẻ tham lam, tạo phản, kết quả bị lộ cục. Sau khi vị Bối lặc kia bắt được, Trương Đan Thành tưởng rằng đã cầm chắc cái chết. Không ngờ vị Bối lặc đó niệm tình cũ, nói: “Tội chết có thể miễn, nhưng tội sống thì không thể tha. Cái gan của ngươi to như vậy, Bối lặc ta sẽ dập tắt cái nhuệ khí đó của ngươi.”

Kết quả Trương Đan Thành bị mấy tên lính đè nghiến xuống. Một tên tiểu thái giám dùng một con dao sắc cắt phăng một quả ngọc hành18 của ông ta, khi đó máu chảy lênh láng, đau đớn vô cùng. Từ đó Trương Đan Thành biến thành kẻ “một quả trứng” theo đúng nghĩa của nó. Giọng nói cũng dần trở nên kỳ quái dị hợm. Khi đó thiên hạ vẫn là của nhà Đại Thanh, ông chẳng có cách nào khác, đành phải về quê sống mai danh ẩn tích. Sau Cách mạng Tân Hợi, triều đình Mãn Thanh bị lật đổ, Trương Đan Thành lại có cơ hội nhảy ra. Ông đốt pháo ăn mừng ba ngày liền, sau đó tập hợp lại anh em thân tín, tiếp tục hành nghề lừa đảo.

Đội ngũ của Trương Đan Thành không lớn, trong tay có 4 Bá đầu, Chu Chấn Long là Đại Bá đầu, luôn sát cánh hành động cùng Trương Đan Thành, còn lại ba tên Bá đầu kia sau này dần được phát hiện và bồi dưỡng. Lần này ba tên Bá đầu đó liên thủ với nhau trèo lên hưởng hương. Trương Đan Thành không phải không đánh hơi thấy được nguy hiểm, mà chỉ do trở tay không kịp.

Theo miêu tả của Trương Đan Thành và Chu Chấn Long, trong ba tên Bá đầu đó. Tên cầm đầu chủ ý tạo phản là Tứ Bá đầu, tên tiểu tử này từ lâu đã không phục ông ta, luôn bất mãn vì Trương Đan Thành ra tay thiếu quyết đoán, đồng thời hậm hực vì ngân lượng kiếm được của Đường khẩu ngày càng ít đi, năm ngoái hắn ta bắt đầu đề xuất Trương Đan Thành sát phú.

Sát phú là đại kỵ trong giới A Bảo, phạm vào quy tắc hành nghề này tất sẽ bị toàn giới A Bảo truy sát. Cái gọi là sát phú chính là khi dàn cục, tự ý xuống tay “cắt cổ” con gà béo, rồi cướp trắng toàn bộ số tiền.

Hành nghề A Bảo không giống như kẻ cướp giật, trộm cắp. Họ luôn coi trọng sự kiên trì nhẫn nại, nếu không Đường khẩu sẽ đứt đoạn mạch tài lộc, tức dù là kẻ thù không đội trời chung, nếu không thỉnh thị trước mà tự ý “cắt cổ”, cũng sẽ phải chịu hình phạt vô cùng nghiêm khắc. Do đó, nếu không đến hồi vạn bất đắc dĩ, tuyệt đối không thể sát phú.

Trương Đan Thành hiểu, lý do “vì nghĩ đến lợi ích Đường khẩu” của Tứ Bá đầu đưa ra để sát phú chỉ là kiếm cớ ngụy biện. Nói cho cùng vẫn là sắc nhục làm tâm khiếu mê muội. Hắn ta là kẻ tâm địa gian xảo, Trương Đan Thành từ lâu đã biết rõ. Năm ngoái khi đến điều hòa phong thủy cho một nhà giàu lắm tiền nhiều của, hắn sinh lòng thèm khát người vợ xinh đẹp của gia chủ. Dù nghĩ tới nghĩ lui, tìm đủ mọi cách mà vẫn không giành được người đẹp, hắn lấy cớ tiền bạc của Đường khẩu hạn hẹp, nhiều lần đưa ra yêu cầu sát phú. Giết được ông chủ kia, hắn ta sẽ có cơ hội chạm tay đến người đẹp.

Thời gian gần đây, Trương Đan Thành cảm thấy Tứ Bá đầu ngày càng có vấn đề. Trong lúc ông cùng với Chu Chấn Long tìm đối sách, không ngờ hắn ta liên thủ với hai tên Bá đầu kia, ra tay trước. Hắn nói: “Ta bắt trói ông lại, trước tiên chưa cần giết vội, để ông chống mắt lên xem ta chiếm hữu mỹ nhân, ngồi vào chính vị, để ông chết trong sự nhục nhã, ta mới cảm thấy vui sướng.”

Nói tới đây, Trương Đan Thành tức giận đến nỗi nghiến răng ken két rồi luôn mồm chửi thề.

Lúc này Tổ Gia mới hiểu ngọn ngành, hóa ra là đấu đá nội bộ. Ông bèn hỏi: “Vậy mấy hôm trước việc Tiên đồng báo mộng, thi thể trôi ngược dòng…”

Chu Chấn Long cười lớn: “Cái gì mà Tiên đồng báo mộng chứ? Đó đều là giả, là trận cục do chúng ta dàn ra và Tứ Bá đầu là người thực hiện. Đây cũng là kế che mắt của hắn ta. Trước khi tạo phản, hắn ta thể hiện rất tốt khiến ta và sư phụ đều mất cảnh giác.”

Toàn thân Tổ Gia chấn động bàng hoàng, nỗi đau đớn trong lòng lại buốt nhói, nhưng ngay lập tức cậu lấy lại bình tĩnh. Manh mối đã xuất hiện, Trương Đan Thành chính là kẻ chủ mưu, trong mấy tên Bá đầu tạo phản, chắc chắn có hung thủ sát hại hai em của cậu. Trương Đan Thành và Chu Chấn Long tuy không đích thân ra tay, nhưng cũng có phần trong đó. Hàng loạt ý nghĩ xuất hiện trong đầu Tổ Gia. Lẽ nào lại giết hai kẻ mà mình vừa mới cứu? Hơn nữa hiện nay trong tay không một tấc sắt, e rằng đánh không lại bọn chúng… Không được manh động! Mà nếu có giết được chúng sẽ không thể tìm được tên Bá đầu hại chết hai em mình. Trước tiên phải mượn tay bọn chúng, giết tên Bá đầu đó, sau đó giải quyết chúng cũng không muộn.

Một loạt tính toán giống như sao băng lướt trong đầu Tổ Gia, cậu trầm ngâm suy nghĩ một hồi.

Trương Đan Thành nhìn thấy Tổ Gia ngẩn người ra như vậy liền hỏi: “Cậu em làm sao vậy?”

Tổ Gia vội vàng đáp lời: “Cái tên… cái tên Tứ Bá đầu đúng thật không ra gì! Tôi căm phẫn thay cho hai vị.”

Trương Đan Thành và Chu Chấn Long quay sang nhìn nhau. Trương Đan Thành nói: “Cậu em à! Cứu người thì cứu cho trót, đưa Phật thì đưa đến tận Tây Trúc. Hiện nay hai người chúng tôi không thể lộ diện, phần lớn anh em Đường khẩu đều bị xúi giục tạo phản. Chỉ dựa vào bản thân chúng tôi chẳng khác nào tự đi tìm chỗ chết. Ta sẽ viết ngay một bức thư, nhờ cậu xuống phà đi Thượng Hải một chuyến, giao bức thư này cho một người tên là Cửu gia. Địa chỉ cụ thể ta sẽ nói cho cậu biết, Cửu gia sẽ giúp đỡ ta. Cảm phiền cậu!”

Khi đó Tổ Gia vẫn chưa biết Cửu gia là ai. Mãi sau này lịch sử mới trả lời cho ông. Cửu gia chính là đại hiệp Giang Hoài uy danh thiên hạ Vương Á Tiều. Ba ngày sau, lần đầu tiên Tổ Gia gặp mặt Vương Á Tiều. Năm đó Tổ Gia mới 15 tuổi, Vương Á Tiều 31 tuổi. Vương Á Tiều xoa xoa đầu Tổ Gia, nói: “Cậu bé, tuổi trẻ gan dạ sáng suốt, có khí phách.”

Vương Á Tiều là bạn thâm giao của Trương Đan Thành, là người trọng nghĩa khí giang hồ, ngay lập tức ông ta cử mười mấy thuộc hạ mang súng theo Tổ Gia trở về. Sau khi những sát thủ này bàn bạc kế hoạch bí mật với Trương Đan Thành và Chu Chấn Long, họ quyết định tối hôm Tứ Bá đầu “đăng cơ” sẽ tổng tấn công Đường khẩu.

Suy cho cùng bọn A Bảo đó không thể sánh được với những sát thủ chuyên nghiệp. Đường khẩu lại chỉ có vài khẩu súng được chính phủ nhà Thanh chế tạo mô phỏng theo loại súng trường Mauser 198919 của Đức. Báng súng cái hỏng cái còn, hơn nữa luôn bị kẹt đạn. Mười mấy tên sát thủ tay lăm lăm súng lục, vượt tường xông vào. Chưa đầy nửa tiếng sau khi nổ súng, bọn A Bảo kẻ bị chết, kẻ bị thương. Tất cả những tên còn lại đều ôm đầu ngồi xổm úp mặt vào chân tường.

Trước khi xuất phát, Trương Đan Thành có dặn mấy tên sát thủ: “Nhất định phải bắt sống mấy tên Bá đầu đó.” Ông ta muốn tự tay cắt cổ mấy tên tạp chủng này.

Kết quả ngoại trừ Nhị Bá đầu thoạt nhìn thấy sự việc không hay đã cắt cổ tự tử, còn Tam Bá đầu và Tứ Bá đầu đều bị bắt sống, trói nghiến vào cột nhà.

Tổ Gia nấp sau đám sát thủ, ngầm quan sát, chợt nhận ra ngay tên Tứ Bá đầu chính là kẻ lừa ba anh em mình trên phố hôm đó. Tuy tối hôm nay hắn ta không đeo kính, nhưng dáng người, cái cằm, đặc biệt nốt ruồi đen nơi khóe miệng, dù có hóa thành tro Tổ Gia cũng vẫn nhận ra.

Tổ Gia nghiến răng ken két, nhưng không dám manh động, cậu sợ tên Tứ Bá đầu này nhận ra mình. Tuy chúng đang đấu đá lẫn nhau, nhưng suy cho cùng vẫn là đồng đảng, bản thân Tổ Gia chỉ là người ngoài, ngộ nhỡ hắn ta hô to: “Đây chính là tên tiểu tạp chủng đã chạy thoát!” thì chẳng ai có thể biết trước sự việc sẽ như thế nào.

Trương Đan Thành ngồi giữa sân Đường khẩu, hỏi Tứ Bá đầu: “Ngươi đã biết tội chưa?”

Tứ Bá đầu ngửa mặt lên trời cười lớn nói: “Tên hoạn nhà ngươi, muốn giết thì giết đi.”

Trương Đan Thành nghe xong vô cùng tức giận bởi ông ta vẫn còn một quả ngọc hành, suy cho cùng vẫn không thể gọi là thái giám. Ông ta kỵ nhất nghe hai từ “tên hoạn” này. Kỳ thực Tứ Bá đầu tạo phản thành công cũng là do hắn luôn ngầm kích động: “Bản thân lão ta là ‘tên hoạn’, nên mới ngăn cản anh em trong Đường khẩu đi tìm gái.” Bọn A Bảo phần đông là những kẻ hám lợi, phóng túng, dâm dục, nghe Tứ Bá đầu xúi bẩy như vậy thì nhất tề nghe theo.

Trương Đan Thành vẫy tay một cái nói: “Đại Bá đầu! Cắt cái lưỡi chó của hắn cho ta!”

Chu Chấn Long dạ lên một tiếng rồi cầm dao tiến lên. Kỳ thực, cắt lưỡi một người là việc vô cùng khó. Nó không giống như việc cắt lưỡi lợn bởi lưỡi lợn vừa to vừa dài. Trước khi bị đồ tể giết, lợn đều kêu eng éc. Sau khi bị chọc tiết xong, mõm lợn vẫn hơi há ra, tay đồ tể chỉ việc cậy hàm ra, một tay cầm lưỡi lợn, tay kia cầm dao cắt một nhát là được. Còn đối với con người, đâu thể há mồm ra cho người ta cắt lưỡi của mình được. Dù hai tên tay chân làm đủ mọi cách nhưng vẫn không thể cạy mồm Tứ Bá đầu được. Cuối cùng Chu Chấn Long giật lấy một cây côn sắt, đánh thẳng vào miệng Tứ Bá đầu, khiến cho toàn bộ răng cửa của hắn gãy hết. Sau đó, một tên A Bảo cạy hàm trên, một tên khác cạy hàm dưới, lúc này Chu Chấn Long mới dễ dàng cắt phăng được lưỡi của Tứ Bá đầu. Mồm miệng đầy máu me, nhưng Tứ Bá đầu vẫn gân cổ mắng chửi dù những âm thanh đã không còn nghe được rõ tiếng nữa.

Trương Đan Thành cười nhạt rồi nói: “Ngươi có phục hay không?”

Tứ Bá đầu ngoẹo đầu, máu chảy không ngừng, nhưng vẫn ương ngạnh không phục.

Trương Đan Thành đùng đùng nổi giận, đứng bật dậy, chộp lấy một khẩu súng, nhằm thẳng vào đầu hắn ta. Tổ Gia chăm chú theo dõi tất cả từ đầu chí cuối, trong lòng thầm nghĩ thời khắc báo thù cuối cùng đã đến. Cậu nói với Trương Đan Thành: “Một phát súng thì thật quá dễ dàng cho hắn! Bây giờ hắn ta đang muốn chết, nên chỉ mong sao ông sớm nổ súng!”

Trương Đan Thành ngây người: “Cậu em, nói vậy là có ý gì?”

Lúc này trong đầu Tổ Gia tràn ngập hình ảnh hai em của mình. Câu im lặng một lát, sau đó bật ra ba chữ đầy căm hận: “Đốt… đèn… trời!”

Ba tiếng này vừa thốt ra, khiến cho Trương Đan Thành giật mình. Tên tiểu tử này sao lại độc ác như vậy? Nhưng ông ta đâu biết ngọn lửa hận thù đang bừng bừng trong lòng Tổ Gia.

Lúc này, Tứ Bá đầu đã nhận ra Tổ Gia, hắn muốn nói gì đó, nhưng lưỡi đã bị cắt, mồm miệng lại đầy máu, không nói được tiếng nào rõ ràng. Cuối cùng, hắn lắc lắc đầu, cười lên một tiếng rồi gục xuống.

Thắp đèn trời và lăng trì là hai hình phạt thảm khốc nhất thời cổ đại. Lăng trì là cắt từng miếng thịt trên cơ thể. Thắp đèn trời là đem thả người vào trong vại dầu, sau đó vớt lên, trói vào một cây cột, đầu hướng xuống đất, chân chổng lên trời, rồi đốt cháy từ chân. Người bị hình phạt này có thể nhìn thấy ngọn lửa cháy từ gót chân mình, ngửi thấy mùi khét lẹt của da thịt, cảm nhận được những giọt mỡ của chính mình rỏ xuống mặt, cuối cùng chết trong sự đau đớn và kinh hoàng.

Tổ Gia muốn thắp đèn trời bởi hắn ta chính là kẻ đích thân hại chết em trai và em gái của mình, lại còn hỏa thiêu, đem tro cốt nhào với đất, nặn thành tượng. Đây chính là thời khắc báo ứng của hắn, hắn ta phải trả giá không kém một ly nào.

Tứ Bá đầu lập tức bị lột trần, toàn thân được tưới đẫm dầu, trói lộn ngược vào một cây cột. Do bị mất máu quá nhiều nên ý thức của hắn đã trở lên mơ hồ. Tổ Gia lấy một ngọn đuốc, châm lửa vào chân Tứ Bá đầu. Ngọn lửa phút chốc bùng lên, kèm theo đó là tiếng lửa cháy lách tách và da thịt bắt đầu sùi lên những bong bóng mỡ. Tứ Bá đầu cất tiếng cười ha hả, sau đó phát ra âm thanh “khùng khục”, dáng vẻ rất sảng khoái, cứ như thể kẻ bị thiêu không phải là hắn ta vậy.

Tất cả mọi người đều ghê sợ đến độ ngây người ra, Tổ Gia nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Đột nhiên, ông cầm một khẩu súng, đoàng một tiếng, bắn chết Tứ Bá đầu. Quả thực, ông không thể nhìn tiếp cảnh tượng đó được nữa.

Hạ súng xuống, Tổ Gia ngửa mặt lên trời, thở dài một tiếng, thầm nói: “Hai em hãy yên lòng nhắm mắt. Anh không thể giết được tất cả bọn chúng.”

Đột nhiên, Trương Đan Thành chỉ vào Tổ Gia hét lên: “Bắt tên tiểu tử này lại cho ta!”

PHÂN CHI THIÊN ĐỊA HỘI - PHÁI GIANG TƯỚNG

Tổ Gia thất kinh.

Chu Chấn Long cũng ngơ ngác không hiểu: “Sư phụ! Tại sao vậy? Cậu ta là ân nhân cứu mạng của chúng ta mà.”

Trương Đan Thành vẫn hét lớn: “Trói nó lại!”

Chu Chấn Long không dám trái lệnh, cùng với hai tên tay chân nữa nhất tề xông lên, trói nghiến Tổ Gia lại.

Trương Đan Thành cười nhạt, nói với Tổ Gia: “Chúng ta không thân không thích, ngươi lại liều mạng ứng cứu. Ngươi và Tứ Bá đầu không thù không oán nhưng ngươi lại muốn dùng hình phạt thắp đèn trời. Ngươi không thấy rất kỳ lạ sao?”

Trống ngực Tổ Gia đập thình thịch, nhưng vẫn không hé răng nói lời nào.

Trương Đan Thành đi một vòng quanh Tổ Gia lúc này đã bị trói quặt tay ra sau lưng, bỗng nhiên chỉ tay vào đầu Tổ Gia nói: “Ngươi chính là tên tiểu tử chạy thoát đó!”

Chu Chấn Long giật mình lùi lại hai bước, ngạc nhiên nói: “Là… là tên tiểu tử lọt lưới mà Tứ Bá đầu nói đến sao?”

Tổ Gia nhắm hai mắt lại, trong đầu nghĩ: xong rồi, xong rồi. Nhưng cậu vẫn ung dung nói: “Đã bị các ngươi nhận ra rồi. Hãy ra tay nhanh đi! Ta cũng đã có thể đoàn tụ với gia đình được rồi.”

Trương Đan Thành thở dài một tiếng nói: “Có ân không báo, không đáng mặt quân tử, tất sẽ để lại tiếng xấu thiên cổ. Trương Đan Thành ta hành tẩu giang hồ mấy chục năm, thành danh đều nhờ vào chữ nghĩa, ngươi đã cứu mạng ta, ta giết ngươi hóa chẳng phải kẻ bất nhân bất nghĩa sao, ta không giết ngươi, nhưng… cũng không thể thả ngươi ra được.”

Trương Đan Thành biết rằng đứa trẻ đứng trước mặt mình đây có lòng hận thù quá nặng, lại vô cùng tàn độc. Thả nó ra chẳng khác nào thả hổ về rừng nên hắn ta quyết định bắt giam lại.

Hậu viện của Đường khẩu có một nhà lao bí mật, chuyên dùng để giam cầm A Bảo phạm lỗi. Tuần thứ hai sau khi bị bắt giam, Trương Đan Thành cử một ông già què khoảng 50 tuổi tới canh giữ Tổ Gia. Tổ Gia thật không thể hiểu nổi, Đường khẩu nhiều A Bảo chân tay lành lặn như vậy, mà tại sao Trương Đan Thành lại cử một ông già què đến canh giữ.

Sau này, Tổ Gia mới biết, ông già què này không phải là một người tầm thường, ông ta đã đi theo Trương Đan Thành mấy chục năm. Khi Tứ Bá đầu tạo phản, ông ta không có ở bên cạnh Trương Đan Thành. Sau khi được mấy tên tay chân chạy đến báo tin, liền lập tức quay về Đường khẩu, nhưng đã quá muộn, thân cô thế cô, không thể địch lại được số đông. Sau khi hạ gục mấy tên A Bảo, nhân tình thế hỗn loạn, phóng qua tường trốn đi. Sau này, khi Trương Đan Thành lấy lại Đường khẩu, ông ta lại quay về.

Chân què, nhưng kỹ thuật của ông ta không què quặt chút nào. Ông ta cũng có thể coi là một sát thủ đệ nhất của Đường khẩu. Sở dĩ ông ta bị què là vì bảo vệ Trương Đan Thành trong cuộc xung đột với Hắc bang năm xưa, tuyệt kỹ lợi hại nhất của ông ta chính là phi đinh. Vận toàn lực vào tay, ông ta có thể phi đinh sắt cắm sâu vào cây gỗ đến mấy tấc ở khoảng cách ngoài mười mấy mét. Nghe nói, môn kỹ thuật này bắt nguồn từ “Yến Tử môn” ở Trung Nguyên. Sau này, có nhiều tin đồn cho rằng kỹ thuật phi đinh được phát triển thành phi dao vô cùng ngoạn mục và lợi hại. Thực ra, thời đó chỉ là phi rìu chứ chưa biết đến phi dao, mặt khác không phải cứ muốn là có thể phi dao được. Trước cuộc Cách mạng công nghiệp, chưa hề có kỹ thuật cắt và cán mỏng lưỡi dao, do đó lưỡi dao đều được mài theo cách thủ công. Muốn làm ra được lưỡi dao mỏng như cánh chuồn, phải tốn rất nhiều thời gian và công sức, cho dù có chế được đúng theo ý mình thì khi lâm trận cũng không thực sự đắc dụng. Vì dao một khi đã phóng ra là khó có thể thu về được, nhiều nhất cũng chỉ giết được một vài người, sau đó chỉ còn cách chịu trận đợi kẻ khác đến giết. Hơn nữa, phi dao phần nhiều là lén lút, phi xong liền bỏ chạy, trúng đích thì không nói làm gì, không trúng kể như mất toi vài chiếc mà phải tốn thời gian mười mấy ngày mới chế được một chiếc. Chỉ một trận là chẳng còn lưỡi dao nào, lần hành động sau lại phải mài lưỡi mới.

Ngược lại, đinh lại chế tạo rất dễ dàng, nhưng đinh khi đó cũng không giống như đinh tây bây giờ, đều là sản phẩm của nước ngoài, giống như diêm và dầu hỏa. Đinh thời xưa khá to, do thợ rèn tự chế, đường kính gấp ba đến bốn lần đinh bây giờ. Lượng cung ứng đinh cũng rất lớn, mỗi lần có thể mang theo mấy chục chiếc. Với một cao thủ công lực thâm hậu, bách phát bách trúng, một trận quyết chiến, chí ít có thể giết được mấy chục người. Lần sau hành động, cũng không phải lo lắng về vấn đề thiếu đinh.

Tổ Gia nói với tôi: “Nếu không tận mắt nhìn thấy, sẽ không tin trên thế gian này có một cao nhân như vậy. Ông già què đó vung tay một cái, đinh sắt bay ‘vút’ ra, ‘phập’ một tiếng, cắm ngay vào cây gỗ trên cánh cửa nhà lao.” Tổ Gia bị một phen kinh sợ, đồng thời cũng đã hiểu vì sao Trương Đan Thành cử một người như vậy đến canh giữ mình.

“Sư phụ nói, ngươi là ân nhân cứu mạng của ông ấy, cũng là kẻ thù không đội trời chung, dặn ta tuyệt đối không được khinh thường, càng không được tin ngươi.” Ngày đầu tiên gặp mặt, ông già què đó đã nói với Tổ Gia như vậy.

Ban đầu hai người luôn đề phòng lẫn nhau, một trong nhà lao, một ngoài cửa nhà lao, không hề nói với nhau câu nào, sau này quen rồi, dần bắt đầu trò chuyện.

Ông già què này tên gọi là Đồ Nhất Minh, là hàng đệ tử đầu tiên sau khi Trương Đan Thành xuất đạo. Sau khi bị gãy chân, về cơ bản Trương Đan Thành không sắp xếp cho ông ta làm việc bên ngoài. Chân ông ta gãy là vì Trương Đan Thành, trước mặt anh em Đường khẩu Trương Đan Thành thề rằng sẽ chăm sóc ông ta cả đời. Kỳ thực Đồ Nhất Minh làm việc nhiều năm ở Đường khẩu, tiền bạc cũng tích lũy được một món kha khá, như vậy, ông ta không thiếu tiền, không cần phải nhờ người khác nuôi.

Tổ Gia hỏi ông ta vì sao không nhân cơ hội rời khỏi Đường khẩu, tìm một nơi mà mai danh ẩn tích. Đồ Nhất Minh cười lớn nói: “Ngươi không hiểu rồi. Một người đã lăn lộn ở Đường khẩu mấy chục năm trời thì Đường khẩu chính là nhà, dù có mang tiền ra đuổi cũng không đi. Sống là người của Đường khẩu, chết làm ma của Đường khẩu. Từ lâu, ta đã quen với ngày tháng sống cùng anh em huynh đệ. Sau khi ta bị tàn phế, tuy không phải ra ngoài dàn cục, nhưng vẫn là người không thể thiếu trong việc bàn tính kế sách. Ta là người không chịu được sự nhàn rỗi, càng không muốn ăn không ngồi rồi, đúng lúc ngươi xuất hiện, sư phụ muốn ta đến canh giữ ngươi và nói rằng tên tiểu tử nhà ngươi là kẻ vô cùng nguy hiểm.”

Tổ Gia cười gượng trong lòng. Một thời gian sau, cuộc sống giam hãm của Tổ Gia cũng thoải mái hơn ít nhiều. Mỗi ngày ba bữa đều có thịt, gặp hôm mùng một, ngày rằm còn được uống vài ba ngụm rượu. Chiêu này của Trương Đan Thành quả thật cao tay. Thời gian có thể mài mòn đi tất cả, cũng vì thế lửa hận thù và sự ức chế trong lòng Tổ Gia bắt đầu dần nguội đi. Đêm đến, cậu thường độc thoại, nhắc nhở bản thân phải khắc sâu mối thù hận: em trai, em gái tuy không phải do Trương Đan Thành tự tay giết chết, nhưng ông ta là kẻ cầm đầu Đường khẩu… ban đầu nếu như ta không cứu bọn chúng… nhưng giờ đây ông ta cũng không giết mình… Hàng đêm, khi nút thắt trong tư tưởng này vẫn còn chưa cởi ra được, Tổ Gia đã chìm sâu vào giấc ngủ. Trong giấc mơ, cậu thường thấy những ngày tháng trước đây, được trở về bên cạnh cha mẹ, cả nhà lại rộn rã tiếng cười. Khi tỉnh dậy trong căn phòng giam lạnh lẽo, trở lại với hiện thực, cậu đờ đẫn ngồi ngây ra một hồi lâu.

Tổ Gia cũng từng nghĩ đến việc đâm đầu vào góc tường tự sát, nhưng lại không thể hiểu nổi vì sao mình muốn chết? Gia bại nhân vong20, bản thân không muốn kế tục hương hỏa sao? Cậu cũng từng nghĩ đến việc tuyệt thực, nhưng cơm của kẻ thù không thể ăn được sao? Ăn no rồi mới có thể tiếp tục sống, sống mới có cơ hội ra ngoài, ra được ngoài rồi thì mới có thể trả thù, không những phải ăn, mà còn phải ăn thật ngon lành.

Cứ cách dăm bữa nửa tháng, Tổ Gia được ra ngoài hóng gió với một cái xích to dưới chân. Đồ Nhất Minh ngồi trong sân theo dõi cậu, trong tay áo luôn giấu sẵn đinh sắt. Có lúc Tổ Gia nói với ông ta: “Ông không cần phải căng thẳng như vậy, tôi không chạy được đâu mà lo.”

Những lúc như vậy, Đồ Nhất Minh mỉm cười nói: “Người khác thì không thể, nhưng ngươi thì có thể, 15 tuổi dám giết hai mạng người, thắp đèn trời một người. Nếu không cẩn thận, chính ta đây cũng không biết mình sẽ chết như thế nào.”

Thực ra, Đồ Nhất Minh đã sớm có cảm tình với Tổ Gia. Ông ta thường nói với cậu rằng: “Nhóc con, nếu ngươi không phải là kẻ thù của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ trở thành anh em tốt. Ngươi cũng chớ nên cả ngày nghĩ đến việc trả thù. Nói một câu công bằng, khi đó sư phụ ta dàn cục không hề biết đó là em trai và em gái của ngươi, khi Tứ Bá đầu la cà trên phố, đúng lúc gặp được các ngươi…”

“Ông chớ có nhắc lại chuyện này nữa!” Tổ Gia ngắt lời ông ta.

“Không cho ta cũng cứ nhắc đấy. Ta nói cho ngươi biết, sư phụ ta đã cử người đến ngôi miếu đó đem tượng đất tro cốt của hai em ngươi về, mua hai chiếc quan tài, rồi cho chôn cất cẩn thận, hơn nữa còn lập bia, hàng tháng đều cử người đến thắp hương, đốt tiền vàng. Hiện nay anh em trong Đường khẩu đều muốn giết ngươi, nhưng sư phụ ta không đồng ý…”

“Đừng nói nữa! Đồ què cụt!” Tổ Gia ngắt lời.

Đồ Nhất