- 6 -
Cứ mỗi lần công tác nghĩa trang như thế, tôi lại có được ít phút ngẫm nghĩ loanh quanh về đất nước, chiến tranh, về những người nằm xuống và dăm ba tội lỗi của mình.
Nhưng khi chiếc xe jeep vừa rời khỏi cổng nghĩa trang, chưa kịp ngoái cổ trông lại bức tượng “Thương Tiếc” (của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu) xe đã bon bon trên xa lộ, thì bao nhiêu thương tiếc, tiếc thương đều tan biến vào gió lộng, trước mắt chỉ còn những nẻo đường đi Biên Hòa ăn đầu cá hấp, hoặc rẽ ngả Long Thành đi Vũng Tàu ghé quán Bầu Quỳ, quán Tầm Dương ăn cua rang muối, chim quay, bò nướng sả, hoặc theo hướng Saigon, quẹo xa lộ Đại Hàn vào Đường Sơn Quán nhâm nhi la-de củ kiệu, hoặc chạy thẳng qua cầu Phan Thanh Giản về mạn Đakao ăn mì cây nhãn, chè Hiển Khánh, chả cá Như Ý, Thăng Long...
Lính tiếp vận như tôi là một thứ lính văn phòng, sớm nhẩy Lambretta đi, tối dọt Lambretta về, ngày qua ngày lại qua ngày. Trong ngành tiếp vận, ngoài vấn đề xoay sở các cục bạn, khi thì xin cái bình ắc-qui bên Quân Cụ, khi cặp kè ít cục pin Truyền Tin, lúc ngọai giao cục Công Binh làm ít vỉ sắt, ít tôn về sửa nhà, tôi còn lân la “đề mẹc” với cả bên Quân Tiếp Vụ nữa. Tháng tháng, tôi qua bển, gãi đầu gãi tai xin ông Cục Trưởng ký cho cái phiếu đặc biệt nhượng hàng.
Thế là tôi có dăm tút thuốc lá, vài chục hộp sữa, vài chục đồ hộp, dăm ký đường, vài hộp dầu ăn... Tôi đã ăn lạm nhu yếu phẩm của vợ con binh sĩ mà cứ ngơ ngơ như một kẻ được dựa hơi quyền thế làm tàng.
Bù vào những cái lem nhem gà què ăn quẩn cối xay như thế, tôi tỏ ra là một sĩ quan có cái vỏ ngoài quân phục chỉnh tề, tôn trọng quân phong quân kỷ. Quần áo bao giờ cũng hồ thẳng nếp, lon mai vàng bóng loáng trên ve áo, tên rõ ràng, thẻ bài lẻng kẻng vòng cổ, thắt lưng đen đan bằng giây dù, đôi giày “bốt-đờ-sô” láng cóong, con kiến nào bò lên cũng té bổ nhào. Chiếc nón vải biến chế sáu cạnh may riêng tại xưởng quân trang, đính bông mai vàng lấp lánh. Trên ngực trái, tôi lại có tới hai cái huy chương quân phong bội tinh và quân vụ bội tinh. Với bằng ấy thứ, nom tôi mặc đồ trận với cấp hiệu, phù hiệu, huy chương thì rõ ra một quân nhân cấp úy đàng goàng tư cách. Nhưng bên trong cái tư cách ấy chỉ có tôi với mấy ông bà thợ may khu chợ Phú Nhuận, mấy chỗ tiêu thụ xăng lẻ, vài anh em bên Quân Tiếp Vụ cùng mí lị cục bạn là biết tẩy của nhau thôi. Thôi thì, đời lính được như thế đã là mãn nguyện lắm rồi, còn đòi hỏi gì hơn nữa!
Ấy vậy mà tôi còn được xếp trên thương, phê điểm là sĩ quan gương mẫu (!), làm việc tận tụy với nhiệm vụ giao phó và được đặc cách thăng thưởng tại... văn phòng, đeo lon trung úy, mỗi bên ve áo hai bông mai vàng mới nở.
Cái năm 1966 là năm song hỷ trùng phùng của tôi, bởi chưa đầy một tuần lễ nghị định thăng cấp trung úy thực thụ cho cả khoá phổ biến tới cục. Tôi leo hai cấp, một cấp giả định và một cấp thực thụ trong vòng có một tuần lễ.
Ở lính “thợ may” 4 niên, đến cuối năm 1967 cả khoá 16 được giải ngũ theo lệnh Bộ Quốc Phòng. Tôi nghĩ cuộc đời binh nghiệp của mình nếu có nán lại vài mươi năm chắc cũng chẳng thăng quan tiến chức là bao. Bạn học với tôi, chúng nó đi sĩ quan Đà Lạt từ khoá ba, khoá bốn, đã đeo mai bạc cả rồi. Như Thiếu Tá Nghiêm Viết Thành, như Trung Tá Nghiêm Kế... Hoặc có đứa nhẩy đi ngọai quốc làm điện ảnh, sau này nghe nói lên tới hàng phụ tá đạo diễn ở La-Mã như Long Cương, hoặc có bọn không phải đi lính, học hành đỗ đạt nên danh phận như chánh án Đào Minh Lượng (văn thơ rất là rả rích), dự thẩm Hoàng Phùng Võ, luật sư Phạm Thụy Hùng... Cho nên tôi xin hoàn lại túi quân trang, chiếc giường vải, mùng mền cá nhân tại Ban Tiếp Liệu để trở về đời sống dân sự ở ngạch công chức hành chánh, mong ôn lại sách đèn lều chõng với trường thi.
Tôi về nhiệm sở cũ là Phủ Tổng Thống rồi được bổ nhiệm qua văn phòng Phủ Thủ Tướng. Hồi đó, luật sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ Tướng, đổng lý văn phòng là cụ Nguyễn Lê Giang (cũng là nhiếp ảnh gia nữa!), phó đổng lý là xép cũ Quân Nhu của tôi, Nguyễn Đăng Hải. ít lâu sau, cụ Trần Văn Hương thay thế luật sư Lộc, văn phòng có sự thay đổi nhân sự. Từ cần Thơ thuộc vùng bốn, ông Lê Công Chất về làm đổng lý thay cụ Giang, xếp Hải qua trấn nhậm Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp, còn tôi vẫn phải tiếp tục làm văn phòng đổng lý với cái tít nghe rất dễ yêu là “tham chánh văn phòng.”
Dưới thời cụ Hương, ông Chất được ủy nhiệm thay mặt Thủ Tướng đi thanh tra quan sát chiến dịch tấn công bình định tại các quân khu. Ông đổng lý bèn lôi tôi đi xách cập. Gì chứ cái chân ôm “cạc-táp”, điếu đóm thì tôi rất rành, nên vâng dạ xin theo hầu “tút-xuỵt”. Hàng tuần, thày trò bỏ ra hai ba ngày cuối tuần đi thanh sát các tỉnh, các quận trên bốn vùng chiến thuật. Khi thì dùng máy bay E-Giao Chỉ, khi công xa Việt Nam ẩn số, lúc trực thăng bán phản lực ù ù, lúc tắc rán, thuyền gỗ, lô ca chân. Xếp tôi đội cái nón vải nhỏ, mặc đồ xám ba túi, đi dép da, dáng người cao lớn đậm đà, nom nghiêm nghị mà nói năng rất văn thơ dí dỏm, kinh nghiệm đầy mình về hành chánh địa phương. Còn tôi mặc bộ đồ kaki nhà binh nhuộm nâu, vòng quanh vai kè kè khẩu P-38 và vài chục viên đạn đồng, tay xách cặp, tay phì phèo điếu Salem.- Suốt thời gian 6 tháng ròng rã, thày trò tôi đi công tác thăm dân cho biết sự tình.
Tới Quảng Ngãi, thăm nhà máy làm đường thì cơ sở chưa dựng xong, Cộng sản đã đặt mìn phá hoại. Đường làm bằng mía thì ruộng mía bị Cộng Sản đốt cháy tiêu. Về quận thăm ấp an ninh 75 phần trăm tức an ninh lọai B - thấy dân cư mặt mũi xanh rờn, quần áo tinh thơm, cửa hàng mới toanh, thợ hớt tóc khoác áo trắng như áo bác sĩ còn hồ thẳng nếp, hàng họ bày bán toàn đồ ở phố thị đem về trưng bày. Hỏi thăm người dân, có kẻ không nói, có kẻ ậm ừ, có người bảo rằng nghe tin ông lớn về thăm quê nên quận chỉ thị dàn cảnh cấp tốc. Khi nào ông lớn về thì dân cũng về quận luôn vì bên kia sông, Việt Cộng kiểm soát, đêm nào cũng mò sang quấy rối.
Tới Bình Định, thăm các quận Bình Khê, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài An, lên Bồng Sơn, Tam Quan, thấy quân đội Hoa Kỳ còn đồn trú mà quanh đó nghe đâu Cộng sản như rươi. Ngày phái đoàn đến thăm, xe đi đường bộ, tới địa điểm thấy cờ phướn tưng bừng, biểu ngữ giăng đầy lối xóm. Đông đảo đồng bào cầm cờ nhỏ đón rước phái đoàn. Sinh hoạt rõ ra là đầy sức sống, tăng gia sản xuất, trái ngọt cây lành, gà vịt trâu bò heo đủng đỉnh. Nhà cửa có mặt tiền quét vôi tươi mới, người dân ăn mặc lành lặn. Rồi diễn văn, đáp từ, ban nhạc địa phương cử hành tân cổ nhạc, ai nấy ra bộ vui vẻ, hân hoan ngày hội lớn. Buổi chiều, cỡ hai giờ, phái đoàn rút lui cho kịp tới về đến tỉnh thì chỉ vài tiếng sau địa điểm trên đã vắng lặng như tờ, đồng bào thu xếp vội vàng chuồn cho lẹ, Cộng Sản vẫn làm chủ tình hình ban đêm.
Nơi ấy, tỉnh thường báo cáo an ninh lọai A, tức 100 phần trăm phe ta kiểm soát.
Tới Nha Trang, thăm Cam Lâm, Diên Khánh, gặp ngày địa phương phục kích tiêu diệt trọn ổ Việt Cộng, mời phái đoàn tới thị sát chiến trường còn loang máu. Phái đoàn đến Diên Khánh lội ruộng, nghe quân ta tường trình buổi phục kích và triệt hạ kẻ thù rất là nẩy lửa. Khi nhìn gần chục tử thi CS nằm xếp hàng trên con đường đất nhỏ, úp mặt xuống đất, tên nào cũng trẻ măng tuổi học trò, chỉ vì nghe CS xúi dại mà lao đầu vào chỗ chết, lại nhìn mấy bà mẹ đến xin nhận xác con, khóc tức tưởi nghẹn ngào, mới thấy cuộc chiến Việt Nam thê thảm, não nề.
Tới Ban-Mê-Thuột, phái đoàn đáp trực thăng đi thăm Biệt Điện - nơi nghỉ ngơi, săn bắn của Cựu Hoàng trước kia - thấy nhện giăng cửa, dơi chuột tung hoành, chiếc hồ rộng đầy rong rêu chật ních, chung quanh cây cối cỏ mọc tùm lum, dân cư lèo tèo thưa thớt. Phái đoàn đến thăm vài “buôn” của đồng bào thiểu số, tặng quà, ghi nhận nhu cầu xin trợ cấp, lại thăm xã giao các chức sắc FULRO đàm đạo vài hồi trong tinh thần thông cảm Kinh Thượng một nhà (?), rồi tới đồn điền cà-phê của mấy ông Tây hỏi han dăm điều ba chuyện, xong ăn tối với rượu Pháp, món Pháp, các ông lớn xì xồ tiếng Tây, còn tôi ngồi câm như thóc, cắm đầu đớp cá hấp, thịt nai, thịt thỏ như điên, mặc người lớn bàn ngang bàn dọc về trời trăng mây gió, sinh họat địa phương, văn chương chữ nghĩa, rượu vào lời ra vui như nút sâm-banh nổ...
Tới Đà-Lạt, phái đoàn đi xe hơi vòng quanh đèo núi, thăm đập Đa Nhim, Liên Khương, ấp Hà Đông, coi đồng bào trồng hoa màu, trái thơm, dẫn thủy nhập điền, canh tác bốn mùa. Thời giờ còn lại cuối tuần, thày trò đi chơi phố, lên lăng Nguyễn Hữu Hào, Cam Ly, hồ Than Thở, ghé nhòm cổng trường Võ Bị Quốc Gia, vòng lại Nha Địa Dư, trường Yersin, chạy quanh hồ Xuân Hương, đỗ tạm vườn hoa Bích Câu, qua Nguyên Tử Lực Cuộc, thế là hết cả ngày giờ thấm thoát thoi đưa.
Tới Cần Thơ, ngồi thuyền gắn máy đuôi tôm chạy trên sông lạch thăm nhà máy xay lúa do người Việt gốc Tàu quản trị, nghe đồng bào ai oán kể vụ bán lúa non, thấy đời sống dân quê tuy đạm bạc nghèo nàn mà vẫn ca vọng cổ lúc ma chay, vẫn ăn thịt cá tôm cua, vẫn lai rai dăm ba sợi mỗi chiều tà, mới biết dân mình an phận thủ thường, vui cái vui ta có, buồn cái buồn ta mang, không than thân trách phận, chỉ còn biết vái trời.
Thày trò tôi đi nhiều nơi, xuống cả đến làng xóm, ngoài chương trình dự định của địa phương để thấy có nơi mở trường học dạy toàn tiếng Tàu, mặc dù Bộ Giáo Dục có chỉ thị rõ ràng về vấn đề giới hạn giảng dạy tiếng Trung Hoa tại các trường Ноа-Việt. Có chỗ ông tỉnh, ông quận chưa bao giờ đặt chân tới, nhưng khi xép tôi hỏi thử tình hình an ninh chỗ ấy ra sao thì địa phương báo cáo an ninh loại B, 75 phần trăm. Xếp tôi đi bộ vào thăm làng thì địa phương huy động cả đại đội dàn quân mở đường, băng đồng, lội ngòi, lội lạch xục xạo tiền thám cho phái đoàn đi tà tà phía sau chậm bước. Cứ như con mắt có dính tí nghề nghiệp nhà binh thì đó là một cú hành quân. Mà đã hành quân là có nguy hiểm, có thể đụng độ với Việt Cộng dễ như chơi. Ông xếp tôi không ở quân đội, chắc không biết nên mò tới. Rồi mọi chuyện cũng êm ru bà rù, không có đạn nổ, mìn bẫy nhau gì cả. Ngồi trên xe, tôi rỉ tai ông xếp về chuyện vừa qua thì xếp tôi cười bảo: “Tôi biết chứ chú, thì mình cũng phải liều. Họ bảo làng đó an ninh mà mình không tới là mình nhát. Phải như vậy để lần sau họ đừng báo cáo láo. Chú hiểu chứ!” Tôi dạ dạ vâng vâng rất là thông cảm.
Có bận đi công tác Quảng Ngãi, vừa tới nơi đã nghe tin rằng Việt Cộng ám sát ông xếp. Xếp lớn tôi không hãi vì nghe quen rồi nhưng tôi thì hãi. Bởi nhỡ nói dại nói dột, quân Cộng sản nhắm phơ xếp tôi mà nó bắn dở, đạn dính ngay vào tên xách cặp thì có phải đời tôi đi đứt không cơ chứ! Buổi họp tại rạp hát tỉnh, phái đoàn vừa dự lễ chào cờ xong tôi đã nghe một tiếng nổ, đạn xuyên qua mái tôn, rớt trên sân khấu.
Xếp tôi xin viên đạn bỏ túi đem về làm kỷ niệm!
Có lần đoàn xe chạy từ quận về tỉnh có hộ tống xe tăng thì khi xe tăng quay về quận bị Việt Cộng bắn xẻ, tuy chả nhằm nhò chi, nhưng nghe kể lại cũng thấy ngài ngại làm sao ấy.
Những cuộc hành trình cuối tuần như thế, tôi có dịp nghe xếp giảng truyện Kiều, chữ trung hiếu tiết nghĩa trong Lục Vân Tiên, nơi nào xếp tôi nói cũng được cử tọa chăm chú nghe ra chiều chịu lắm. Cái duyên của người nói chuyện đã làm cho không khí buổi họp giống như một buổi văn nghệ thoải mái nhẹ nhàng.
Nhiệm vụ của tôi là ghi chép ba điều bốn chuyện, lúc về nhà viết lại cho thành bản phúc trình với đầy đủ hiện tình, nhận xét, đề nghị. Phần đề nghị thì lúc ngồi xe, ngồi máy bay xếp tôi đọc cho chép. Còn các mục khác, tôi có nhiệm vụ như cái máy hình, chụp cho rõ ràng sáng sủa. Phúc trình nào xếp tôi cũng có làm dăm ba câu thơ phụ đề lả lướt. Hình như Thủ Tướng khoái lắm, bởi cụ cũng là nhà thơ... gãi háng lăn tăn mà lị!
Quả thực, tôi là cái máy hình nhưng ống kính tồi, đặt ánh sáng tốc độ sai và chụp góc cạnh không nghệ thuật. Cho nên tình hình địa phương А thì báo cáo tiến triển khả quan, bình định đang mạnh mẽ, tỉnh B có nhiều quận bất ổn thì trình thượng cấp là an ninh đang được vãn hồi, ta làm chủ tình hình. Quận C dân chúng cực khổ thì “ráp po” cho dân chúng sống ngon lành, dễ chịu. Địa hạt D do chính quyền làm ăn bê bối thì mô tả rằng hành chánh chạy pho-pho, nhân viên toàn là công bộc. Miền đồng bào bị “Ва-Tàu” cướp cơm chim, bao vây kinh tế thì báo cáo nông dân canh tác, thu hoạch nhiều, lợi tức cao... Khu H cần nhu cầu thuốc men у tế, trợ giúp đồ mặc lạnh thì phúc trình địa phương lo lắng cho dân đầy đủ mọi bề!
Sở dĩ tôi viết sai quấy như vậy vì biết tỏng rằng các chức quyền địa phương đều là người tin cậy của xếp bự, gốc lớn, đâu có ngán ai. Thì cái cỡ mình báo cáo, có moi những cái xấu xa tồi tệ thế nào thì cũng chả rụng cái lông chân của họ. Lại nhiều khi mua thù chuốc oán nữa nếu họ biết mình vạch lá tìm sâu. Vả lại mỗi lần thăm viếng như thế, nhiều chỗ rất biết điều, thấy phái đoàn tới là có tí quà nhỏ cho tên điếu đóm để nó hót dùm thêm vài phát cũng vui tai. Nào là tặng cặp gà tre đã bỏ sẵn trong lồng, nào là nem chua, ché, hoa hồng, dâu, mận, nào là tôm khô, nước mắm, nào là sâm Cao-Ly, vây cá, bánh phồng tôm, chim mía, cá mực, sầu riêng, chôm chôm, ổi, nhãn...
Ấy thế cho nên tôi cứ trung dung chi đạo, lơ lửng cái con cá vàng, phúc trình nào cũng đầy khích lệ và tiến triển nom thấy, cấp trên có thấy hay không thì không biết, chứ như chính tôi, tôi đã tự dối lương tâm làm điều sằng bậy viết lách báo cáo tầm bậy tằm bạ, thiếu trung thực, thiếu đắn đo, lại còn toa rập nhận quà cáp lu bù kèn để đến nỗi quên cả lương tri, quên cả những nỗi thống khổ nhục nhằn của người dân nghèo chốn xa xôi sống một đời “một cổ đôi ba tròng” vất vưởng...
Tôi nào nghĩ đó tội tình chi. Mình là tép riu ai mà đếm sỉa. Ấy chính mấy cái tép riu đó cộng lại, tích lũy mà đâm ra đổ vỡ. Tôi còn lấy làm thú vị tình thâm vì những dịp đi công tác như thế, tôi được nhìn tận mắt những địa danh như “la bàn thạch trận”, núi Thiên Ấn, Thiên Bút, sông Trà Khúc, dòng Hương Giang, nhịp gãy Trường Tiền, tiếng chuông Thiên Mụ, cầu Bạch Hổ, đầm Ô Loan, Ngũ Hành Sơn, Tháp Chàm, Hòn Chồng, thác Prenn, Pongour, đồn điền cà-phê, rừng cao su, vườn hạt tiêu, chiều trên bản Thượng, sông nước Hậu Giang, đồng lúa Long Xuyên, kinh Ва-Thê, kinh Cái Sắn, núi Bà Đen, cồn Phụng của ông Đạo Dừa, quê hương của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, lăng Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, lầu ông Hoàng, nơi an nghỉ cuối cùng của Hàn Mặc Tử, chỗ dấy nghiệp của Quang Trung Đại Đế, những miền thùy dương cát trắng lơi lả bóng dừa, những giọng hát câu hò của ba miền đất nước mến yêu, những món ăn độc đáo tuyệt vời, những tình tự dân tộc ngọt ngào say đắm...
Bây giờ, còn đâu những hình bóng cố hương trìu mến? Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Cần Thơ, Cà Mau, Phú Quốc đã xa tầm tay với mất rồi. Phải chăng những chốn cũ bỏ tôi hay bởi chính tôi không gìn giữ nên mất mát dấu yêu bảo vật?
Để đến hôm nay làm thân mất nước, đất khách lêu bêu ôm mối nhục ngậm hờn..