← Quay lại trang sách

11 - Bảo Tàng Nơi Lịch Sử Ngủ Quên Hay Nơi Cuộc Sống Phát Triển?

Những khác biệt khiến ta phải suy nghĩ?

Người Pháp thích đi xem bảo tàng. Hầu hết là như thế, nhất là dân Paris. Thích đến mức mới đầu ta nghĩ họ giả tạo, bởi ta không biết có gì hấp dẫn đến thế đằng sau những đồng xu cổ, những mảnh chai lọ chẳng còn nguyên vẹn hay một góc tường đổ mà khiến họ trầm ngâm hàng giờ, lục lọi đọc, ghi chép rồi gật gù sung sướng. Nhiều người nghiện đi xem bảo tàng, tuần nào cũng đi, đi thăm nhiều lần một cái bảo tàng cho đến khi thuộc từng ngõ ngách, am hiểu từng hiện vật mới chuyển sang bảo tàng khác (mà giá vé xem bảo tàng nói chung không hề rẻ). Sở thích ấy được truyền từ đời này sang đời khác, trẻ con vừa biết đọc biết viết đã thích đi xem bảo tàng.

Và họ cũng sống trong một thế giới của viện bảo tàng. Ở Paris có bảo tàng Louvre, hẳn nhiều người biết. Chỉ riêng những gì có ở Louvre đã đủ để bất cứ ai phải dành nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần để xem hết, hiểu hết bởi đó là bảo tàng nghệ thuật và hiện vật cổ của nước Pháp và cả nhân loại. Louvre có hơn 35.000 hiện vật trưng bày trải khắp hơn 60.000m2 diện tích các phòng trưng bày. Tôi không hiểu làm thế nào mà rất nhiều bạn bè tôi, đến Paris lần đầu tiên và đến thăm bảo tàng Louvre, chỉ sau ba tiếng đã bảo: “Xong, thế là đi hết Louvre rồi nhé, cái gì cũng xem hết cả.” Bảo tàng là một dãy các tòa nhà nối liền theo hình chữ U với nhiều tầng, các phòng ốc khá phức tạp, tôi nghĩ rằng nếu bạn đi bộ với tốc độ trung bình, chỉ đi thôi không xem gì cả, đi đủ hết các ngõ ngách của Louvre, chắc bạn cũng mất đến hai ngày. Vậy nhưng rất nhiều người đến Louvre, cố chen cho bằng được đến trước bức tranh nàng Mona Lisa chỉ để selfie (tự chụp ảnh) một cái. Thế là đã đủ để tuyên bố rằng “Đã vào Louvre, xem hết rồi.” Ấy là nếu như biết được mấy chữ Mona Lisa cũng đã là tốt, chứ trong đám người chen lấn cố chụp cho được bức ảnh của nàng, tôi dám chắc rất nhiều người không biết tranh này ai vẽ và vẽ ai, chỉ thấy đông người chụp và nghe nói tranh nổi tiếng, thì chụp, thế thôi.

Tôi không có ý chê nhiều người Việt mình ít am tường về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử nhân loại. Nếu chúng ta thiếu hụt trong lĩnh vực ấy thì chúng ta thừa nhận, thế thôi. Nếu không ai nhận, tôi sẽ nhận. Tôi mù tịt những kiến thức ấy. Có thể không phải lỗi do chúng ta mà do chúng ta không có điều kiện hay thói quen thăm quan học hỏi, do nét văn hóa của chúng ta đề cao chủ nghĩa gia đình, ít đề cao việc giao tiếp xã hội, khi gặp gỡ nhau ít nói chuyện lịch sử, xã hội, địa lý… Hoặc lý do gì đó tôi không biết, nhưng quả thật khi ra nước ngoài, nói chuyện với người nước ngoài tôi mới thấy cái hạn hẹp đến xấu hổ của bản thân trong những lĩnh vực ấy. Đừng nói thế giới, ngay lịch sử, địa lý Việt Nam tôi cũng mù mờ.

Tôi từng là một học sinh xuất sắc trong các môn học thuộc lòng. Trong vòng một tiếng đồng hồ, tôi có thể học thuộc đến từng dấu chấm, dấu phẩy một chương sách. Và tôi luôn đạt điểm cao trong các môn Lịch sử, xã hội, Địa lý. Nhưng rồi quên sạch. Thử hỏi người Việt mình có tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc hay không? Tự hào lắm chứ, nhưng khi hỏi một người trưởng thành trận Bạch Đằng diễn ra năm nào, thời nhà Lý, nhà Trần tồn tại trong bao nhiêu năm, chắc không dễ đưa ra câu trả lời ngay lập tức. Tôi còn nhớ khi mới đến Pháp, học lớp cao học MBA, có một sinh viên người Anh nói chuyện với tôi về nước Pháp và các thuộc địa Pháp, cậu đó hỏi tôi Pháp đến Việt Nam từ năm nào, bắt đầu đô hộ nước mình từ năm bao nhiêu đến năm bao nhiêu. Tôi bảo chỉ biết là Pháp kết thúc đô hộ Việt Nam năm 1945 và thua cuộc chiến sau đó vào năm 1954, còn bắt đầu lúc nào thì tôi không nhớ. Cậu ta tròn mắt nhìn tôi như người đến từ hành tinh khác. Rồi một cậu sinh viên người Pháp ngồi cạnh bắt đầu “giảng” cho chúng tôi nghe về những chuyện ấy, rất say sưa, rất chi tiết. Rồi cậu người Anh cũng tham gia bàn luận. Cũng chính hai anh đó nói với tôi rằng tiếng Quốc Ngữ của người Việt xuất hiện là do một số nhà truyền giáo phương Tây (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp) do nhu cầu giao tiếp với người bản xứ mà tìm cách ghi lại ngôn ngữ Việt bằng các ký tự Latin, rồi sau này mới được phát triển thêm bởi người Việt mình. Có lẽ bạn biết điều đó, nhưng quả thật khi ấy tôi hoàn toàn không biết. Tôi cứ tưởng rằng tiếng Việt là do các nho sĩ, thầy đồ tạo ra. Cũng chưa bao giờ tôi đặt câu hỏi tại sao Việt Nam là nước duy nhất trong khu vực sử dụng bảng chữ cái Latin như người châu Âu. Khỏi cần phải kể với bạn lúc ấy bộ dạng tôi thế nào, vừa đần ngố, vừa xấu hổ, vừa khâm phục nhìn một ông bạn Anh, một ông bạn Pháp ngồi kể cho mình nghe lịch sử nước mình. Những kiến thức ấy họ biết nhờ đâu? Có lẽ không phải từ các tiết dạy lịch sử thế giới. Họ biết được chính từ các bảo tàng, các chuyến đi và sự ham hiểu biết, ham đọc của họ, đặc biệt là vì những kiến thức ấy được sử dụng trong cuộc sống đời thường của họ.

Tôi trở lại với “thế giới bảo tàng” của người Pháp. Đến Paris bạn sẽ đến thăm Louvre, bạn sẽ nghe kể hoặc đặt chân đến cung điện Versaille, vừa là cung điện cổ, vừa là bảo tàng nghệ thuật. Nhưng còn vô số, vô số những bảo tàng ở khắp nơi, về đủ các chủ đề quen thuộc: bảo tàng chiến tranh, bảo tàng khoa học và công nghiệp, bảo tàng săn bắn và tự nhiên, bảo tàng năng lượng, y học… Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng có rất nhiều bảo tàng khác, về các giới hạn chủ đề rất hẹp, rất đặc trưng: bảo tàng rượu vang, bảo tàng chocolate hay thậm chí bảo tàng cống thoát nước, bảo tàng lịch sử hút thuốc lá… Có tổng cộng hơn 130 bảo tàng ở Paris.

Và tất nhiên không giống như các bảo tàng ở Việt Nam thường vắng lặng, được xây dựng lên vì nhu cầu lưu giữ các hiện vật, các bảo tàng ở Paris, dù về chủ đề gì đi nữa, luôn tấp nập người, kể cả những ngày trong tuần.

Các trường học, ở mọi cấp từ mẫu giáo đến cao học, luôn có mối quan hệ mật thiết với các viện bảo tàng, đặc biệt là các trường tiểu học, trung học. Khi vào một viện bảo tàng nghệ thuật, lịch sử ở Paris vào một ngày trong tuần, bạn sẽ rất dễ gặp một nhóm học sinh, tay sách tay bút, được hướng dẫn bởi một nhân viên và một giáo viên. Họ học ngay tiết học lịch sử, văn học, nghệ thuật của họ dưới chân, bên cạnh một bức tranh lớn, một hiện vật gắn liền với chủ đề của tiết học ấy. Lần đầu tiên đến cung điện Versaille vào ngày trong tuần, tôi đã bị ấn tượng khi thấy các em bé chỉ học lớp Một, lớp Hai say sưa ngắm các bức tranh tả về những cuộc chiến cổ xưa, đầy chăm chú nghiêm túc tìm hiểu các thông tin trên bức tranh, trên những lời chú thích đặt dưới chân bức tranh để có thể trả lời các câu hỏi trong bài tập của mình. Chúng học hăng say như tham dự một cuộc thi, một cuộc đố vui, sôi nổi bàn luận và hét lên vui mừng khi tìm thấy một chi tiết nhỏ. Học như thế làm gì mà chẳng thích, chẳng nhớ lâu. Học để sau này lại dắt con cái, bạn bè vào bảo tàng và dạy cho họ những điều mình đã biết, tìm hiểu những cái mới mà khi trước mình đi chưa có (thứ hấp dẫn cũng nằm ở chỗ, các bảo tàng ở Pháp vẫn thường xuyên được cập nhật những hiện vật mới, những câu chuyện mới, khám phá mới khiến người đã đi rồi lâu lâu có thể quay lại mà không nhàm chán). Học để trong bất cứ cuộc chuyện trò, trong công việc nào, người ta cũng có thể sử dụng kiến thức của mình như những bằng chứng thuyết phục nhất, như những chi tiết đáng tin cậy nhất để nhiều khi có thể lý giải, có thể trả lời cho chính những câu hỏi của mình và bạn bè. Khi ta học mà biết rõ tác dụng của cái mà ta đang học, chẳng cần có cái gậy hay củ cà rốt nào ép buộc hay chèo kéo, tự ta sẽ học say sưa.

Trước khi đến Pháp, hình ảnh “bảo tàng” trong đầu tôi là những căn phòng rộng lớn, vắng lạnh, toát ra mùi ẩm mốc vì thiếu ánh sáng tự nhiên, là “lịch sử” nằm ngủ quên trong những góc tối, là dấu vết thời gian bị hóa thạch. Khi còn nhỏ tôi rất thích đến bảo tàng, đủ loại bảo tàng khác nhau, tình cờ có, bắt buộc có, khám phá có. Tôi còn quay lại nhiều lần nữa. Nhưng càng ngày, niềm yêu thích ấy càng giảm đi, ấn tượng về nơi mà “lịch sử đang ngủ quên” ấy càng tăng lên.

Louvre về chiều. (Ảnh: Nguyễn Hồng Long)

Không phải vì ở đó không có những câu chuyện cảm động và vĩ đại, không phải vì ở đó không có tình người chan chứa, không phải vì ở đó không có những kiếp người, những số phận, những thế hệ và cả lịch sử đằng sau mỗi hiện vật, mỗi bức ảnh, nhưng bởi vì ở đó tôi luôn cảm thấy sự thiếu thốn, cảm thấy những câu hỏi của mình không được giải đáp đầy đủ, những thông tin được cung cấp nửa vời, là sự thiếu đầu tư, sự miễn cưỡng của những người có trách nhiệm. Và người đến xem càng ngày càng vắng: thế nào mà chỉ có các ông Tây bà Đầm quan tâm đến lịch sử nước mình, còn người nhà mình chạy ra quán cà phê hết cả. Thật đấy, có vô khối bạn trẻ ngày nay sẽ chẳng bao giờ biết đến Bảo tàng Quân đội nằm ở đâu nếu không có quán Highland Coffee dưới chân cột cờ. Vào quán thì nhìn thấy, rồi “A, hay nhỉ!” Thế thôi. Tôi cũng thế, về Hà Nội, lần nào cũng vội vàng, có thời gian để ngồi cà phê chứ làm gì có tâm tư gì vào thăm Bảo tàng Quân đội. Nhưng ít ra tôi cũng đã vào bảo tàng ấy vài lần rồi, chứ tôi chắc trong hàng trăm nghìn lượt người ra vào quán cà phê kia, có hơn phân nửa chưa từng đặt chân vào bên trong Bảo tàng Quân đội. Cũng không trách họ được. Vào rồi có thể họ cũng sẽ thất vọng như tôi.

Đến Pháp, tôi dần cảm nhận được các bảo tàng là kho báu hiện vật, là cái gốc của hiểu biết và đương nhiên, của sự phát triển, bản thân các bảo tàng ở Paris hay ở châu Âu cũng được phát triển, tự nâng cấp không ngừng. Và lạ chưa, với người châu Âu, bảo tàng còn là nơi đem lại tình yêu: yêu nghề, yêu cuộc sống, yêu nhau. Thật đấy.

Những câu chuyện nhỏ: đến bảo tàng để… yêu.

Hồi tôi mới làm batender, trong quán có một cô bạn người Pháp cũng là sinh viên đi làm thêm. Một ngày tôi nói rất thích nghề batender (tất nhiên là nghề tay trái thôi) và thích hiểu biết về các loại rượu vang Pháp. Như một sự hiển nhiên, cô ấy bảo: “Thế thì chắc đi Bảo tàng Rượu vang ở Paris rồi”. Tôi bảo chưa, cô ấy ngạc nhiên lắm. Hai hôm sau cô chìa cho tôi đôi vé, bảo mai đi. OK, đi liền.

Đó là một bảo tàng xinh xắn, lãng mạn ngay gần tháp Eiffel, nơi người ta trưng bày đủ thứ liên quan đến rượu vang, từ các dụng cụ, quy trình sản xuất rượu đến các mẫu vật thể hiện sự phát triển của cái mở rượu hay nút chai qua từng thời kỳ. Nhưng sinh động hơn, ở đó có các khóa đào tạo nếm rượu, nhận biết các loại rượu. Có cả một nhà hàng lớn cho khách thưởng thức ngay trong một hầm rượu rộng, đẹp. Cô đã đăng ký cho chúng tôi một khóa như thế, khóa “cấp tốc” thôi, chỉ có hai giờ đồng hồ, nhưng đủ để nghe người hướng dẫn dạy cho đủ thứ: làm thế nào để nhận biết sản phẩm của các vùng rượu, dòng rượu nho của Pháp, món ăn nào nên kết hợp với rượu loại nào, năm nào… Chúng tôi được nếm nhiều loại rượu, lẽ ra chỉ nếm thôi, không uống, nhưng dại gì chứ, bỏ thì uổng quá. Hai chúng tôi “nếm” nhiều, chỉ một lát là mặt đã đỏ, mắt đã long lanh. Trong hầm rượu cổ kính và lãng mạn ấy, nghe những kiến thức về rượu và nhìn màu rượu phản chiếu qua đôi mắt lấp lánh ấy, chắc chẳng bao giờ quên được. Đó là cái bảo tàng đầu tiên làm thay đổi định nghĩa khô cứng về “bảo tàng” của tôi.

Lại có một người bạn nữa, cũng làm ở quán, nhưng là người làm chuyên nghiệp chứ không phải sinh viên đi làm thêm như chúng tôi. Anh bạn ấy người Paris gốc, đẹp trai, hào hoa, tóc dài và xoăn, trông rất nghệ sĩ. Làm bồi bàn mà mỗi tối anh đều ăn mặc rất chỉnh tề, đứng chải tóc, chỉnh lại quần áo trước gương, rồi nước hoa thơm nức. Hồi mới gặp tôi nghĩ “Chắc là ái, chán thật”. Nhưng càng quen thân, càng biết là không “ái” tý nào mà ngược lại rất đàn ông, rất mạnh mẽ và cực kỳ quyết liệt trong công việc. Đúng là phải dùng từ “quyết liệt” để nói về cách anh ta làm việc bởi việc gì anh cũng muốn làm thật nhanh, thật tốt, thật chuyên nghiệp, bằng mọi giá. Có một lần ngồi nói chuyện vu vơ về gia đình, tôi hỏi bố cậu làm gì. Anh bảo: “Giám đốc kỹ thuật Công ty tháp Eiffel”. Tôi tròn mắt. Chức danh ấy không phải hạng thường, đó là vị trí quản lý hàng trăm người trực tiếp điều hành và phục vụ cho sự hoạt động của tháp, và đặc biệt việc khai thác vận hành và bảo dưỡng tháp Eiffel đòi hỏi những công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất, những người được đào tạo tốt nhất đến từ nhiều nơi trên thế giới. Người nắm giữ chức danh ấy thường phải xuất phát từ một “Grande Ecole”, nói nôm na là một trong những trường danh tiếng nhất nước Pháp. Cũng giống như một “mặc định” rất “truyền thống” của người Việt, tôi nghĩ thầm “thế mà anh đi làm bồi bàn, có lẽ anh phải là một ‘thất bại’, một ‘nỗi hổ thẹn’ của gia đình anh”. Nhưng tôi đã lại ngạc nhiên. Sau này mới biết, bố con anh rất yêu, rất thân nhau. Rồi một buổi tối, bố anh tới ăn ở nhà hàng nơi chúng tôi cùng làm, đến với rất nhiều bạn bè, đều là những nhân vật quan trọng, có tiếng tăm cả. Lúc anh cầm các menu hướng dẫn món ăn tới, ông đứng dậy, rất trịnh trọng: “Giới thiệu với mọi người con trai của tôi, cháu làm bồi bàn ở đây”. Hai bố con bắt tay rồi ôm hôn nhau theo kiểu Pháp. Mắt ông long lanh vì tình yêu, vì hãnh diện với con trai. Các bạn ông đều trịnh trọng đứng dậy, trịnh trọng bắt tay anh, nói chuyện với anh như một người bạn đáng kính.

Tôi sững sờ. Lại một cú sốc văn hóa. Người Pháp, trong gia đình, với bạn bè, luôn tôn trọng cuộc sống, sở thích của nhau, và trước tiên, của chính họ. Nếu ai đó làm nghề gì đó, thì trước tiên bởi họ thích, họ say mê. Với họ, nghề nào cũng cao quý, cũng đáng được tôn trọng. Niềm say mê là động lực, là cái đích cho mọi công việc. Nếu lúc nào đó chợt nhận ra mình nhầm, hay không còn say mê với nghề mình đang làm thì gần như dù ở bất kể thời điểm nào, kể cả khi đã có hàng chục năm kinh nghiệm, có chức vụ, có thu nhập cao, họ sẵn sàng từ bỏ tất cả, học lại, bắt đầu lại từ đầu với thứ mà họ thực sự đam mê. Anh bạn tôi mỗi tối ăn mặc đẹp, cẩn thận chuẩn bị cũng bởi niềm say mê, sự tôn trọng của anh đối với nghề, tôn trọng người khác. Anh bảo, mình làm nghề dịch vụ, phục vụ người khác mà mình không đẹp, không thơm, không chỉnh tề là mình không coi trọng khách hàng, không coi trọng bản thân và không coi trọng nghề của mình. Có vẻ như tôi hơi lạc đề so với câu chuyện “bảo tàng” của mình. Không phải. Tôi không thể không nhắc về anh, về bố con anh khi kể về các bảo tàng ở Pháp bởi hai người ấy là những “con mọt” bảo tàng nếu tôi có thể gọi như thế và là người cho tôi hiểu thêm rất nhiều điều về các bảo tàng, về văn hóa đi thăm bảo tàng của người châu Âu.

Anh bạn tôi, tất nhiên đã đến bảo tàng rượu vang nhiều lần rồi. Hơn thế, mỗi lần về anh lại mang theo những cuốn sách vừa mua, sách về rượu, về cách bảo quản rượu, cách rót rượu, cách uống rượu, về các loại ly khác nhau dùng cho các loại rượu khác nhau... Anh bảo “mình phục vụ khách thì phải biết phục vụ cái gì, rót ly rượu thì phải biết đang rót rượu gì, rót đúng cách không. Rồi khách hỏi mình ăn món này nên uống rượu gì, không biết nói hay nói lung tung thì không được, nhất là khách người Pháp ai cũng có ít nhiều hiểu biết về rượu vang. Bởi thế phải học, học ở đâu? Ở bảo tàng, ở sách vở, tài liệu. Đọc không thì chán, đọc xong đi bảo tàng kiểm chứng là thú vị nhất”. Tôi hiểu, có điều anh không chỉ đi bảo tàng về rượu, về ẩm thực, mà anh đi bảo tàng văn hóa, nghệ thuật, công nghệ. Anh không chỉ đi bảo tàng văn hóa Pháp mà đi cả bảo tàng văn hóa châu Á, châu Phi, Trung Đông… Cũng lại dễ hiểu thôi, nghề của anh gặp đủ loại người, đến từ mọi nơi, làm đủ mọi nghề, mà xét cho cùng, nghề nào cũng thế cả. Cái chính là khi ta ham hiểu biết và thấy lợi ích “thiết thực” cho việc trau dồi kiến thức của mình, ta sẽ làm nó bằng mọi cách, và thường xuyên.

Anh kể: “Tôi với bố tôi hay đi bảo tàng cùng nhau, từ khi tôi còn bé, bây giờ vẫn thế. Nhờ bảo tàng mà tôi hiểu bố mình hơn. Bình thường ông ít lời, dân kỹ thuật mà. Nhưng khi vào bảo tàng, ông cởi mở hơn. Nhìn mỗi thứ gợi nhớ đến những kỷ niệm của một giai đoạn nào đó, một sự kiện nào đó ông lại kể cho tôi nghe những câu chuyện quá khứ, của xã hội, của riêng ông. Còn khi đi những bảo tàng về những chủ đề hiện đại hơn, của giới trẻ ngày nay thì đến lượt tôi kể cho ông những chuyện của tôi. Có khi cùng nhìn vào một hiện vật, hai bố con lại có những cảm giác khác hẳn: với ông là một khám phá mới mẻ đầy phức tạp cách đây không lâu, còn với tôi là thứ trò con trẻ thời thơ ấu đáng buồn cười. Và hai bố con cười phá lên.” Tôi hỏi: “Này tôi để ý, người Pháp các anh đi đâu cũng quần áo chỉnh tề, trang trọng lắm, sao đi bảo tàng cũng là nơi lịch sự, toàn thấy các anh mặc quần bò, áo phông, nói chung quần áo tuềnh toàng, lại đeo balo mang cả bánh mỳ nước ngọt như đi leo núi ấy?” Anh bảo: “Quần áo phải thoải mái chứ, ăn uống phải đầy đủ chứ. Đi khám phá học hỏi mà. Có khi đi cả ngày, từ sáng tới tối. Phải sẵn sàng để có thể ngồi xuống, quỳ xuống, thậm chí nằm lăn ra để nhìn một thông số, một dòng chữ hay một cái dấu có khi ở dưới gầm ghế chẳng hạn. Rồi ngồi lăn ra đọc cuốn sách để kiểm chứng, học hỏi, ngồi bất cứ chỗ nào. Có khác gì đi vượt rừng, leo núi đâu, chỉ thiếu cái gậy”.

Sau này đi làm trong ngành tài chính, tôi còn gặp nhiều câu chuyện hơn nữa liên quan đến bảo tàng. Trong công ty tôi có cô kỹ sư công nghệ rất trẻ và xinh, vừa ra trường đã được nhận vào làm điều hành các dự án phát triển năng lượng sạch (năng lượng gió, mặt trời, thủy triều) với mức lương đáng ngưỡng mộ. Đùng một cái, một ngày cô ấy bảo: “Em nộp đơn xin nghỉ việc rồi anh ạ. Em đăng ký học ngành khác: nghiên cứu lịch sử và hướng dẫn viên bảo tàng. Em nghĩ nhiều rồi, đấy mới là say mê của em. Từ bé em đã thích đi bảo tàng, nghĩ là chỉ thích đi chơi với bố mẹ thế thôi, đi để học hỏi thêm. Nhưng càng ngày mới càng nhận thấy bảo tàng đã cho mình tất cả: niềm say mê sống, tình cảm gia đình, kiến thức xã hội. Em nhất định phải đem niềm say mê ấy đến cho nhiều người khác nữa. Em bắt đầu lại từ đầu. Nhất định thế.”

Đấy, văn hóa “bảo tàng” của họ là thế đấy. Bảo sao họ không thích đi bảo tàng, sao họ am hiểu đến thế đủ mọi chuyện mà ta cho là “vô bổ” nhưng nếu có ai kể cho một chút thì há hốc mồm ra nghe. Chữ “Musée” dịch ra thành “Bảo tàng” trong tiếng Việt dường như không ổn, hoặc nếu không phải là từ được dịch ra thì định nghĩa về “Bảo tàng” của ta không ổn. Này nhé, lấy định nghĩa trong từ điển tiếng Việt thì “bảo tàng” là “nơi tàng trữ, bảo quản và trưng bày những tài liệu, hiện vật có ý nghĩa lịch sử”, thế thôi. Còn chữ Musée trong tiếng Pháp được định nghĩa: “là nơi mà những hiện vật được thu thập, giữ gìn và trưng bày phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tìm hiểu thông tin, văn hóa” hoặc “là nơi quy tụ, với mục đích gìn giữ và trưng bày cho công chúng những bộ sưu tầm nghệ thuật, những tài sản văn hóa, khoa học, nghệ thuật.” Rõ ràng với những định nghĩa trong tiếng Pháp, khái niệm “bảo tàng” nghe gần gũi, hiện đại và có tính thu hút hơn hẳn. Nếu muốn học hỏi những điều tích cực, học hỏi để phát triển thì cần phải thay đổi, thay đổi từ trong suy nghĩ, nhận định của ta, từ có lẽ là cả một cái định nghĩa trong từ điển.

Nếu bây giờ bạn hỏi hình ảnh của tôi về “bảo tàng” là gì, tôi sẽ không trả lời bạn. Tôi sẽ nhắm mắt lại và nhìn thấy ánh mắt long lanh đầy tình cảm và niềm vui muốn chia sẻ của cô gái ấy, nhìn thấy hai cha con người bạn tôi: quần bò giày bệt, người nằm kẻ ngồi đang kể cho nhau nghe một câu chuyện xưa cũ bên cạnh một món đồ tưởng chừng chẳng liên quan gì, rồi cùng cười phá lên. Là cô bạn kỹ sư công nghệ của tôi miệt mài ghi chép, tươi tắn cầm tay các em nhỏ hoặc bế chúng lên, để chúng có thể nhìn thấy một chi tiết nhỏ được hỏi đến trong bài tập, hay một chi tiết đã được nhắc đến trong một cuốn truyện tranh. Không chỉ là “bảo quản, tàng trữ”, đó là nơi đang hiện diện cuộc sống, là gốc rễ cho sự phát triển của hiện tại, tương lai, là cái nôi cho sự hiểu biết và niềm đam mê, của tình yêu con người.