← Quay lại trang sách

Chương 4 MẸO LẠ ĐIỀU KHIỂN ĐỘNG VẬT:- THUẬT QUỶ TƯƠNG

BẦY NHÍM KỲ LẠ

Tổ Gia hiếm khi mắc sai lầm, nhưng lần này ông đã phán đoán nhầm, Thiên Thánh Đạo vẫn im ắng lạ thường.

Đại đồ đệ Tả Vịnh Thiền của Trương Kế Nghiêu đã ngồi lên bảo tọa ngay sau đó vài hôm, trở thành chưởng môn thứ bảy của Thiên Thánh Đạo, vẫn tung tin hù dọa về ngày tận thế như trước, có điều khẩu hiệu lần này hơi khác. Trước đây chúng rêu rao: “Càn khôn hữu đại nan, mạt thế kỷ đương đầu, Thiên Thánh độ chúng sinh, các đắc bất tử thân1”. Giờ chúng lại hô: “Càn khôn hữu đại nan, mạt thế kỷ đương đầu, phúc tòng Đông phương lai, mãn tâm cứu chúng sinh2”.

Tổ Gia đăm chiêu. Một nhân vật tầm cỡ như thế, nói chết là chết ngay được, lại chết một cách khó hiểu, kẻ nào mà lại bản lĩnh đầy mình như vậy, có thể bưng bít cái chết của một đại sư êm ru như thế?

Mai Huyền Tử biến thành tiên, Trương Kế Nghiêu chết đột ngột, quan tài đầy tóc đen, Giả Tứ gia không mời mà đến, dường như tất cả những điều này đều có thể xâu chuỗi lại. Nghĩ đến đây, Tổ Gia không khỏi rùng mình.

Vụ dàn cục với thi thể con gái ông chủ Hà vẫn phải tiếp tục làm. Tổ Gia biết, giờ mình không còn đường thoái lui, chỉ có tiếp tục bước lên phía trước, chân tướng mới được phơi bày. Nhưng cần phải suy xét thật cẩn trọng.

Cứ theo các bước thì đầu tiên phải làm lễ chiêu hồn để an ủi vong linh, rồi nói oan khí trong người cô gái đã tiêu tan, thuyết phục nhà trai cứ làm lễ hợp hôn như đã bàn định. Nếu nhà trai không đồng ý cũng không đáng ngại, chỉ cần Nhị Bá đầu Trát phi, đêm đến bày trò hồn ma bóng quỷ, bảo đấy là cô gái tìm về, nếu không đồng ý, cả nhà sẽ chết sạch, kiểu gì chẳng êm xuôi.

Điều quan trọng là Tổ Gia luôn cảm thấy đằng sau tất cả những việc này luôn có hai con mắt hằn lên những tia máu đầy hận thù đang nhìn chòng chọc vào mình, không biết lúc nào sẽ chồm tới, cắn ông một miếng.

Cả đêm Tổ Gia trằn trọc suy nghĩ. Trời sáng, ông bảo Nhị Bá đầu dẫn đến nhà ông chủ Hà. Tổ Gia muốn đích thân làm phép chiêu hồn.

Tổ Gia bảo ông chủ Hà xé rất nhiều những miếng vải trắng, treo trên xà nhà, phòng khách, phòng phía nam, phòng phía đông, phòng phía tây, treo khắp quanh sân; giữa sân đặt một án kỷ, bày đủ cả lư hương, bệ đèn, tam tiên (ba món ăn), vàng mã.

Tổ Gia lấy một nắm hạt kê, một cái hũ miệng nhỏ, thả nắm hạt kê đó vào đó, lấy giấy đỏ bịt kín miệng hũ lại, dùng kiếm khua khua về phía chỗ vàng mã, đốt bùa niệm chú, trên vái Tam Thanh (ba vị thần tiên trong Đạo giáo), dưới tế sâm la (vạn thứ hiển hiện xung quanh), sau đó chọc thủng một lỗ trên tờ giấy đỏ, rồi gọi to để hồn ma chui vào trong hũ.

Tiếp theo, Tổ Gia lại sai Nhị Bá đầu bốc nắm hạt kê trong hũ ra, bỏ vào miệng người chết giờ đã không còn da thịt nữa. Nhị Bá đầu cứ thế đổ thẳng hạt kê vào qua hốc miệng.

Tổ Gia lại dán một lá bùa cầu siêu lên đầu thi thể, yểm cho linh hồn cô gái được yên.

Rồi cứ theo kế hoạch, thuyết phục nhà trai, đem hai người hợp táng.

Tất cả mọi việc đều rất suôn sẻ, suôn sẻ đến nỗi khiến Tổ Gia cảm thấy đáng sợ. Từ trong sâu thẳm, ông luôn thấy bất an, nhưng lại không rõ là do đâu.

Chính Hoàng Pháp Dung đã chọn ngày hợp táng. Kẻ đi lừa đảo cũng phải chọn ngày hoàng đạo, Hoàng Pháp Dung dùng thuật Kỳ môn độn giáp khởi cục, tìm được một ngày đẹp.

Ngày hôm đó, Tổ Gia đích thân đến hiện trường, chỉ bảo đám người nâng cái quan tài màu đỏ to tướng đặt xuống huyệt.

Đột nhiên, trong bụi cây phát ra những tiếng loạt soạt, nghe như tiếng mưa rơi lên lá sen. Những âm thanh đó từ xa vọng lại, rồi nhanh chóng tiến lại gần, khiến mọi người sững lại, dỏng tai nghe ngóng. Bất thình lình, một đàn con gì trăng trắng lao ra khỏi bụi cây, cũng không rõ chúng “xuất kích” tự lúc nào, chỉ nghe thấy chúng “hò la” cùng nhảy chồm tới cả bầy. Định thần lại, mọi người mới nhận ra là lũ nhím. Khắp người chúng mọc tua tủa những chiếc gai trắng, bụng phập phùng, cứ thế phi thẳng về phía quan tài, như thể trong đó có thứ gì đang hút lấy chúng. Mấy trăm con nhâu nhâu quanh quan tài, kêu chi chi như tiếng âm hồn.

Đám cu li hồn vía lên mây. Mấy người bạo gan lấy gậy và cuốc chim đuổi, nhưng lũ nhím như bị trúng tà, chẳng biết sợ người, giương cặp mắt đỏ lừ, nhảy lên nhảy xuống, những cái mõm bé như sẵn sàng chồm tới tấn công. Mấy người sợ quá, vứt hết cả cuốc xẻng, bỏ chạy.

Ngay sau đó, lũ nhím bắt đầu tấn công chiếc quan tài. Lúc nhúc mấy trăm con, răng con nào con nấy cạ cạ gặm tấm gỗ quan, khiến lớp sơn màu đỏ chẳng mấy chốc đã bị cạo sạch. Với tình hình này, dù vừa rồi quan tài có được lấp kín trước khi chúng lao đến thì chúng vẫn có thể đào lỗ chui vào cắn tan tành.

BẠCH TIÊN NHẬP ĐỒNG

Tổ Gia vã mồ hôi, mày cau lại, lời căn dặn của lão tổ tông hiện ra trước mắt ông: Ô phát già quan bất khả trát, oán khí lệ khí loạn như ma…

Ông chủ Hà run cầm cập hỏi: “Tổ Gia, xảy ra chuyện gì vậy?”

Tổ Gia cố tỏ ra bình tĩnh nói: “… Khả năng là do âm khí quá nặng, khiến Bạch tiên đến, đợi ta làm phép…”

Lúc này, Hoàng Pháp Dung đóng giả làm đạo cô đang đứng sau lưng lẳng lặng đi tới gần Tổ Gia nói nhỏ: “Tổ Gia, đây là Tiểu Quỷ tương! Nơi này không nên nán lại lâu, chúng ta nên đi trước!”

Tổ Gia trừng mắt: ”Đi thế nào được?”

Hiểu thấu tâm tư Tổ Gia, Hoàng Pháp Dung cũng chỉ biết cúi đầu lo lắng nghĩ cách ứng phó.

Chính vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, một trận gió lướt nhẹ qua, khiến cành cây run rẩy, liền ngay sau đó là tiếng sấm ầm trời. Tam phục thiên3 là những ngày nóng bức nhất mùa hè, trời nổi gió hay có sấm là chuyện vốn rất bình thường, nhưng dường như có thứ gì đó khiến Hoàng Pháp Dung sốc nặng, mắt bà trắng dã, đầu lao xuống đất.

Tổ Gia sững người, tất cả mọi người có mặt đều kinh hãi.

Trương Tự Triêm đứng sau vội vàng dìu Hoàng Pháp Dung dậy.

Hoàng Pháp Dung mắt nhắm nghiền, toàn thân co giật, miệng rên hừ hừ. Rồi đôi mắt đang nhắm chặt đột nhiên trợn trừng, lóe lên ánh nhìn hung ác, miệng quát to: “Bạch tiên giá đáo, lũ các ngươi còn không mau quỳ xuống?”

Trương Tự Triêm không hiểu đã xảy ra chuyện gì, vội vàng kêu tên: “Pháp Dung! Pháp Dung!”

Hoàng Pháp Dung đẩy mạnh Trương Tự Triêm ra, miệng vẫn quát tháo: “Ta là Bạch tiên! Ta là Bạch tiên!”

Giọng nói run bần bật như từ cõi âm vọng về khiến những người đứng xung quanh phải dựng tóc gáy. Lúc này, một đám mây đen chầm chậm ùn tới, sắc trời u ám dần, gió thổi càng mạnh thêm, như muốn giật đổ cả cây đại thụ. Hoàng Pháp Dung đứng trơ trong gió, miệng run run liên tục phát ra những âm thanh khó hiểu.

Tổ Gia hiểu rõ ý đồ, liền đế vào: “Bạch tiên nhập đồng đấy!”

Ngày xưa, người dân rất tin vào chuyện thần tiên, ma quỷ và cả người chết có thể nhập vào một người nào đó. Thấy Hoàng Pháp Dung làm náo loạn lên như vậy, lại thêm Tổ Gia vun vào, mọi người đều tin hết thảy.

Tổ Gia vén tà áo, quỳ xuống nói: “Bạch tiên tại thượng, hôm nay đệ tử làm lễ hợp táng cho đôi tân lang tân nương ở đây, không biết có Bạch tiên đại giá quang lâm, thất lễ, thất lễ!”

Hoàng Pháp Dung nói: “Ta là Nhất Bạch Linh dưới chân núi Hoàng Sơn, 500 năm trước suýt chút nữa bị kẻ ác nấu chín, may nhờ cô gái này cứu giúp mới có được đạo thân này. Nay ta đã tu thành chánh quả, đến là để báo ơn cứu mạng năm xưa, nào ngờ cô gái lại đã lìa trần. Ta đây nếu không đến kịp thì lũ các ngươi đã chôn cô gái mất rồi, may mà còn được nhìn thấy cô gái lần cuối…” Nói xong, bà ta liếc nhìn những người đứng xung quanh. “Bọn các ngươi còn không quỳ xuống, dám coi khinh Bạch tiên ta?”

Những người đứng xung quanh lúc này mới hoàn hồn, lật đật quỳ hết cả xuống.

Ông chủ Hà thành tâm nhất, cúi rạp nói: “Không biết Bạch tiên giá đáo, thất lễ, thất lễ!”

Tổ Gia cười thầm: Con ranh Pháp Dung này giải nguy trong tích tắc, tạm thời cứ nghe xem nó nói thế nào đã.

Hoàng Pháp Dung nói với mọi người: “Các người nghe đây, mau đem ngải cứu tới, ta phải làm phép xua đuổi tà ma cho cô gái, để vợ chồng họ không bị bọn quỷ đói quấy nhiễu trên đường đi xuống hoàng tuyền.”

Tổ Gia đưa mắt nhìn ông chủ Hà, tỏ ý bảo ông ta mau đi lấy.

Ông chủ Hà vội sai người hầu chạy xe đến cửa hàng thuốc ở gần đấy, mua mấy bao ngải cứu đem về.

Hoàng Pháp Dung rải ngải cứu quanh quan tài, sau đó thắp hương đốt. Ngải cứu cháy, tỏa ra thứ mùi nồng nặc, nhân đó Hoàng Pháp Dung nói thật to: “Thiên bát nhã, vạn bát nhã, sáu cõi luân hồi khổ ải nhất; sống hà tất bi ai, chết có gì khiếp sợ. Nay đưa tiễn hài nhi, kiếp sau lại được ở bên cô gái; hợp rồi tan, tan rồi lại hợp, năm trăm năm tu luyện mới được như bây giờ; ta nay báo ân …”

Lũ nhím bám quanh quan tài ngửi thấy mùi ngải cứu liền bỏ chạy tán loạn, có con chạy thục mạng vào bụi rậm, có con chạy về phía hồ nước xa tít.

Hoàng Pháp Dung thấy lũ nhím đã chạy mất, hai hàng nước mắt tuôn xuống: “Ân nhân của ta đã lên đường xuống suối vàng, ta cũng phải quay về rồi. Ta đi đây! Ta đi đây!” Nói đoạn, bà ta dướn người lên, rồi cứ thế đổ ụp xuống đất.

Khi được mọi người dìu dậy, bà hốt hoảng nhìn mọi người: “Sao vậy? Vừa xảy ra chuyện gì thế?”

“Vừa rồi, Bạch tiên nhập vào ngươi đấy.” Tổ Gia nói.

Hoàng Pháp Dung lau mồ hồi rịn ở trán, làm điệu bộ yếu ớt vô cùng. Một cơn gió ùa đến, bà suýt ngã khuỵu, may có Trương Tự Triêm đứng sau lưng đỡ lấy.

Tổ Gia ra lệnh: “Viên phần!”

Tiếng kèn được gióng lên, mọi người nâng quan tài đặt vào hố rồi lấp đất lên mộ.

THUẬT “QUỶ TƯƠNG”

Buổi tối, mọi người trở về Đường khẩu, Tổ Gia triệu tập cuộc họp khẩn cấp để phân tích, đánh giá sự việc ngày hôm nay.

Ông nói: “Vụ dàn cục lần này gặp kinh động nhưng không đến nỗi nguy hiểm, tất cả nhờ Pháp Dung biết tùy cơ ứng biến, các huynh đệ trong Đường khẩu nên học hỏi, noi gương.”

Hoàng Pháp Dung rất khôn ngoan, liền đứng dậy nói: “Đều nhờ ơn Tổ Gia dạy bảo.”

Trương Tự Triêm ở bên cạnh cũng cười rạng rỡ.

Tổ Gia cũng từng nghe nói đến thuật Quỷ tương nhưng chưa bao giờ được biết tường tận về nó. Hôm nay, Hoàng Pháp Dung đột nhiên nhắc đến khiến Tổ Gia cũng phải sởn gai ốc.

Thuật Quỷ tương là một loại ma thuật của một vài nước Đông Nam Á, được chia thành hai dạng: Tiểu Quỷ tương và Đại Quỷ tương. Tiểu Quỷ tương vật, Đại Quỷ tương nhân. Tức Tiểu Quỷ tương khống chế động vật, còn Đại Quỷ tương khống chế con người.

Theo ghi chép trong Miêu tương Cổ thuật, Quỷ tương là một kiểu Cổ thuật do Cổ thần (thần độc dược) A Luy – một cô gái tộc người Miêu – chế ra vào cuối thời Minh.

Những năm Sùng Trinh cuối thời nhà Minh, Lý Sấm Vương lãnh đạo nhân dân đứng lên khởi nghĩa, người tộc Miêu hưởng ứng mạnh mẽ, quan lại người Miêu ở Hồ Nam tất thảy đều quy tụ dưới trướng của Lý Sấm Vương. Để giúp ông ta đối phó với đội quân của triều đình, A Luy đã dùng loài địa long – một loại giun đất – trên đỉnh Thiên Sơn Tuyết làm vật chủ, rồi cấy loài mòng trâu sống rất dai lên mình loài địa long đó. Sau vài tháng, đem chúng luyện thành Quỷ tương u minh cổ. Loài cổ trùng này có thể ẩn náu trong cơ thể người và động vật, hút linh hồn, khống chế tâm trí.

Năm Sùng Trinh thứ 7, Lý Tự Thành đánh trận quyết chiến ở ải Ninh Vũ. A Luy đã thả loài sâu cực độc này xuống dòng nước mà quân đội triều đình sẽ uống. Sau khi bọn họ uống vào, đầu óc trở nên mơ màng, không còn một chút sức lực để chiến đấu, Lý Sấm Vương chỉ cần giáng một đòn đã công hạ được đất Thái Nguyên, tiếp tục đi chinh phạt phía Đông.

Ngày 19 tháng 3, Lý Tự Thành tiến vào Chính Dương Môn (Bắc Kinh), Sùng Trinh thắt cổ tự vẫn, Đại Minh diệt vong. Lý Tự Thành luận công ban thưởng, A Luy ỷ mình công lớn, rất vênh váo đắc ý. Không ngờ, Lý Tự Thành lại ra lệnh giết A Luy, đây gọi là chiêu qua cầu rút ván, khi ta cần anh, anh cứ lập thành tích cho ta, còn khi đã dẹp yên thiên hạ, ai dám giữ một kẻ chuyên hạ độc nguy hiểm như vậy bên mình?

Hoàng Pháp Dung nói: “Hút linh hồn, khống chế tâm trí, đều là trò bịp.” Thuật Quỷ tương thực chất áp dụng nguyên lý kết hợp âm dương mà thảy vạn vật đều có, loài cổ trùng cũng vậy. Đầu tiên, thả cổ trùng đực (tính dương) vào thức ăn hoặc nước uống, chúng cực nhỏ, mắt thường không thể nhìn thấy được. Sau khi vào cơ thể người hoặc động vật, chúng sẽ ẩn náu trong đó, sinh sôi phát triển rất nhanh, rồi theo máu lên não. Dương chủ về động, âm chủ tĩnh, một khi cơ thể vật chủ đã bị cổ trùng đực ký sinh thì sẽ cảm thấy buồn bực không yên. Lúc này, chỉ cần cho cổ trùng cái (mang tính âm) vào cơ thể một vật chủ khác (vật đích), cổ trùng đực sẽ ngửi thấy mùi của đối phương, càng cảm thấy bồn chồn hơn, liền lao thẳng tới vật đích kia, như vậy là đạt được mục đích âm dương giao hòa. Một khi đã bị thi triển thuật Quỷ tương, người hay động vật đều không thể làm chủ được cơ thể mình nữa và răm rắp nghe theo sự điều khiển của người khác. Sau này, nhiều người phụ nữ Miêu Tương đã dùng cách này để hành hạ những người đàn ông phụ tình, họ cho chồng mình uống loài cổ trùng này vì cho rằng đã không giữ được trái tim thì nhất quyết giữ chặt thể xác, đây chính là truyền thuyết về yêu nữ Miêu Tương xuất hiện trong lịch sử Trung Quốc.

“Khi nhìn thấy cả đàn nhím xông ra, lại thấy chúng chẳng có vẻ gì sợ người, con biết ngay chúng đã trúng thuật Quỷ tương. Năm nọ, khi cùng bà (Kiều Ngũ Nương) đi thăm một vị Cổ sư ở Hồ Nam, con từng được tận mắt chứng kiến thuật Quỷ tương này. Có người dùng nhím, có người dùng châu chấu, có người lại dùng chuột… Sau khi đã bị khống chế, những loài vật này sẽ trở nên hung hăng khác thường, một thầy cổ trùng cao tay có thể sai khiến chúng làm bất cứ việc gì.”

Những lời Hoàng Pháp Dung nói đều là sự thật. Nhật Bản sau khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược Trung Hoa, bọn đồng cốt cũng bám theo đám quân đội vào thu thập bí kíp thuật Quỷ tương ở khắp Đông Nam Á. Vào thời kỳ xây dựng tuyến đường huyết mạch Điền – Miến (tức tuyến đường nối liền Vân Nam với Miến Điện) trong cuộc kháng chiến chống Nhật năm 1938, bộ binh Nhật không thể tiến sâu vào hậu phương Vân Nam để thực hiện hoạt động phá hoại, chúng liền dùng máy bay ném bom, ngoài bom thông thường còn ném rất nhiều bom sinh hóa (một loại vũ khí sinh học), loại bom này chứa rất nhiều vi khuẩn, nhất là loài cổ trùng đã nói ở trên. Sau khi bom phát nổ, cổ trùng sẽ tản ra khắp các khu rừng trong vùng, lũ tê tê ăn phải sẽ bị bọn thầy cúng người Nhật điều khiển, cứ thế lao ra phá hoại tuyến đường đang được thi công, tạo thành những hố sâu trên đường. Quốc dân Đảng đã phải điều động đám thầy cúng trong vùng đốt một khối lượng lớn ngải cứu mới có thể đuổi được đám này đi, đảm bảo hoàn thành tuyến đường Điền – Miến thuận lợi.

Về ngải cứu, từ xưa, người ta đã biết đến tác dụng khử tà rất hay của nó, mùi ngải cứu cũng là thứ mùi khiến lũ cổ trùng sợ nhất. Khi khói ngải cứu đi vào cơ thể vật chủ, dược tính sẽ phát tán khắp nơi và ngấm sâu vào khiến loài cổ trùng ký sinh bị hóa kiếp ngay. Đương nhiên, khói ngải cứu cũng chỉ có tác dụng đối với loài cổ trùng không nguy hiểm, nếu gặp phải Cổ sư cao tay, dùng thuật Đại Quỷ tương thì cần nhờ đến vài câu thần chú nào đó của nhà Phật mới giũ sạch tâm trí của người đã bị dính bùa.

Sau khi nghe Hoàng Pháp Dung nói về nguồn gốc của thuật Quỷ tương, mọi người mới hiểu rõ điều thần kỳ trong Cổ thuật, bấy giờ mới bắt đầu nhốn nháo bình phẩm.

Tổ Gia trầm ngâm nghĩ, không biết kẻ nào dám chui trong quan tài giở trò, tạo ra cảnh tượng giả mạo quan tài đầy tóc đen, rồi lại thi triển Tiểu Quỷ tương hòng phá hỏng việc hợp hôn?

Ông đang mải nghĩ ngợi thì một tên tay chân vào báo rằng có một người bạn làm trong tòa soạn báo Thượng Hải đến thăm. Tổ Gia cầm đồng hồ quả quýt ra xem, lúc đó đã giờ Tý nửa đêm, chắc chắn có chuyện rồi, liền nói: “Mau mời vào thư phòng đợi ta!”

Người khách đó chính là vị Phó tổng biên tập tòa soạn, họ Ngô, tên Quân Nhiên, là nội ứng trong tòa soạn mà Tổ Gia phải bỏ ra cả đống tiền để mua chuộc, những bài viết ca ngợi Tổ Gia trên báo đều do Ngô Quân Nhiên làm.

Ngô Quân Nhiên chẳng tỏ ra khách sáo, đưa ngay cho ông một tờ giấy nói: “Tổ Gia, ông đọc đi!”

Tổ Gia thót tim khi cầm lên đọc. Đó là một mẩu tin, có tiêu đề Chân tướng trò hợp âm hôn, truyền nhân Thiết Bốc Tử hết đường. Nội dung đại thể nói rằng, bọn Tổ Gia chuyên lừa đảo ở Giang Hoài bao năm nay, gần đây giả thần giả quỷ làm lễ hợp hôn cho người cõi âm, kết quả khiến trời nổi cơn thịnh nộ, người oán hận thấu xương, nên vào ngày chôn cất, Bạch tiên kéo đến quấy phá, cắn nát quan tài, xương cốt vung vãi khắp mặt đất.

“Tin này có từ lúc nào?” Tổ Gia hỏi Ngô Quân Nhiên.

“Tin này vốn sẽ được phát vào ngày mai, nhưng trước lúc đem đi in đã bị hủy. Việc này đều do Tổng biên tập đích thân dàn xếp, ngay cả tôi cũng không biết gì. Tòa soạn quy định rõ, những tin được phát hành vào ngày hôm sau thì phải chuẩn bị sẵn sàng từ hôm trước, sau đó đem đi in suốt đêm, để buổi sáng giao đi khắp phố. Mỗi biên tập viên sẽ phụ trách một mảng, thu thập và cung cấp bản thảo, tin bài của mảng mình phụ trách, những bản thảo bị thu hồi ngay khi sắp được phát hành đều bị tiêu hủy hết, may mà chỗ thu hồi có người của tôi, anh ta đã đưa bản này cho tôi. Tôi thấy chắc hẳn đã xảy ra chuyện, nên vội vàng đến báo cho Tổ Gia một tiếng.” Ngô Quân Nhiên nói.

Tổ Gia nghe xong, thở dài: “Xem ra chúng đã ủ mưu từ lâu rồi.”

Ngô Quân Nhiên hỏi: “Ủ mưu từ lâu?”

Tổ Gia nói: “Hôm nay ta làm lễ hợp âm hôn, quả đúng là có cả đàn nhím kéo đến phá, nhưng đã bị ta hóa giải rồi. Cho nên, bài viết này mới bị hủy đi. Kẻ nào đã đưa bài này đến tòa soạn? Có thể điều tra ra hắn không?”

Ngô Quân Nhiên nói: “Tôi hỏi rồi, nghe nói do đích thân Tổng biên tập đưa!”

“Đích thân hắn?” Tổ Gia cảm thấy sự việc càng ngày càng nghiêm trọng.

Sau khi đưa cho Ngô Quân Nhiên mấy chục đồng bạc trắng, Tổ Gia thì thầm vài câu với anh ta, Ngô Quân Nhiên lẳng lặng quay về tòa soạn.

DỊCH SỐ TAM THỨC

Sau khi tĩnh tâm lại, Tổ Gia quay lại Đường hội, nói: “Từ giờ mọi người phải đề cao cảnh giác, có kẻ ngầm giở trò sau lưng chúng ta.”

Nhị Bá đầu sừng sộ: “Mẹ kiếp! Có giỏi thì đường đường chính chính làm một trận!”

Tổ Gia không nói gì, đưa mắt nhìn các Bá đầu còn lại đang ngồi nguyên tại chỗ, đề phòng kẻ khác không bằng cảnh giác giặc trong nhà, vụ quan tài đầy tóc đen rõ ràng là có người đã tiết lộ chuyện cơ mật của Đường khẩu, nên đối phương mới có thể bố trí phối trong hợp ngoài như thế. Nhìn các Bá đầu vẫn cái vẻ đạo mạo hiên ngang ngồi đây, trông ai cũng giống người, mà lại chẳng phải người.

Phái Giang Tướng có rất nhiều điều cấm kỵ, tất cả đều được ghi rõ trong Trát phi mật bản, đây đều là chuyện vô cùng cơ mật của Đường khẩu. Đại kỵ hữu tam, tiểu kỵ hữu ngũ. Đại kỵ chính là ba việc sẽ phải mất đầu mà không một ai dám làm, tiểu kỵ là trừ khi Đường khẩu nghèo đến nỗi không có gì ăn, nếu không tuyệt đối không được phép làm, còn khi làm cũng phải hết sức thận trọng, sau khi xong phải tích cực làm việc thiện, để mong hóa giải được nạn tai.

Ba việc đại kỵ đó là: Ô phát già quan bất khả trát, thiên niên cổ thụ bất khả động, miếu vũ đạo đài bất khả hủy.

Ô phát già quan bất khả trát. Chính là tình huống tóc mọc trong quan tài mà Tổ Gia vừa gặp phải.

Thiên niên cổ thụ bất khả động. Những cây cổ thụ nghìn năm tuổi rất linh thiêng, đa phần đều có quỷ thần canh giữ, tuyệt đối không được phép động vào. Quan lại khi cho sửa đường, nếu gặp phải cây cổ thụ thì thà đi vòng qua chứ tuyệt không dám chặt. Năm xưa, Tào Mạnh Đức (tức Tào Tháo) uy phong lẫm liệt không ai bì nổi đã không tin chuyện tà ma, liền vung kiếm chặt đổ cây lê trăm tuổi, kết quả bị trúng phong, xuất huyết não mà chết.

Miếu vũ đạo đài bất khả hủy. Chùa miếu, đạo quán đều là chốn thanh tu, người xuất gia thờ Tam Bảo, cúng Tam Thanh, là những bậc đại thiện, là cha mẹ chúng sinh trong thiên hạ. Nếu ngay cả những nơi này cũng dám giày xéo thì thật đúng là tội đáng chết. Cho nên phái Giang Tướng chưa từng dám phá hủy một kiến trúc tôn giáo nào, càng không dám phá tượng Phật, dỡ ban thờ thần linh.

Năm điều tiểu kỵ đó là:

Nhất kỵ ô vân già nguyệt hợp âm hôn. Khi mây đen che kín mặt trăng, nếu có mèo, chó đến quấy phá, sẽ gây ra hiện tượng xác chết vùng dậy, cho nên các A Bảo phải đặc biệt chú ý tình huống này.

Nhị kỵ lôi vũ giao gia điểm long mạch. Khi xem phong thủy cho người ta, các A Bảo sẽ cầm la bàn đi quanh núi, đây gọi là tầm long điểm huyệt, nếu lúc này đột nhiên trời âm u thì phải nhanh chóng thu dọn, tạm thời không tìm nữa, vì người xưa cho rằng trời mưa có liên quan đến Long Vương. Khi trời mưa, tức Long Vương đã tới, anh còn dám điểm huyệt ông ta, chẳng phải muốn chết hay sao?

Tam kỵ Thái Tuế đầu thượng lai động thổ. Người xưa nói, Lưu niên là năm có sao Thái Tuế chiếu, Lưu niên do thiên can và địa chi kết hợp với nhau mà thành. Thiên can và địa chi lại kết hợp với ngũ hành, bát quái và phương vị, cho nên trong mỗi năm khác nhau sao Thái Tuế sẽ ở phương vị khác nhau, khi các A Bảo điều chỉnh phong thủy cần phải hết sức ghi nhớ không được phép động thổ ở phương vị có sao Thái Tuế, nếu không sẽ xung khắc Thái Tuế, dẫn đến tai họa ngập đầu.

Tứ kỵ nhất cục tàn sát chúng sinh linh: Các A Bảo dàn cục, có lúc phải sát sinh, giết vài con gà con chó thì không phải bàn đến làm gì, nhưng có lúc vì dàn cục lớn sẽ phải sát sinh hàng loạt, như khi dàn cục huyết tế. Đây là việc rất kỵ, vì sẽ khiến kẻ sát sinh đoản mệnh, việc Kiều Ngũ Muội dàn đại cục dụ cá đã phạm vào điều cấm kỵ này.

Ngũ kỵ đăng hoa tự diệt thứ nhật hành. Thời xưa chưa có đèn điện, người ta phải dùng đèn dầu hoặc nến để có ánh sáng. Khi các A Bảo lập mưu, lên kế hoạch dàn cục, vào buổi tối trước ngày hành động, nếu ngọn đèn trên bàn đột nhiên bị tắt phụt, hoặc đèn lồng treo trước cửa bị tắt vô cớ, đều bị coi là những điềm không tốt lành. Người xưa thường nói, “đèn tự vụt tắt báo hiệu có tang”, lúc này, bất kể vụ dàn cục quan trọng thế nào, có thể kiếm được bao nhiêu tiền, đều phải dừng tay.

Cuốn Trát phi mật bản là bảo vật trấn trạch của Đường khẩu, các A Bảo đẳng cấp khác nhau sẽ được truyền thụ nội dung khác nhau, bọn tay chân chỉ được biết phần râu ria bên ngoài, các Bá đầu có thể được tiếp cận đến những thứ ở tầng cấm kỵ và một vài phương pháp Trát phi cao siêu, những người đọc thông cuốn sách này chỉ có Tổ Gia và Trương Tự Triêm; Hoàng Pháp Dung là một trường hợp ngoại lệ, vì khi còn ở Việt Hải Đường, bà đã là “Linh muội” của Đường khẩu, chuyên phụ trách những việc liên quan đến quỷ thần, bởi vậy sau khi đến làm dâu Mộc Tử Liên, những việc này cũng chẳng thể giấu được bà. Tổ Gia vì vậy mới để cho bà và Trương Tự Triêm cùng phụ trách công việc chỉnh lý Trát phi mật bản.

Nhìn các vị Bá đầu, Tổ Gia lại liên tưởng đến cái chết của Trương Kế Nghiêu. Bất giác ông rùng mình, ông không thể không nghĩ đến sự an nguy của chính mình.

Tổ Gia lườm Nhị Bá đầu một cái, rồi quay người nói với Tề Xuân Phúc: “Lão tứ, ý kiến thế nào?”

Tề Xuân Phúc nói: “Tổ Gia, theo tin tức mà chúng ta nắm được, chuyện Mai Huyền Tử biến thành tiên là giả, Trương Kế Nghiêu chết là thật, vùng Giang Hoài thiên hạ chia ba, Trương Kế Nghiêu chết rồi, Mai Huyền Tử là kẻ đáng ngờ nhất.”

Hoàng Pháp Dung ngẩng đầu lên định nói. Nhưng bà chỉ là hạng chân tay, không được Tổ Gia cho phép, không được tùy tiện phát biểu. Đương nhiên, chi tiết nhỏ này không lọt qua được mắt Tổ Gia, nhưng ông không cho bà nói.

Tam Bá đầu lên tiếng: “Nếu Mai Huyền Tử muốn nhất thống thiên hạ thì tại sao khi Đường chủ Thiên Thánh Đạo Trương Kế Nghiêu chết, ông ta lại không thừa cơ sấn đến mà vẫn để cho đại đồ đệ của Trương Kế Nghiêu là Tả Vịnh Thiền thế chỗ rất hợp lẽ, không hề gây ra đại loạn trong Thiên Thánh Đạo. Hình như hai tên này ngấm ngầm giao kèo với nhau.”

Tổ Gia cười: “Ta chưa thấy ông hồ đồ bao giờ.”

Đại Bá đầu xen vào: “Nghĩa là, cái chết của Trương Kế Nghiêu quá mập mờ, chỉ Tả Vịnh Thiền mới là người rõ nhất.”

Hoàng Pháp Dung lại định nói, nhưng Tổ Gia vẫn chưa cho bà cơ hội.

Tổ Gia đưa mắt nhìn Ngũ Bá đầu: “Ý lão ngũ thế nào?”

Lão ngũ Lương Văn Khâu lắc đầu: “Tổ Gia, thứ lỗi cho lão không rõ đầu đuôi, mắt lão kèm nhèm, không nhìn ra được.”

Đúng lúc còn chưa rõ thực hư thế nào, Mai Hoa Hội lại tung thêm động thái mới, Mai Huyền Tử tuyên bố mình đã luyện thành công Dịch số tam thức.

Dịch số tam thức là kỹ pháp đặc biệt, có thể cách không thủ vật4, xuyên tường độn thổ5, tịch cốc6. Đây là ba phép thuật cao siêu nhất trong huyền học mà một kẻ tu theo Đạo gia đều muốn lĩnh hội được. Vô số những người mộ đạo muốn tu luyện thành tiên trong lịch sử đều theo đuổi ba loại phép thuật này, nhưng thật sự đắc đạo chỉ lác đác đôi ba người.

Theo tài liệu lịch sử ghi chép, Dịch số tam thức đã phát triển đạt đến mức hoàn chỉnh nhất vào thời Tam Quốc.

Cuối thời Đông Hán, vùng Lư Giang có một đạo nhân (người tu tập Đạo gia) tên là Tả Từ. Tào Tháo nghe nói người này vô cùng lợi hại nhưng không tin. Một hôm, ông ta cho mở tiệc chiêu đãi văn võ bá quan, cũng phái người mời Tả Từ đến.

Tại bữa tiệc, Tào Tháo cố ý muốn thử phép thuật của Tả Từ, liền nói: “Hôm nay ta mở tiệc lớn, các món sơn hào hải vị trong thiên hạ đều đủ cả, chỉ thiếu mỗi loài cá sạo trên sông Ngô Tùng (sông Tô Châu ngày nay). Tiên sinh có cách nào mang nó về không?”

Tả Từ cười lớn: “Thừa tướng, việc này có khó gì? Để tôi làm phép cách không thủ vật, chỉ cần duỗi tay ra là có thể lấy được cá trên sông cách xa nghìn dặm.”

Tào Tháo sững người.

Tả Từ lấy một cái thau đồng, giơ lên cao, miệng đọc thần chú, rồi lật ngửa ra, một con cá sạo dài chừng một tấc nhảy ra, còn tươi roi rói.

Tào Tháo vỗ tay cười lớn, rồi lại nói: “Cá sạo thì tươi roi rói, mà lại thiếu gừng đất Thục!”

Tào Tháo nghĩ: Vừa rồi chắc Tả Từ đã dùng chiêu trò để qua mắt ông ta, chắc chắn đã giấu cá trong tay áo từ trước, ta muốn miếng gừng tươi của nước Thục cho phải vị, xem ngươi sẽ biến phép thế nào!

Tả Từ giơ tay vuốt chòm râu dài, nói: “Thừa tướng đợi một chút, tôi đến đất Thục, thoáng chốc quay về ngay.”

Dứt lời, bụi đất ùn lên, vù một cái Tả Từ chui xuống đất, đi xuyên qua núi, băng qua huyệt đạo, thay hình đổi dạng, thoắt cái đã từ đất Thục trở về, tay cầm một nắm gừng dâng lên Tào Tháo: “Thừa tướng, xin mời!”

Tào Tháo ngây người ra. Đám khách khứa đều kinh ngạc.

Tào Tháo lập tức sai người bắt trói Tả Từ, tống vào đại lao, đến lúc ấy vẫn cho rằng Tả Từ đã dùng tà thuật để đùa giỡn mình. Sau đó, mỗi ngày chỉ cho Tả Từ hai bát nước, Tào Tháo nói với thủ hạ: “Ta nghe nói người này có thể chẳng cần ăn gì cũng vẫn sống được đôi ba năm.” Ông ta muốn xem trên đời này đúng là có trò tịch cốc hay không.

Kết quả, hai năm sau, Tào Tháo cho người thả Tả Từ ra, sắc mặt ông vẫn hồng hào, dáng dấp chẳng khác trước đây, không hề có biểu hiện đau ốm gì.

Lúc này, Tào Tháo mới tâm phục khẩu phục nói với Tả Từ: “Tiên sinh à, A man muốn học được những bản lĩnh này.” Tào Tháo tự xưng là “A man”, thể hiện rõ bản chất xảo quyệt khiến người ta líu lưỡi vì sợ.

Tả Từ cười lớn: “Thừa tướng là người phú quý, lại bị trói buộc trong vòng danh lợi, há có thể học đạo?”

Tào Tháo nhận ra rằng, không thể dùng được con người này mà phải giết ngay, liền ra lệnh giết hại Tả Từ.

Tả Từ sớm đã biết Tào Tháo lòng dạ hiểm ác, liền độn thổ trốn, về sau ẩn cư ở Giang Nam, rồi thu nhận Cát Huyền làm đồ đệ, Cát Huyền chính là Thái Cực Tiên Ông tiếng tăm lừng lẫy trong Đạo giáo. Tả Từ thọ đến 134 tuổi, rồi hóa tiên.

Đây chính là những ghi chép hoàn chỉnh nhất liên quan đến Dịch số tam thức trong lịch sử. Nay, Mai Huyền Tử lại vin vào Dịch số tam thức hòng giở trò bịp bợm, ngang nhiên lôi kéo quần chúng tin theo, không biết trong cái hồ lô của lão bán thứ thuốc gì.

Điều quan trọng hơn cả là Mai Hoa Hội năm lần bảy lượt gây rối khiến Mộc Tử Liên càng ngày càng khó kiếm được miếng ăn. Quần chúng nhân dân đều tin Mai Huyền Tử, không còn ai đi tìm Tổ Gia xem tướng số nữa. Nếu cứ như thế, e rằng phái Giang Tướng chẳng còn mảnh đất cắm dùi ở đất Giang Hoài này nữa.

Tổ Gia biết rõ, Mai Huyền Tử là người thận trọng, nhưng gần đây lại đổi khác hoàn toàn. Vậy nên, cần phải bình tĩnh, xâu chuỗi lại tất cả để suy nghĩ cho thật thông suốt, thấu đáo.

Sau khi Đường hội giải tán, Tổ Gia cho tất cả mọi người lui xuống. Còn mình đi vào thư phòng, quản gia pha cho ông một ấm trà Long Tỉnh, ông ngồi một mình vừa uống vừa ngẫm.

Lúc canh hai, quản gia báo có Hoàng Pháp Dung xin gặp. Tổ Gia đoán thế nào bà cũng sẽ tới, chỉ bất ngờ là Trương Tự Triêm không đi cùng.

Sau khi hành lễ trước Tổ Gia, Hoàng Pháp Dung liền ngồi xuống, nói: “Tổ Gia, con có vài thiển kiến, khi họp đường hội không dám mở miệng.”

Tổ Gia nói: “Không phải không dám, mà là ta không cho ngươi nói.”

Hoàng Pháp Dung cười: “Tổ Gia, con thấy việc quan trọng nhất trước mắt là làm rõ tình hình bên chỗ Mai Huyền Tử, không biết người chúng ta cài cắm bên đó thế nào?”

Tổ Gia nói: “Không thấy tin gì! Chúng ta cài tai mắt trong hàng ngũ của người ta, người ta cũng cài tai mắt trong hàng ngũ của mình, bao nhiêu năm nay vẫn giơ mặt tranh giành nhưng ngấm ngầm đấu đá, đây đã chẳng còn là bí mật nữa. Quan trọng là, kẻ nào phát hiện ra giặc trong nhà mình trước, khử hoặc ép được hắn làm phản thì kẻ đó sẽ đi trước. Mấy năm nay, vì việc này mà chúng ta đã mất ba người rồi, ta thấy sắp đến lượt người thứ tư.”

Hoàng Pháp Dung nói: “Ý Tổ Gia là người mà ta cài vào bên đó đã bị ép làm phản ư? Hắn chơi hai mang?”

Tổ Gia nhìn bà ta hỏi: “Ngươi nghĩ sao?”

Hoàng Pháp Dung nhìn Tổ Gia, nói: “Có hai khả năng, một là người của ta đã bị ép làm phản, hai là có giặc trong nhà. Nếu không, không thể có chuyện trùng khớp như vậy được. Quan tài tóc đen là điều đại kỵ của phái Giang Tướng, rõ ràng đối phương biết tỏng chúng ta kỵ dàn cục này, thế mà vẫn đâm thẳng vào chỗ hiểm đó, ép chúng ta phải xuất chiêu; sau đó dùng Tiểu Quỷ tương vào ngày chúng ta làm lễ hợp âm hôn, quấy phá hiện trường; lại còn chuẩn bị sẵn tin cho đăng báo, hòng bôi nhọ thanh danh của chúng ta! Làm như vậy, không chỉ khiến người dân vùng Giang Hoài nghi ngờ bản lĩnh thật sự của Tổ Gia, từ đó đủ để hạ thấp uy tín của Mộc Tử Liên, mà còn khiến các Bá đầu trong nội bộ phái Giang Tướng nghĩ rằng, tại Tổ Gia phạm vào điều cấm kỵ của tổ tông, làm cho quỷ thần nổi giận, đẩy Đường khẩu vào cảnh khốn khó như bây giờ. Xem ra, chiêu này đúng là một mũi tên trúng hai đích. Nhưng chúng lại không lường được rằng, chúng ta đã phát hiện ra trò mèo đó, lại còn phá giải được thuật Quỷ tương. Cho nên, tới bước này thì chúng thua rồi.”

Chỉ trong khoảnh khắc, Tổ Gia chợt nhận ra, con nhóc đang đứng trước mặt mình đây trưởng thành rồi, đã biết nhìn nhận vấn đề đâu ra đấy. Tổ Gia bất giác thầm nghĩ: Mình làm mối đám này, xem như có thể tạ lỗi với vong linh của cha mẹ Trương Tự Triêm ở trên trời rồi. Có Hoàng Pháp Dung chăm sóc, đời này Trương Tự Triêm nhất định sẽ được hạnh phúc. Nghĩ đến đây, Tổ Gia mỉm cười, lòng nhẹ nhõm hẳn.

“Ngươi thấy bước tiếp theo chúng ta phải làm gì?” Tổ Gia hỏi.

Hoàng Pháp Dung đáp: Thiên Thánh Đạo và Mai Hoa Hội đều đang mở rộng cửa chiêu dụ tín đồ, chúng ta có thể nhân cơ hội này sắp xếp mấy người mới trà trộn vào nội bộ của chúng. Đồng thời, những cuộc họp quan trọng của Đường khẩu cần phải tinh giản thành viên tham dự, vì hiện giờ chúng ta chưa rõ rốt cuộc trong nhà có kẻ làm phản hay không.”

Tổ Gia lại cười. Ông bắt đầu nhìn con nhóc đến từ Việt Hải Đường này bằng con mắt khác. Hơn một năm nay, Hoàng Pháp Dung và Trương Tự Triêm đã gợi cho ông rất nhiều ý hay. Ý định cất nhắc hai vợ chồng họ cũng là việc ông đang xem xét.

Hoàng Pháp Dung thấy Tổ Gia cười, biết mình đã nói trúng tâm ý ông nên cũng cười rất tươi.

Tổ Gia liền chuyển chủ đề: “Tự Triêm đang bận việc gì?”

Hoàng Pháp Dung cười nói: “Đang xông ngải cứu.”

“Nó ốm à?”

Hoàng Pháp Dung nói: “Dạ không phải. Chỉ là bệnh lo xa thôi. Chẳng là mấy ngày trước, anh ấy và Nhị Gia đến xem tử thi của cô gái mọc đầy tóc trong quan tài, lúc đó anh ấy đã lấy trộm về hai sợi tóc, bây giờ biết được đối phương dùng Tiểu Quỷ tương, anh ấy sợ bọn họ thả cổ trùng vào quan tài, còn mình đã sờ vào đầu cô ta có thể sẽ bị lây.”

Tổ Gia nói: “Chẳng phải ngươi đã nói rồi sao, thuật Quỷ tương dùng nguyên lý âm dương thu hút nhau, trên người lũ nhím đều là cổ trùng động giống đực, còn trong quan tài chắc chắn là toàn cổ trùng tĩnh giống cái. Chỉ cần không cho âm dương giao hòa thì cổ trùng không thể phát huy tác dụng còn gì.”

Hoàng Pháp Dung nhếch môi cười: “Anh ấy nhát chết, con đã nói rồi không nghe, đang ở nhà châm cứu huyệt Túc tam lý đó.” Nói xong, Hoàng Pháp Dung thở dài. “Giá mà anh ấy gan dạ được như Tổ Gia thì tốt.”

Tổ Gia cười sảng khoái, nói: “Không dạy được chồng, bởi vợ biếng nhác, cần phải xem lại ngươi.”

Hoàng Pháp Dung đang định tiếp lời, không ngờ Tổ Gia lại chuyển chủ đề: “Ngươi tinh thông Kỳ môn từ nhỏ, ta hỏi ngươi, trên đời này liệu có đạo thuật huyền môn thật không? Ví như thuật: cách không thủ vật, xuyên tường độn thổ, tịch cốc…”

Cặp mắt to của Hoàng Pháp Dung chợt lóe lên, đang định trả lời, đột nhiên quản gia chạy vào bẩm: “Bên ngoài có người xin gặp, ông ta nói là người của Cửu gia!”

Tổ Gia giật mình, vội nói: “Mau mời vào!” Rồi ông đưa mắt ra hiệu cho Hoàng Pháp Dung. Hoàng Pháp Dung liền quay người đi vào thư phòng.

TẢ VỊNH THIỀN TỚI THĂM

Khi quản gia dẫn người kia vào, Tổ Gia thoạt nhìn nghĩ ngay, nào phải người của Cửu gia gì, rõ ràng là ông Giáo đầu của Tinh Võ Môn. Người này họ Tăng, tên Kính Võ, từng nhiều lần tỏ ra ngưỡng mộ danh tiếng và đến bàn luận về tiêu pháp (cách dùng phi tiêu) với Tổ Gia.

Tăng Kính Võ chắp tay nói với Tổ Gia: “Tổ Gia, đêm hôm tới thăm, quấy quả ông rồi.“

Tổ Gia cười nói: “Tăng Giáo đầu trước giờ ‘vô sự bất đăng Tam Bảo điện, lần này tới đây có gì chỉ giáo?”

Tăng Kính Võ nghiêm mặt nói với Tổ Gia: “Tổ Gia, sự thể hơi căng, tôi không vòng vo nữa. Tôi chính là người chỗ Cửu gia, thân phận võ sư trong Hội quán Tinh Võ chỉ là vỏ bọc, tôi ẩn náu trong hội nhằm mục đích phát triển thêm nhiều hội viên cho Hội quán Tinh Võ để gia nhập vào đội quân kháng Nhật, đương nhiên chúng tôi cũng đã chọn ra một vài thân sĩ ái quốc có tâm huyết vào làm môn hạ của Cửu gia. Nay Quốc dân Đảng và người Nhật đều đang lùng sục tìm Cửu gia, tình cảnh Cửu gia rất nguy khốn, phải rời khỏi Giang Hoài một thời gian, sau này Tổ Gia có việc gì cứ đến thẳng Hội quán Tinh Võ tìm tôi.”

Nói xong, Tăng Kính Võ lấy từ trong người ra một lá thư: “Cửu gia căn dặn tôi phải tận tay đưa cho ông.”

Tổ Gia sững người, thì ra vị Tăng Giáo đầu thường xuyên cùng ông bàn luận về võ nghệ này lại chính là học trò của Cửu gia. Xem ra, Cửu gia một mặt giúp đỡ mình, mặt khác cũng muốn quan sát biểu hiện của mình, nghĩ đến đây, Tổ Gia thấy dựng tóc gáy.

Tổ Gia mở thư ra xem, vừa đọc đã toát mồ hôi! Đây là chuyện vô cùng hệ trọng, nếu thành công sẽ làm kinh động đến cả thế giới!

Vương Á Tiều tự tay viết:

Quan Sinh đệ,

Ngu huynh xuất thân nghèo hèn, thường dân áo vải, nhưng chưa lúc nào dám nguôi nỗi lo cho đất nước. Từ khi ngọn cờ cách mạng Tân Hợi được kéo lên tới nay, dòng Giang Tây chìm trong sương khói than khóc như mưa, giang sơn đất Bắc chẳng còn, đường đường là nước Trung Hoa mà không thể kẹp chết bầy giặc Nhật lang sói. Giương mắt nhìn đất Hoa Hạ chìm trong đau thương mà rơi lệ, ta thề đem thân này giúp nước, đem sức của kẻ nho sinh yếu nhược mà gánh vác công lý đang gặp buổi thăng trầm. Ta từng Bắc trạm thích Tống, Lư Sơn thích Tưởng7, tham gia kháng chiến Tùng Hộ, ném bom bắn nát thi thể Yoshinori, xả thân quên mình, thấm thoắt đã 20 năm, chẳng oán thán chẳng run sợ. Kẻ ngu tối sao hiểu được chí nam nhi cứng rắn kiên cường, miếu đường trên cao chẳng soi tỏ cảnh nước nhà đã mất. Người ta đều bảo, thế nhân sợ ma quỷ, ma quỷ sợ Á Tiều, ngu huynh cả đời chỉ muốn thức tỉnh lòng nhiệt huyết của trai gái Hoa Hạ, cuối cùng mang cái tiếng ngang hàng quỷ dữ. Đau đớn thay! Bi ai thay!

Năm Dân quốc thứ 68, lần đầu quen biết đệ, đệ lạc vào Giang Tướng âu cũng là ý trời đã định. Hiền đệ luôn biết làm theo luân thường, thay trời hành đạo, là đấng nam nhi! Số ta và đệ đều phải “vào rừng làm cướp”, tuy cách biệt phương trời mà rất hợp ý tâm đầu.

Nay, giặc Nhật tràn tới, đất nước lâm nguy, cục diện trước mắt nội chiến liên miên không dứt, những việc trái đạo trời tất sẽ bị cả nước căm hận, huynh không biết tự lượng sức mình, lại muốn mưu việc lớn tại Nam Kinh, chặt đầu ba tên Hán gian thề rửa nhục cho đất nước, lấy thân mình mang chính nghĩa chiếu khắp Hoa Hạ. Việc này không thành công cũng thành nhân, nếu ngu huynh gặp điều bất trắc, đệ hãy nén đau thương, tiếp bước chí lớn của ta, dưới suối vàng ta xin cảm tạ!

Kính Võ là đàn em của ta, can đảm, nhân nghĩa, tin tức ở tuyến bắc đều do đệ ấy lo, hãy giữ liên lạc thường xuyên.

Cầm bút lên, đau lòng rơi lệ, tình huynh đệ, nhắm mắt chẳng quên. Đệ hãy bảo trọng!

Ngu huynh Á Tiều

Giờ Hợi ngày Canh Tý

Tổ Gia đọc xong, lòng nặng trĩu. Ông vô cùng kính trọng Vương Á Tiều, giờ đây ông ấy bị dồn ép đến nỗi không có chốn ẩn thân, còn mình lại không thể giúp được gì, nghĩ đến đây, Tổ Gia tự trách bản thân mình. Đáng sợ hơn nữa, Vương Á Tiều lại muốn ám sát Tưởng Giới Thạch lần nữa, ngộ nhỡ sẩy tay, hậu quả khó mà tưởng tượng nổi, rất có thể sau này không còn được gặp vị Cửu gia này nữa.

Bao nhiêu năm nay, Vương Á Tiều đã chăm lo cho Tổ Gia rất nhiều, mỗi khi Tổ Gia gặp chuyện, ông ấy liền giang tay trợ giúp, ân tình lớn này, không biết dùng lời nào kể hết.

Tổ Gia liền sai quản gia mài mực, chấp bút hồi đáp. Tổ Gia kể rõ hoàn cảnh khốn cùng của mình, đồng thời dường như là giọng điệu khẩn khoản thỉnh cầu, mong Vương Á Tiều hành sự cẩn trọng. Cuối cùng, trước khi dừng bút, Tổ Gia nhấn mạnh: “Thế gian vô số bậc anh hùng, Quan Sinh chỉ quen biết Vương Á Tiều, Cửu gia xin hãy bảo trọng, Trung Hoa may mắn thay!”

Sau khi viết xong, nước mắt cũng chảy tràn trên khuôn mặt, ông liền đưa lá thư cho Tăng Kính Võ. Tăng Kính Võ thi lễ cáo lui.

Tổ Gia lặng thinh ngồi trên ghế, tâm trí rối bời. Họ đúng là những người anh em cùng chung số mệnh, Cửu gia bị người Nhật bức ép tới mức không còn đường nào đi được, còn bản thân ông cũng đang bị các hội đạo môn ở Giang Hoài dồn vào chân tường…

Hoàng Pháp Dung bưng một chén trà đi tới, Tổ Gia thấy có người vào thì vội vàng lau những giọt nước mắt còn đọng nơi khóe mắt. Hoàng Pháp Dung đưa cho ông một chiếc khăn tay, Tổ Gia chẳng nghĩ ngợi, cầm lấy lau nước mắt rồi mới chợt nhận ra một mùi hương khác lạ nơi chiếc khăn tay, Tổ Gia sững người nhận ra Hoàng Pháp Dung, liền xua tay nói: “Ngươi lui đi!”

Hoàng Pháp Dung thưa: “Vâng”, rồi quay người đi ra, ra đến cửa liền ngoảnh lại nói: “Tổ Gia như vậy, Pháp Dung nhìn thấy thì không sao, nhưng đừng để cho các huynh đệ trông thấy.” Nói rồi bước ra ngoài.

Tổ Gia nhìn theo bóng bà ta, sắc mặt nặng trĩu.

Hoàng Pháp Dung vừa đi khỏi được một lúc, tiếng gõ cửa lại vang lên. Quản gia vào bẩm báo rằng, chưởng môn mới nhậm chức của Thiên Thánh Đạo là Tả Vịnh Thiền đến thăm. Tổ Gia ruột gan bồn chồn, sao hắn lại đến?

Tả Vịnh Thiền ít hơn Tổ Gia vài tuổi, người nhỏ thó, mặt hoẵng mắt chuột, râu dài hình chữ bát, nhìn từ xa, chẳng khác gì một con chuột chù. Nhưng thằng cha đó lại tinh khôn lạ thường, giỏi ăn nói, cầm đầu cả nghìn đệ tử ở Giang Hoài. Tả Vịnh Thiền là đại đệ tử của Trương Kế Nghiêu, đứng đầu mười trượng, nên được gọi là thủ trượng, đi cùng còn có hai tên thanh y.

Tổ Gia sai người rót trà, sau thoáng rùng mình, ông hỏi: “Tả chưởng môn đêm khuya tới thăm, có gì chỉ bảo?”

Tả Vịnh Thiền cười nói: “Thầy tôi hóa thành tiên, Vịnh Thiện bất tài, được các huynh đệ tôn lên kế thừa y bát của thầy. Khi thầy tôi còn sống vẫn thường qua lại thân thiết với Tổ Gia, nay tôi theo lệnh thầy, giữ gìn mối giao hảo giữa hai nhà. Hôm nay tới đây, cốt là giúp gỡ bỏ mối nguy lo canh cánh trong lòng Tổ Gia!”

Tổ Gia chột dạ, nhưng vẫn tỏ vẻ bình thản, cười khà khà: “Đâu dám, đâu dám, Trương Gia đắc đạo thành tiên là việc rất đỗi vui mừng, mong Trương Gia không bỏ mặc chúng sinh, về trời vẫn một lòng từ bi hạnh nguyện, phù hộ cho hương hỏa hai nhà chúng ta được phát vượng! Tả chưởng môn là cao đồ của Trương Gia, có thể cai quản Thiên Thánh một phương, càng là phúc của dân chúng Giang Hoài.”

Tổ Gia đang chơi thái cực quyền, cố lánh nặng nương nhẹ, tránh đi thẳng vào vấn đề.

Tả Vịnh Thiền cười ha hả: “Người ta đều nói Tổ Gia rất mực điềm đạm, ung dung, đứng trước nguy nan chẳng hề run sợ, nay được chứng kiến, quả danh bất hư truyền! Tổ Gia có biết vụ quan tài tóc đen là do ai làm không?”

Thấy Tả Vịnh Thiền đã nói toạc ra vậy, Tổ Gia cũng chẳng vòng vo nữa, nụ cười trên mặt liền biến mất, ông nói: “Các đạo môn ở vùng Giang Hoài nhiều vô kể, bỉ nhân không biết đã đắc tội với vị Bồ tát nào, để họ phải làm ra chuyện xấc xược thế!?”

Tả Vịnh Thiền liếc nhìn Tổ Gia một cái, nói: “Chính là Mai Huyền Tử đấy!”

Tổ Gia cúi đầu nói: “Xin Tả chưởng môn minh thị!” Câu này ý rằng, ông nói vậy thì tôi biết vậy, nhưng làm sao ông biết, đầu đuôi sự việc như thế nào?

Tả Vịnh Thiền đưa mắt nhìn đám người đứng xung quanh, Tổ Gia xua tay một cái, người quản gia và hai tên thanh y đứng bên cạnh Tả Vịnh Thiền đều lui hết xuống. Tả Vịnh Thiền nói rất nhỏ, Tổ Gia chăm chú lắng nghe.

ĐÈN LỒNG TRÊN TƯỜNG

Canh ba, Tả Vịnh Thiền ra về. Tổ Gia nằm trên giường ngẫm nghĩ, những lời Tả Vịnh Thiền nói khiến ông trằn trọc suốt đêm không sao chợp mắt được.

Ngày hôm sau, tờ Hộ Báo (báo Thượng Hải) cho đăng dòng tin: Lễ cúng cô hồn ngày Rằm tháng 7 sắp đến, đại sư Mai Huyền Tử muốn thắp đèn quỷ bên bờ sông Hoàng Phố vào đêm trăng tròn siêu độ cho các vong hồn ở vùng Giang Hoài. Đồng thời còn nói: Tự cổ chí kim, ngoài đại sư Trương Đạo Lăng thời Đông Tấn ra, chỉ Mai Huyền Tử có được bản lĩnh này.

“Tự cổ chí kim”, thật quá vọng ngôn! Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa đến năm Dân quốc thứ 239, có biết bao nhiêu chuyện ân ân oán oán, phải trái trắng đen, những cuộc chiến tranh, những cuộc chém giết, ám sát, tự sát, chết vì tình… Những hồn ma bóng quế này mà tập trung cả về sông Hoàng Phố, lại chẳng chen lấn xô đẩy người ta rơi hết xuống sông hay sao?

Mai Huyền Tử à Mai Huyền Tử, cứ cho là sau lưng ông có người chống lưng, ông cũng không nên ngông cuồng đến vậy chứ! Tổ Gia giận điên người, nghiến răng nghiến lợi nghĩ.

“Điên! Đúng là điên rồ!” Tam Bá đầu chửi đổng.

Mặt Tổ Gia nặng trình trịch, sau đó nói với Tam Bá đầu vài câu, ông ta vâng lệnh đi ra.

Mấy hôm sau, vào tối rằm tháng 7, sau khi cải trang, Tổ Gia dẫn theo bốn người là Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu, Trương Tự Triêm và Hoàng Pháp Dung đến chỗ Mai Huyền Tử sẽ làm phép bên bờ sông Hoàng Phố. Hàng trăm người chen nhau tụ tập trên bờ, người của Bộ tư lệnh Cảnh vệ và người của Phòng Tuần bổ cũng tới, còn có một vài thành viên quan trọng trong chính phủ nữa, trông trận thế khá hoành tráng.

Giờ Tuất, mặt trời lặn hẳn, mặt trăng ló ra đằng Đông, nước sông phản chiếu ánh trăng lấp lánh, đúng là một đêm trăng tuyệt đẹp!

Vài tiếng trống gióng lên, đại đồ đệ của Mai Huyền Tử dõng dạc hô: “Đãng đãng thiên môn vạn cổ khai, kỷ nhân quy khứ kỷ nhân lai, Quý Dậu Thái Tuế u minh xá, Mai Hoa tiêu nghiệp độ khổ hải. Khai đàn!”

Đám đông đột nhiên im lặng. Trên bầu trời, một áng mây lững lờ quệt ngang qua ánh trăng sáng tỏ, mọi tiếng động đều im bặt, chỉ còn lại tiếng nước chảy của con sông Hoàng Phố một mình xao động dưới ánh trăng.

Mai Huyền Tử từ từ bước ra khỏi chiếc rèm, tay cầm cây phất trần, mình khoác đạo bào, tóc tai bù xù, miệng rì rầm, chân bước lên đài làm phép, thắp nhang rồi vái trời lạy đất.

Trên đài làm phép xây một bức tường dài chừng ba trượng, rộng tới một thước, cao đến hai trượng, mặt tường màu trắng xám, trên tường trống trơn. Mai Huyền Tử hành lễ chừng cháy hết một que nhang, sau đó lão ta lấy từ trên hương án xuống một cây nến đỏ, bưng nó trên tay, đi về phía bức tường trắng xám kia, quỳ xuống, giơ ngọn nến lên, huơ khắp mặt tường một vòng, rồi hô lên một tiếng, mặt tường hiện ra mười mấy chiếc đèn lồng đỏ rực, sáng lấp lánh, như đang cháy.

Đám đông kinh ngạc trầm trồ.

Tiếp đó, Mai Huyền Tử quỳ xuống tụng bài siêu độ vong hồn:

Thái Thượng sắc lệnh, siêu nhữ cô hồn;

Quỷ mị nhất thiết, tứ sinh triêm ân.

Hữu đầu giả siêu, vô đầu giả sinh;

Thương chu đao sát, khiêu thủy huyền thằng.

Minh tử ám tử, oan khúc khuất vong;

Oan gia trái chủ, thảo mệnh nhi lang.

Quỵ ngô đài tiền, bát quái phóng quang;

Trạm khảm nhi xuất, siêu sinh tha phương.

Vi nam vi nữ, tự thân thừa đương;

Phú quý bần tiện, do nhữ tự chiêu.

Sắc lệnh đẳng chúng, cấp cấp siêu sinh!

Sắc lệnh đẳng chúng, cấp cấp siêu sinh!

Tụng xong, lão ta liền đứng dậy, cầm phất trần, phất phất mấy cái về phía những ngọn đèn lồng trên tường, ánh sáng trên đó tắt dần. Sau đó, lão lại phất cây phất trần về phía con sông Hoàng Phố, hô to: “Dậy!”

Trong nháy mắt, vô số ngọn đèn lồng vọt lên trên mặt sông, từng chiếc từng chiếc một hệt như những vong linh, ánh lửa nhấp nháy, bay lên không trung. Đám đông nhốn nháo cả lên, không kìm nén nổi, chẳng ai bảo ai thi nhau quỳ xuống, kẻ thấy mình bị oan ức, người mang nỗi rầu rĩ, hay người đang phải chịu đựng một nỗi khổ tâm nào đó, lúc này thi nhau bật khóc nức nở, dập đầu lia lịa, quỳ sụp khấn vái, người thân chết oan cuối cùng cũng được siêu độ.

Tổ Gia đứng lẫn trong đám đông nhìn, một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, Trương Tự Triêm mày cau chặt lại.

“Hỏng rồi!” Tổ Gia thầm kêu lên. Cục này xuất ra, dưới mắt chúng dân vùng Giang Hoài xem như chẳng có vị đại sư thứ hai như vậy nữa. Cơ nghiệp 300 năm của Mộc Tử Liên sắp tiêu rồi! Trát phi – vốn là thế mạnh của Mộc Tử Liên – nay cũng không cứu vãn nổi tình thế, cả Đường khẩu bị người ta dồn đến nỗi không còn mảnh đất cắm dùi. Tổ Gia luôn tự cho mình thông minh, giờ đấu không lại một kẻ sinh sau đẻ muộn. Thấy rõ cục diện như vậy, nán lại Giang Hoài phỏng còn ích gì nữa! Nghĩ đến đây, Tổ Gia lên cơn đau tim, “bục” một tiếng, máu phun khỏi miệng.

“Tổ Gia!” Hoàng Pháp Dung đứng ngay sau liền đỡ lấy ông.

“Tổ Gia!” Nhị Bá đầu, Tam Bá đầu và Trương Tự Triêm cũng chen về phía ông.

Tổ Gia lần lượt nhìn các huynh đệ, những người này đã cùng ông mưu sinh, ngày nào cũng một điều gọi “Tổ Gia”, hai điều thưa “Tổ Gia”, luôn đi theo không oán thán hối hận. Ông thân làm Đường chủ lại dẫn mọi người vào bước thảm cảnh thế này, thực lấy làm hổ thẹn vô cùng. Nay chỉ còn thấy đất trời chao đảo, mọi thứ tối sầm lại.

Trong giai đoạn khốn khó ấy, lần đầu tiên Tổ Gia đánh mất niềm tin. Trương Tự Triêm càng cau mày lại, chỉ có Hoàng Pháp Dung vẫn bình thản như không.

Đêm đến, mọi người về đến Đường khẩu, Tổ Gia kiệt sức nằm trên ghế, các Bá đầu im lặng không nói. Mãi lâu sau, Hoàng Pháp Dung khẽ lên tiếng: “Tổ Gia, thầy uống một ít thuốc bổ nhé.”

“Ta không sao.” Tổ Gia nói đầy vẻ mệt nhọc “Các người mau về nghỉ ngơi đi.”

Mọi người định nói đôi lời an ủi nhưng Tổ Gia xua tay, họ đưa mắt nhìn nhau rồi lẳng lặng lui xuống.

Tổ Gia buông thõng người, nằm thẳng ra, ông đã quá mệt mỏi. Trong giấc ngủ chập chờn, ông mơ thấy cha mẹ, thấy em trai, em gái, mơ thấy bức tường quen thuộc của nhà mình, mơ thấy chậu hoa dành dành nơi chân tường.

Đột nhiên, tiếng gõ cửa vang lên, tuy rất nhỏ nhưng cũng làm Tổ Gia giật mình tỉnh dậy. Đó là quản gia, ông ta thật không muốn đánh thức Tổ Gia, nhưng sự việc cấp bách, buộc phải gõ cửa. Tam Bá đầu có việc quan trọng cần bẩm báo.

Tổ Gia hỏi: “Sự việc sao rồi?”

Tam Bá đầu nhìn Tổ Gia, nói nhỏ: “Đã gài được hai người mới vào Mai Hoa Hội… Ngũ Tử chết rồi.”

Tổ Gia sững người, tim đau nhói như bị một nhát dao đâm vào, Ngũ Tử là tay chân của Đường khẩu được cài cắm vào Mai Hoa Hội năm ngoái. Mấy ngày trước, Tổ Gia đã bảo Tam Bá đầu mật lệnh cho Ngũ Tử phải sớm làm rõ tình hình việc Mai Hoa Hội làm phép bên bờ sông. Không biết là do Ngũ Tử nôn nóng để bại lộ hay đối phương đã phát hiện ra anh ta từ lâu? Tóm lại, Ngũ Tử đã bị trừ khử trước khi đối phương dàn cục nên không đưa được bất cứ tin tức gì về.

Hai người mới được gài vào Mai Hoa Hội đều là người mới của Đ?