← Quay lại trang sách

Chương 22

Hãy-quay-lại-lúc-sáu-giờ-ba-mươi,” Terry gần như gào lên với tay trung sĩ người Đức áp giải họ từ trại sang khu chỉ huy trại.

Vẻ mặt ngơ ngác của tay trung sĩ khiến Giles không còn mấy nghi ngờ rằng tay này sẽ chẳng bao giờ leo được lên thượng sĩ.

“Hãy-quay-lại-lúc-sáu-giờ-ba-mươi,” Terry lặp lại, phát âm từng từ thật chậm. Anh ta cầm lấy cổ tay anh chàng trung sĩ và chỉ vào số sáu trên mặt đồng hồ đeo tay của tay này. Giles chỉ ước gì anh có thể nói với tay trung sĩ bằng chính tiếng mẹ đẻ của hắn ta, “Nếu anh quay lại lúc sáu giờ ba mươi, trung sĩ, sẽ có một Crate42* bia dành cho anh và các bạn anh ngoài vọng gác.” Nhưng anh biết nếu làm thế, anh sẽ bị bắt giữ ngay và phải trải qua dịp Năm Mới trong cảnh biệt giam.

Terry một lần nữa lại chỉ vào đồng hồ của tay trung sĩ, đồng thời bắt chước động tác người đang uống. Lần này tay trung sĩ mỉm cười và lặp lại cùng động tác đó.

“Tôi nghĩ cuối cùng hắn cũng đã hiểu thông điệp,” Giles nói khi hai người đi vào khu vực của chỉ huy trại.

“Chúng ta sẽ vẫn phải đảm bảo hắn lấy được bia trước khi tay sĩ quan đầu tiên tới. Vậy tốt nhất chúng ta cần khẩn trương lên.”

“Rõ, thưa ngài,” Terry nói trong khi anh ta đi về phía bếp. Thứ bậc đúng đã được khôi phục lại.

Giles đi vào phòng treo đồ, lấy bộ đồng phục của người phục vụ ra khỏi mắc và mặc lên người chiếc áo sơ mi trắng, quần đen và chiếc áo vét vải lanh trắng, đeo cà vạt đen. Anh nhìn thấy một đôi găng da màu đen trên băng ghế hẳn một sĩ quan đã bỏ quên lại từ trước, và lập tức nhét chúng vào túi, nghĩ rằng đôi găng rồi sẽ có thể có ích. Anh đóng cửa phòng lại và đi đến phòng ăn. Ba cô phục vụ bàn từ trong thành phố đến - bao gồm cả Greta, cô gái duy nhất anh từng muốn tán tỉnh, song anh biết Jenkins sẽ không tán thành điều này - đang bày một bàn tiệc cho mười sáu người.

Anh xem đồng hồ: 6 giờ 12 phút sáng. Giles rời khỏi phòng ăn, xuống cầu thang đi tới hầm rượu vang. Một bóng đèn duy nhất chiếu sáng căn phòng từng kê đầy những cái tủ đầy ắp tài liệu lưu trữ. Từ khi Giles xuất hiện, chúng đã được thay thế bằng những chiếc giá xếp rượu vang.

Giles đã quyết định rằng anh sẽ cần đến ít nhất ba Case 43* rượu vang cho bữa tối hôm đó, cũng như một két bia dành cho tay trung sĩ đang khát khô cổ cùng đám đồng đội của hắn ta ngoài vọng gác. Anh ngắm nghía kỹ lưỡng các giá xếp rượu vang trước khi lựa chọn hai chai sherry44*, một tá chai pino grigio45* Ý, hai két vang burgundy Pháp và một két bia Đức. Đúng lúc chuẩn bị ra khỏi phòng, đôi mắt anh chợt dừng lại nhắm vào ba chai Johnnie Walker Red Label46*, hai chai vodka Nga, sáu chai Rémy Martin47* và một hũ rượu porto 48*. Giles cho rằng một vị khách hoàn toàn có thể được tha thứ khi không biết rõ ai đang ở tình trạng chiến tranh với ai49*.

Trong mười lăm phút sau đó, anh loay hoay bê các két rượu và bia lên cầu thang, liên tục dừng lại để xem giờ, và đến 6 giờ 29 phút, anh mở cửa sau ra và thấy tay trung sĩ Đức đang vừa nhảy lên nhảy xuống vừa đập tay vào hai bên sườn để tự làm ấm người. Giles giơ cả hai lòng bàn tay lên ra hiệu hắn cần đợi một chút. Sau đó, anh hối hả bước trở lại xuống hành lang - Jenkins không bao giờ chạy - xách két bia lên rồi quay lại đưa cho tay trung sĩ.

Greta, người rõ ràng đã đến muộn, nhìn cuộc trao đổi và toét miệng cười với Giles. Anh đáp lại nụ cười của cô, trước khi cô này biến mất vào trong phòng ăn.

“Vọng gác,” Giles nói một cách rõ ràng, chỉ tay ra phía ngoại vi trại. Tay trung sĩ gật đầu, và bước đi theo đúng hướng. Trước đó, Terry đã hỏi Giles liệu anh ta có nên xoáy một ít đồ ăn từ nhà bếp cho tay trung sĩ và đám bạn của hắn ngoài vọng gác không.

“Tất nhiên là không,” Giles kiên quyết trả lời. “Chúng ta muốn chúng uống cả đêm với cái bụng rỗng.”

Giles đóng cửa lại và quay vào phòng ăn, nơi mấy nữ phục vụ đã gần như hoàn tất việc bày bàn ăn.

Anh bật nút một tá chai vang merlot, nhưng chỉ để bốn chai lên bàn kê sát tường, kín đáo giấu tám chai còn lại dưới gầm bàn. Anh không muốn Müller đoán ra kế hoạch của mình. Anh cũng để một chai whisky và hai chai sherry ở một đầu bàn, trước khi xếp thành hàng, như những người lính đang duyệt đội ngũ, một tá cốc đáy bằng và sáu chiếc ly chuyên để uống rượu sherry. Mọi thứ đều đã đâu vào đấy.

Giles đang lau cho sạch bóng một chiếc cốc đáy bằng khi đại tá Schabacker bước vào. Viên chỉ huy kiểm tra bàn ăn, điều chỉnh một hai chi tiết trong việc bố trí chỗ ngồi, sau đó chuyển sự chú ý sang việc sắp xếp đồ uống trên bàn kê sát tường. Giles tự hỏi liệu ông ta có bình phẩm gì không, song viên đại tá chỉ mỉm cười và nói, “Tôi dự kiến khách sẽ đến vào khoảng bảy giờ ba mươi phút, và tôi đã nói với bếp trưởng rằng chúng tôi sẽ vào bàn ăn tối lúc tám giờ.”

Giles chỉ muốn hy vọng rằng trong vài giờ nữa, tiếng Đức của anh cũng chứng tỏ nó trôi chảy chẳng kém gì tiếng Anh của đại tá Schabacker.

Người tiếp theo bước vào phòng ăn là một trung úy trẻ gần đây mới gia nhập vào danh sách thực khách của nhà ăn sĩ quan và lần đầu được dự dạ tiệc của viên đại tá. Giles để ý thấy anh chàng này nhìn về phía chai whisky, và bước tới rót cho anh ta nửa ly. Sau đó, anh đưa cho viên chỉ huy trại ly sherry quen thuộc của ông ta.

Sĩ quan thứ hai xuất hiện là đại úy Henkel, trợ lý chỉ huy trại. Giles đưa cho anh ta ly vodka ưa thích của tay đại úy, và dành cả ba mươi phút tiếp theo phục vụ từng vị khách mới, luôn đưa cho họ đúng món đồ uống ưa thích.

Khi các vị khách đã ngồi vào bàn ăn, vài vỏ chai rỗng đã được thay thế bằng chỗ dự trữ Giles bí mật để sẵn dưới gầm bàn.

Một lát sau, các nữ phục vụ xuất hiện, mang ra những đĩa súp củ cải đỏ, trong khi viên chỉ huy trại nếm thử vang trắng.

“Vang Ý,” Giles nói, chìa nhãn chai cho ông ta xem.

“Tuyệt vời,” ông ta lẩm bẩm.

Sau đó, Giles rót đầy mọi ly, ngoài trừ ly của thiếu tá Müller, người vẫn tiếp tục uống nước.

Có vài vị khách uống nhanh hơn những người khác, điều đó khiến Giles liên tục phải di chuyển quanh bàn, luôn đảm bảo không để cho không có vị khách nào bị ly cạn. Sau khi các bát súp đã được dọn đi, Giles âm thầm lùi ra phía sau vì Terry đã báo trước cho anh biết chuyện gì sẽ diễn ra tiếp theo. Trong một màn nghi thức kiểu cách, hai cánh cửa mở ta, và người bếp trưởng bước vào, bê một cái đầu lợn rừng lớn được đặt trên khay bạc. Các nữ phục vụ theo sau, đặt những đĩa rau và khoai tây cùng những bình nước xốt đặc lên giữa bàn.

Trong lúc bếp trưởng bắt đầu cắt thịt, đại tá Schabacker nếm thử ly vang burgundy, và lại thêm một nụ cười nữa xuất hiện trên khuôn mặt ông ta. Giles trở lại với nhiệm vụ rót đầy bất cứ cái ly nào vơi mất một nửa, trừ một ngoại lệ. Anh cũng để ý thấy tay trung úy trẻ đã không nói gì được một lúc, vậy nên anh không động gì đến ly của tay này. Một vài sĩ quan khác đã bắt đầu nói nhịu, và anh cần bọn họ tỉnh táo ít nhất cho tới lúc nửa đêm.

Lát sau, bếp trưởng quay vào phục vụ lần thứ hai món đầu lợn rừng, và Giles lập tức chấp hành khi đại tá Schabacker yêu cầu ly của tất cả mọi người phải được rót đầy. Đến khi Terry lần đầu tiên xuất hiện để thu dọn những gì còn lại của cái đầu lợn rừng, thiếu tá Müller là sĩ quan duy nhất còn tỉnh táo.

Vài phút sau, bếp trưởng xuất hiện lần thứ ba, lần này mang theo một chiếc bánh ngọt kiểu Black Forest50*, rồi đặt lên bàn trước mặt viên chỉ huy trại. Vị chủ tiệc cầm dao cắt vào chiếc bánh vài lần, và các nữ phục vụ mang những phần bánh lớn tới cho mỗi vị khách. Giles tiếp tục rót đầy ly cho bọn họ, cho tới khi anh dùng tới chai cuối cùng.

Trong khi các nữ phục vụ dọn món tráng miệng, Giles dọn các ly rượu vang khỏi bàn ăn, thay vào đó bằng ly đáy cầu dùng để uống brandy và ly dùng cho rượu porto.

“Thưa quý vị,” đại tá Schabacker lên tiếng ngay khi đồng hồ vừa quá mười một giờ, “làm ơn hãy nâng ly của các vị lên, vì tôi muốn đề nghị uống mừng.” Ông ta đứng dậy, giơ cao ly của mình lên và nói, “Vì Tổ quốc!”

Mười lăm sĩ quan lần lượt đứng dậy, và lặp lại,

“Vì Tổ quốc!” Müller đưa mắt về phía Giles, rồi gõ vào ly mình để ra hiệu hắn ta cần thứ gì đó để uống mừng.

“Không phải vang, đồ ngốc,” Müller nói. “Tao muốn brandy.” Giles mỉm cười, và rót đầy burgundy vào ly của Müller.

Müller đã không bẫy được anh51*.

Những tiếng trò chuyện râm ran ầm ĩ tiếp tục trong khi Giles mang một hộp xì gà đi vòng quanh bàn mời thực khách chọn một điếu. Tay trung úy trẻ lúc này đang gục đầu lên bàn, và Giles nghĩ anh nghe thấy tiếng ngáy.

Khi viên chỉ huy trại đứng lên lần thứ hai, để uống mừng sức khỏe của Führer, Giles rót cho Müller thêm một ít vang đỏ. Tay thiếu tá giơ ly lên, dập hai gót giày vào nhau và giơ tay lên chào theo kiểu Quốc xã. Tiếp theo là một chầu nâng ly vì Frederick Vĩ Đại52*, và lần này Giles đảm bảo ly của Müller đã được rót đầy từ lâu trước khi hắn đứng lên.

Năm phút trước giao thừa, Giles kiểm tra để đảm bảo tất cả các ly đều được rót đầy. Khi đồng hồ trên tường bắt đầu đổ chuông, mười lăm sĩ quan hô gần như đồng thanh, 10, 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2, 1, sau đó đồng thanh hát “Deutschland, Deutschland über alles”53*, vỗ lên lưng nhau trong khi cùng chào đón năm mới.

Phải mất một lúc sau bọn họ mới trở về chỗ. Viên chỉ huy trại vẫn đứng và gõ ly của ông ta bằng một chiếc thìa. Những người khác im lặng chờ đợi bài phát biểu hàng năm của ông ta.

Viên đại tá bắt đầu với lời cảm ơn các sĩ quan vì lòng trung thành tận tụy của họ trong suốt một năm khó khăn. Rồi viên đại tá bắt đầu phát biểu một hồi lâu về sự mệnh của Tổ quốc. Giles nhớ là Schabacker từng là thị trưởng của vùng trước khi ông ta trở thành chỉ huy trại tù binh. Ông ta kết thúc với tuyên bố hy vọng rằng phe chính nghĩa rồi sẽ chiến thắng trong cuộc chiến tranh vào thời điểm này năm tới. Giles những muốn hô lên, Hoan hô! bằng bất cứ thứ ngôn ngữ nào, nhưng Müller đã quay ngoắt lại để xem những lời nói của viên đại tá có tạo ra phản ứng nào không. Giles vẫn dửng dưng nhìn ra phía trước, như thể anh không hề hiểu lấy một từ. Anh đã vượt qua được thêm một bài kiểm tra nữa của Müller.

CHÚ THÍCH

42*Crate: thường gồm 24 chai bia.

43*Case: thường gồm 12 chai vang.

44*Một loại rượu vang Tây Ban Nha có màu vàng, được pha thêm rượu mạnh cất từ nho cho tăng độ cồn.

45*Rượu vang trắng làm từ loại nho có vỏ màu xám xanh.

46*Johnnie Walker là một thương hiệu rượu whisky Scotland pha trộn, gồm nhiều cấp (label) có màu khác nhau, loại Red Label được sản xuất với mục đích để pha các đồ uống trộn cùng những thành phần khác.

47*Một thương hiệu rượu brandy của vùng Cognac, Pháp.

48*Loại vang đỏ mạnh có vị ngọt có nguồn gốc từ vùng thung lũng Douro ở Bồ Đào Nha.

49*Ám chỉ các loại đồ uống ở trên có nguồn gốc từ cả các nước phe Trục (Đức, Italia) lẫn các nước phe Đồng Minh (Anh, Pháp, Nga)

50*Loại bánh ngọt tráng miệng kiểu Đức gồm nhiều lớp bánh sô cô la, xen giữa là những lớp kem trắng và quà anh đào.

51*Ở đây, Müller muốn thử xem Giles hiểu tiếng Đức không, và Giles đã không mắc bẫy, anh tiếp tục rót vang Burgundy cho Müller.

52*Frederick II Vĩ Đại (1712 – 1786), vua Phổ từ 1740 – 1786, nổi tiếng về những cải cách hệ thống hành chính và quân đội Phổ, cũng như các thắng lợi quân sự, đặc biệt là trong Chiến tranh Bảy năm (1756 – 1763)

53*Những lời đầu của bài Das Lied der Deutschen (Bài ca người Đức), quốc ca Đức từ năm 1922