← Quay lại trang sách

Chương 3 Truy tìm Azoth-Cảnh 1: Nước đi trên bàn cờ

“Này, Emoto!” Kiyoshi gọi to khi nhìn thấy cậu bạn đang đứng đợi trên sân ga Kyoto.

“Lâu quá rồi!” Emoto chào hỏi và bắt tay Kiyoshi. Với nụ cười tươi rói trên mặt, Emoto hồ hởi, “Ông khỏe không?”

“Rất tiếc,” Kiyoshi cười nhăn nhở, “tôi không khỏe cho lắm, nhưng tôi rất vui được gặp ông.” Cậu giới thiệu tôi với Emoto.

“Ồ, các ông du lịch gọn nhẹ nhỉ!?” Emoto nói khi nhấc hành lý của chúng tôi lên. Anh ấy khá cao, để mái tóc ngắn tỉa gọn gàng và dường như có một phong thái rất thoải mái, phóng khoáng.

“Ừ. Chúng tôi chỉ việc nhảy lên tàu thôi mà.”

“Chà,” Emoto nói, nhìn Kiyoshi. “Ông đặt thời gian quá chuẩn. Hai ông tới vừa kịp mùa hoa anh đào nở.”

“Hoa anh đào à?” Kiyoshi ngơ ngác. “Ồ, à phải, đang là mùa anh đào nở hoa! Kazumi sẽ rất vui đây.”

Ngoài hoa anh đào, thành phố Kyoto còn nổi tiếng về quy hoạch. Cố đô được quy hoạch thành mạng lưới, giống như một bàn cờ. Tất cả các đường phố đều chạy theo hướng bắc-nam hoặc đông-tây, giống như ở New York. Emoto sống ở Nishi-kyogoku, phía tây nam trung tâm thành phố. Anh bạn trẻ lái xe đưa chúng tôi về nhà, tôi say sưa nhìn ngắm thành phố qua cửa xe. Có rất nhiều bảng hiệu đèn nê-ông và những tòa nhà văn phòng. Một số khu vực của Kyoto trông giống hệt Tokyo.

Căn hộ của Emoto gồm hai phòng ngủ. Rõ ràng, lần đầu tiên trong đời Kiyoshi và tôi sẽ ngủ chung một phòng.

“Ngủ một chút đi, ngày mai chúng ta sẽ rất bận bịu đấy.” Kiyoshi nói trong lúc chui tọt vào chăn.

Giọng Emoto vang lên phía sau cánh cửa. “Ngày mai các ông có muốn dùng xe của tôi không?”

“Không, cảm ơn,” Kiyoshi nằm gọn dưới chăn trả lời vọng ra.

Sáng hôm sau, chúng tôi đón chuyến tàu tuyến Hankyu tới Shijo-Kawaramachi, gần địa chỉ của Tamio Yasukawa.

“Địa chỉ của Yasukawa là Rokkaku-agura, Tominokoji. Anh có biết người ta làm thế nào tìm được một ngôi nhà căn cứ vào địa chỉ của nó ở Kyoto này không?”

“Rất xin lỗi, nếu anh quên mất là tôi từ Tokyo đến nhé.”

“Được rồi, một bài học rất nhanh thôi. Nhà của ông ấy trên phố Tominokoji, chạy theo hướng bắc-nam. Và Rokkaku chạy theo hướng đông-tây. Nơi hai con phố cắt nhau chính là vị trí chúng ta tìm kiếm. ‘Agaru’ nghĩa là ngôi nhà hơi ‘nhích lên trên’ tính từ Rokkaku nói cách khác là lệch về phía bắc.”

“A ha, tôi hiểu rồi.”

“Rất đơn giản mà lại thuận tiện.”

Chúng tôi xuống tàu và leo lên bậc cấp.

“Shijo-Kawaramachi là khu nhộn nhịp nhất Kyoto. Tuy nhiên, những người yêu Kyoto đếu nhất trí rằng đây là nơi tệ hại thứ hai của thành phố, sau Tháp Kyoto.”

“Sao lại thế?”

“Bởi vì nó không thích hợp với hình ảnh của một cố đô.”

Đúng như lời cậu nói, khi ra khỏi cổng ga chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy những tòa nhà hiện đại xếp hàng hai bên đường phố. Rõ ràng đây là Kyoto mới. Tôi thắc mắc không biết phố cổ Kyoto nằm ở đâu.

Kiyoshi đi rất nhanh còn tôi bám sát theo sau. Băng qua đường phố đông đúc, chúng tôi đến một đại lộ chạy dọc một con suối nông và hẹp. Nước trong đến kinh ngạc, nhìn rõ những hòn đá cuội dưới đáy. Rong tảo đang nhảy múa khẽ khàng trong dòng nước, phản chiếu những tia nắng buổi bình minh. Chắc chắn chúng tôi không thể thấy được hình ảnh tương tự ở Tokyo.

“Đây là sông Takase,” Kiyoshi nói. “Thật sự thì nó là một con kênh. Các thương gia đào nó để cho thuyền bè giao thương.” Cậu giải thích thêm trong lúc chúng tôi tiếp tục đi. Không lâu sau, Kiyoshi đột ngột dừng lại trước một tòa nhà.

“Nơi này là đâu thế?” Tôi hỏi.

“Một nhà hàng Trung Hoa. Chúng ta ăn thôi.”

Chúng tôi không nói chuyện gì nhiều trong bữa ăn.

Cả hai đều đắm chìm trong suy nghĩ. Tôi cố gằng hình dung xem cuộc sống của Yasukawa thế nào. Vì tên của ông được nhắc đến trong cuốn Tokyo hoàng đạo án nên chắc chắn ông thường xuyên bị những vị khách không mời tới quấy rầy hoặc tìm cách phỏng vấn. Hẳn là Yasukawa rất muốn được yên tĩnh. Buồn thay, hình ảnh mà tôi hình dung về Yasukawa là một người đàn ông cô độc đắm mình trong rượu chè. Chẳng sao cả, mối quan tâm của tôi là chứng minh rằng Heikichi Umezawa còn sống, hoặc ít nhất không hề bị giết hại.

Chúa mới biết được Kiyoshi nghĩ gì.

Cuối cùng khi chúng tôi tới được địa chỉ của Yasukawa, Kiyoshi tỏ ra bối rối. “Đây là phố Tominokoji… và kia là Rokkaku… nhưng có gì đó không đúng nhỉ. Chúng ta không thể đi thêm được nữa; đằng kia là phố khác rồi. Đây là chung cư duy nhất trong khu vực này. Có lẽ ông ấy không sống trong một căn hộ…”

Ở tầng trệt, có một quán rượu mang tên Bươm Bướm. Chẳng có nhiều lựa chọn, chúng tôi leo lên cầu thang hẹp để lên tầng hai nơi có các căn hộ. Đây chắc chắn không phải là tòa nhà sạch sẽ nhất hay mới nhất. Chúng tôi lần lượt kiểm tra tên các hòm thư trong hành lang, không có cái nào mang tên Yasukawa.

Kiyoshi bắt đầu tỏ ra thất vọng, nhưng cậu nhanh chóng lấy lại sự điềm tĩnh vốn có khi gõ cánh cửa gần nhất. Không có ai trả lời, cậu ấy tiếp tục thử cánh cửa tiếp theo, cũng không gặp may.

“Không hay rồi,” cậu nói. “Có lẽ họ nghĩ chúng ta là đám nhân viên tiếp thị. Chúng ta hay thử đầu bên kia vậy.”

Chiến thuật này có tác dụng. Khi chúng tôi gõ cánh cửa xa nhất, một bà già to béo đáp lời.

“Xin lỗi, thưa bác, chúng cháu không tiếp thị gì cả. Cháu muốn nhờ bác giúp,” Kiyoshi lên tiếng, nhã nhặn hết mức. “Chúng cháu đang tìm nhà một cụ ông có tên Tamio Yasukawa. Ông ấy có sống ở trong khu nhà này không ạ?”

“Ông Yasukawa à?... Để tôi nghĩ xem nào… Ồ, đúng, tôi nhớ ra rồi. Ông ấy chuyển đi từ lâu rồi.”

Kiyoshi quay sang tôi như thể đã đoán trước được.

“Ồ, vậy ạ? Thế bác có biết ông ấy chuyển đi đâu không ạ?”

“Tôi không rõ. Tại sao các cậu không đi hỏi viên quản lý ở dưới nhà ấy? Tên ông ấy là Okawa, nhưng có lẽ giờ này ông ấy không có ở đó đâu. Okawa có một quán rượu ở Kita-shirakawa. Nếu không có mặt ở đây có nghĩa là ông ấy đang ở đó.”

“Tên quán là gì ạ?”

“Bướm Trắng.”

Kiyoshi cảm ơn và chúng tôi đi xuống lầu dưới. Nhưng đúng như bà ấy dự đoán, chẳng có ai trả lời khi chúng tôi gõ cửa.

“Được rồi, chúng ta đi Kita-shirakawa và tìm ông Okawa.”

Xe buýt đưa chúng tôi đi về phía bắc thành phố, nhiều đền thờ và tòa nhà cổ hiện ra hai bên đường. Cảnh quan đẹp đến mức tôi bắt đầu cố hình dung xem cuộc sống sẽ ra sao nếu được sống ở khu vực này.

Quán rượu ở ngay bên cạnh trạm xe buýt Kita-shirakawa. Chúng tôi chưa kịp gõ cửa thì một người đàn ông đã ra mở cửa.

“Xin lỗi, bác có phải Okawa không ạ?”

Ông già sững người khi nghe thấy giọng Kiyoshi và lần lượt quan sát từng người chúng tôi.

Chúng tôi giải thích lý do cuộc viếng thăm của mình và nêu câu hỏi.

“Hừm… Để tôi xem… Làm sao tôi nhớ được lâu như thế?” Ông ấy nói, dò xét chúng tôi một cách cảnh giác. “Có lẽ tôi còn lưu trong hồ sơ, nhưng tôi cất ở nhà tôi tại Kawaramachi cơ. Các cậu có liên quan gì đến cảnh sát không?

Kiyoshi nhã nhặn hết mức. “Ôi giời,” cậu ấy cười toe toét, “chúng cháu trông giống lắm ạ?”

“Cho tôi xem thẻ ngành của các cậu được không?”

Tôi thoáng chút bối rối trước đề nghị của Okawa, nhưng Kiyoshi đã rất nhanh trí. Cậu ấy cau mày và nói với Okawa bằng một giọng rít lên, “Nói thật với bác, chúng cháu không được phép xuất trình thẻ ngành của mình cho bất kỳ người dân thường nào. Cháu xin lỗi. Bác đã bao giờ nghe nói đến Cục Điều tra Công an chưa ạ?”

“Ừm, có, tôi nghĩ tôi đã nghe nói đến…” Okawa lầm bầm. Đến lượt ông già trông hết sức lo lắng.

“Chậc…” Kiyoshi ngừng lại môt lúc truớc khi nói tiếp. “Lẽ ra cháu không nên nhắc đến. Xin hãy quên tất cả những gì cháu vừa nói đi ạ. Khi nào bác có thể tìm địa chỉ hiện nay của ông Yasukawa ạ?”

Ông Okawa đột nhiên tỏ thái độ hợp tác. “Tôi phải đi Takatsuki bây giờ nhưng tôi sẽ quay lại ngay. Tôi sẽ có địa chỉ của ông ấy lúc 5 giờ chiều. Các anh có thể gặp tôi lúc đó được không? Tôi sẽ đưa các anh số của tôi…”

“Anh cừ lắm,” tôi thì thào với Kiyoshi khi chúng tôi quay lại phố chính. “Tôi không biết rằng anh là một tay đại bịp cơ đấy!”

“Ồ, bình thường thôi,” cậu ấy đáp lại một cách hờ hững. “Một thám tử tư sẽ biết cách bộc lộ anh ta thật sự là ai đúng không?”

Chiến thuật của Kiyoshi nghe có vẻ có tác dụng, nhung tôi vẫn thấy lo lắng. Chúng tôi đã mất toi bốn tiếng - bốn tiếng đồng hồ trôi qua lãng phí. Hôm đó đã là thứ Sáu ngày mùng 6.

Chúng tôi đi dọc bờ sông cho tới khi đến một cây cầu nườm nượp xe cộ bắc ngang. Tôi nhận ra một tòa cao ốc; chúng tôi đang quay trở lại Shijo-Kawaramachi, nơi bắt đầu các hoạt động của ngày hôm nay. Tôi chỉ ước một cốc nước mát khi Kiyoshi bắt đầu lên tiếng.

“Có gì đó bị bỏ qua… Và có lẽ nó là gì đó rất kỳ cục và khó hiểu, nhưng tôi có linh cảm rằng nó không khó hiểu đến vậy. Khi chúng ta tìm ra mắt xích còn thiếu, chúng ta sẽ hiểu toàn bộ câu chuyện. Chúng ta có thể phải xem xét lại vụ việc từ đầu, đặc biệt nửa đầu tiên. Đúng, tôi nghĩ tất cả là do mắt xích còn thiếu đó. Trong suốt bốn mươi năm, các thám tử trên khắp nước Nhật đều lúng túng không thể tìm ra lời giải do thiếu mắt xích này. Chà, tôi là một thám tử không dễ dàng bỏ cuộc đâu!”

Cảnh 2: Hành động báng bổ

Chúng tôi ngồi giết thời gian trong một quán cà phê bằng cách chậm rãi nhâm nhi ly nước hoa quả. Gần đến 5 giờ, Kiyoshi đột nhiên đứng lên và đi tới một máy điện thoại công cộng. Cậu nói chuyện một lúc rồi quay lại.

“Tôi nắm được rồi!” Kiyoshi chỉ nói vậy. Tôi vớ vội hành lý của mình và chạy theo cậu ra khỏi cửa.

Đường phố giờ tan tầm bắt đầu đông dần lên. Kiyoshi đi thẳng qua đám đông vượt qua cây cầu bắc qua sông Kamo.

“Thế ông ta sống ở đâu?”

“Ở Neyagawa, trên đường đi Osaka. Chúng ta có thể đón tàu tuyến Keihan từ đằng kia.”

Nhà ga ngay trước mặt chúng tôi.

Từ sân ga, chúng tôi trông thấy dòng sông đang từ từ đổi màu khi ánh chiều tà buông xuống.

Chúng tôi xuống ga Korien. Tiếng Trung Quốc của tên gọi này nghĩa là “Hương Lí Viên” cho nên tôi hình dung vùng này sẽ nhiều cây cối thật dễ chịu. Nơi này quả đúng như tôi đã hình dung. Tôi thấy có mấy quán rượu và hộp đêm nhỏ với những biển hiệu đèn nê-ông lòe loẹt vừa mới được bật sáng để đón chào những người khách đầu tiên của buổi tối. Một số nhân viên văn phòng chếnh choáng đi trên hè phố vì rõ ràng vừa kết thúc sớm chầu nhậu, còn vài cô tiếp viên phấn son lòe loẹt vượt lên trước chúng tôi để kịp giờ đi làm.

Khi chúng tôi tìm được địa chỉ Okawa đưa, trời đã tối mịt. Quản lý tòa nhà đi vắng, nên chúng tôi lên gác và lại bắt đầu gõ từng cánh cửa. Một phụ nữ trung niên nói chưa bao giờ nghe bất kỳ ai có tên Yasukawa ở đây cả.

Chúng tôi may mắn hơn khi gặp vị chủ nhà tiếp theo. “Mới hôm trước vừa có người dọn đi,” ông cho biết. “Tôi nghĩ tên ông ấy đúng là Yasukawa. Chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện với nhau, nên tôi không biết ông ấy chuyển đi đâu. Sao các vị không hỏi người quản lý.”

Kiyoshi không giấu được nỗi thất vọng của mình. Nhưng chúng tôi cố gắng tới văn phòng người quản lý lần nữa và ngạc nhiên thay, ông ấy mới quay trở lại sau khi giải quyết mấy việc vặt.

“Tôi không biết gia đình đó chuyển đi đâu,” ông nói với thái độ hết sức hợp tác. “Hình như họ không muốn cho ai biết và tôi cũng chẳng quan tâm. Gia đình có vẻ không vui vì cụ ông vừa mới qua đời.”

“Chết rồi ư?!” Kiyoshi và tôi cùng kêu lên.

“Ý ông là ông Tamio Yasukawa phải không?,” Kiyoshi hỏi.

“Tamio à? Ồ, phải, chính là tên ông ấy đấy.”

Vậy là Yasukawa đã chết ngay tại Osaka này. Tôi cảm thấy nản chí. Giờ chẳng còn cách nào tìm hiểu được cuộc đời của ông ấy nữa. Ông ấy từng sống ở Tokyo, tham gia chiến tranh, rồi chuyển đến Osaka. Cuộc đời ông cụ đã kết thúc trong một căn hộ cũ kỹ xung quanh bốn bức tường nứt nẻ.

Tuy nhiên người quản lý cung cấp cho chúng tôi một số thông tin mới ngoài mong đợi. Ông kể rằng Yasukawa không sống một mình, ngược lại còn có một cô con gái trạc ngoài 30 tuổi. Chị này lấy một anh thợ mộc và họ có hai đứa con.

Bóng đèn trong hành lang nhấp nháy, người quản lý ném cho nó cái nhìn khó chịu mỗi lần ánh sáng sụt xuống.

Tim tôi trĩu nặng một nỗi buồn ghê gớm. Tôi cảm thấy mình như một đứa trẻ bị bắt quả tang phạm lỗi. Chúng tôi đang theo dấu một con người tội nghiệp không thể có được một cuộc sống hạnh phúc và vừa mới qua đời. Đây không còn là một cuộc phiêu lưu nữa. Có gì đó rất báng bổ khi cứ bới móc vào đời tư của ông già này - một hành vi báng bổ thiếu nhân đạo.

Kiyoshi dường như cũng chìm trong suy tư.

“Nếu các anh thật sự muốn biết họ chuyển đi đâu,” người quản lý tình nguyện, “tôi có thế hỏi công ty vận chuyển. Chỉ mới tháng trước họ còn ở đây, cho nên tôi nhớ tên họ. Hãng vận chuyển Neyagawa, trụ sở ngay phía trước ga Neyagawa.”

Chúng tôi cảm ơn ông quản lý và ra đi.

“Mấy giờ rồi nhỉ?” Kiyoshi hỏi.

“Tám giờ kém mười.”

“Vậy là chúng ta vẫn có thể hành động,” cậu hào hứng thấy rõ. “Chúng ta tới hãng vận chuyển Neyagawa!”

Chúng tôi đi bộ trở lại ga tàu và đón chuyến tàu tới Neyagawa.

Không khó để tìm được công ty này, nhưng đã quá muộn vì tan sở mọi người đã đi về hết. Căn cứ vào một tấm biển có ghi “DỌN NHÀ? HÃY GỌI CHO CHÚNG TÔI!” Kiyoshi ghi lại số điện thoại của công ty. Sáng mai cậu sẽ gọi. Sau đó chúng tôi quay trở về căn hộ của Emoto.

Và ngày thứ Sáu mùng 6 tháng Tư, kết thúc như vậy.

Cảnh 3: Bắc qua mặt trăng

Sáng hôm sau, tôi bị đánh thức bởi tiếng của Kiyoshi nói chuyện với ai đó trên điện thoại. Lúc ấy khá muộn nên Emoto đã đến công sở. Tôi ngồi dậy, cất túi ngủ vào tủ và xuống bếp kiếm ít cà phê.

Khi tôi vào phòng khách tiện thể mang cho Kiyoshi một tách cà phê thì cậu vừa mới kết thúc cuộc gọi. Cậu xé một tờ giấy nhắc việc và nói, “Con gái Yasukawa đang ở Higashi-yodogawa tại Osaka. Tôi không thể hỏi được địa chỉ chính xác của chị ấy, nhưng công ty vận tải nói ở gần bến xe buýt tại Toyosato-cho, cuối một con hẻm và gần một cửa hàng bánh tráng có tên Omichi-ya. Chồng chị ấy tên là Kato. Chúng ta đi nào!”

Khi chúng tôi đến Toyosato-cho, từ xa chúng tôi có thể nhìn thấy cây cầu thép bắc qua sông Yodo. Khu vực này vẫn còn rất kém phát triển. Rải rác khắp những rẻo đất bỏ trống mọc đầy lau lách là những chiếc lốp xe cũ. Tuy nhiên, đường phố dường như mới được rải nhựa. Chúng tôi đi xuống một con hẻm nằm giữa một cụm lều lán và tìm thấy ngay cửa hàng bánh tráng. Qua một chút là vài cụm nhà bình dị. Căn cứ vào những hòm thư có ghi tên, chúng tôi tìm được căn hộ của bà Kato.

Chúng tôi leo lên thang gỗ và tìm đường vào căn hộ, len qua khu vực giặt ngay trên lối đi. Cửa sổ của họ mở hé, chúng tôi nghe thấy tiếng rửa bát đĩa và tiếng khóc của một đứa bé.

Kiyoshi gõ cửa, lập tức một phụ nữ xuất hiện. Người phụ nữ không trang điểm và mái tóc thì rối bù. Đó chính là con gái của Yasukawa. Kiyoshi bắt đầu giải thích mục đích chuyến thăm của chúng tôi, nhưng chủ nhà ngắt lời khi Kiyoshi chưa kịp nói gì nhiều.

“Tôi chẳng có gì để nói về việc đó! Cha tôi không làm gì cả. Chúng tôi đã chán lắm rồi. Hãy để chúng tôi yên!” Chủ nhà đóng sầm cửa, khiến cho đứa bé khóc càng to hơn.

Kiyoshi đứng trước cửa, không nhúc nhích. Trông cậu mất hết tinh thần.

Tôi rất ngạc nhiên khi nghe con gái Yasukawa nói phương ngữ vùng Kanto; chúng tôi đang ở sâu trong vùng Kansai và suốt hai ngày qua chúng tôi được nghe mọi dạng biến thể của thổ âm Kansai.

Khi chúng tôi rời khỏi khu chung cư, Kiyoshi nói khẽ “Tôi biết chị ấy sẽ từ chối nói chuyện với chúng ta mà. Ông bố cũng sẽ như vậy nếu ông ấy vẫn còn sống. Tôi chỉ muốn tới gặp Yasukawa nhân danh Bunjiro Takegoshi. Thôi, chúng ta hãy quên Yasukawa và con gái ông ấy đi.”

“Vậy giờ chúng ta làm gì đây?”

“Tôi không biết. Chúng ta quay về Kyoto đã.”

Vậy là chúng tôi lên tàu mà chẳng có một kế hoạch nào trong đầu.

Kiyoshi chìm trong suy nghĩ suốt đường đi, rồi đột ngột lên tiếng, “Kazumi, giờ anh đã ở Kyoto, sao anh không nhân cơ hội này đi thăm chú một chút nhỉ? Tôi gợi ý tới thăm Arashiyama, hoa anh đào vùng này đang độ rực rỡ. Anh có thể đổi tàu ở trạm tiếp theo, Katsura. Cẩm nang chỉ dẫn ở đây. Tôi muốn ở một mình để tập trung suy nghĩ. Tôi sẽ gặp anh ở nhà Emoto.”

Tôi xuống tàu tại Arashiyama và đi thẳng ra phía sông. Kiyoshi nói đúng một chi tiết: hoa anh đào tuyệt đẹp.

Một cô maiko - thiếu nữ trẻ được huấn luyện để trở thành geisha - đi ngang qua khiến tất cả mọi người chú ý. Cô mặc bộ kimono và đi cùng một cậu choai choai có mái tóc nhuộm vàng. Cậu nhóc đeo một cái máy ảnh trên cổ. Đôi dép gỗ đế dày tạo ra thứ âm thanh êm dịu, dễ chịu theo mỗi bước chân của cô gái.

Tôi theo đám đông đi về phía sông Katsura. Theo sách hướng dẫn, cây cầu có tên gọi Togetsu-kyo, có nghĩa là “cầu bắc qua mặt trăng”. Chắc là khi mặt trăng được phản chiếu trên mặt sông, du khách sẽ có cảm giác mình đang trôi bồng bềnh phía trên mặt trăng.

Gần đây là một ngôi miếu nhỏ. Nhưng khi đến gần, tôi mới nhận ra đó là một trạm điện thoại được thiết kế giống như một miếu thờ. Tôi nghĩ đến việc gọi cho ai đó từ chỗ này cho lạ, nhưng trong đầu chẳng nghĩ ra ai cả.

Sau bữa trưa, tôi bắt xe điện đi dạo. Việc này làm tôi rất thích thú vì Tokyo không còn xe điện nữa. Tôi nhớ đã từng đọc trong một cuốn tiểu thuyết trinh thám rằng nhân vật thám tử nảy ra cảm hứng trong lúc đi xe điện. Tôi cảm thấy những tiểu thuyết trinh thám hay ho ngày trước đều lỗi thời như những chiếc xe điện vậy!

Tôi chẳng biết xe điện đang đi đâu nên đành xuống ở trạm cuối cùng, Shijo-Omiya. Tôi đi bộ dọc một con phố đông đúc và đột nhiên nhận ra mình đã quay lại Shijo-Kawaramichi. Không lẽ tất cả đường phố ở Kyoto đều dẫn về Shijo-Kawaramachi?

Từ đó, tôi đi thẳng tới đền Kiyomizu nổi tiếng thả bộ theo vỉa hè lát đá Sannen-zaka và dừng lại ở một quán trà nhỏ để uống tách rượu gạo amazake ngọt lịm. Rồi lại tiếp tục lang thang.

Trước cửa một tiệm đồ cổ nhỏ có một phụ nữ mặc kimono đang rẩy nước ra vỉa hè cho đỡ bụi. Cô làm rất cẩn thận, không để bắn lên người tôi và tôi cảm kích vì sự chu đáo ấy.

Tôi quay lại Shijo-Kawaramachi. Đã thấm mệt với chuyến du lịch vất vả này, tôi quyết định quay về nhà Emoto.

Emoto đã về đến nhà.

“Ồ, ông về rồi à! Tham quan có thích không?”

“Có, tuyệt lắm!”

“Kiyoshi đâu rồi?”

“Chúng tôi tách nhau trên tàu… Chà, thật ra thì cậu ấy bỏ tôi!”

Emoto nhăn mặt, nửa thích thú, nửa cảm thông.

Khi chúng tôi đang chuẩn bị món sốt hải sản cho bữa tối thì Kiyoshi thẫn thờ bước vào như người mộng du. Cậu chẳng nói gì, dù chỉ một câu chào cộc lốc.

Ăn xong bữa tối, tình trạng của Kiyoshi cũng chẳng có gì khác. Đồ ăn của Emoto rất tuyệt, nhưng Kiyoshi không chú ý lắm.

“Ngày mai là Chủ nhật,” Emoto nói với Kiyoshi. “Mai tôi được nghỉ nên ta làm một chuyến lên phía bắc Kyoto nhé? Tôi biết các ông bận, nhưng theo lời Kazumi, việc các ông đang làm ở đây chủ yếu là vận dụng trí não. Cho nên tại sao các ông không đi xe? Các ông vẫn có thể làm việc trên xe mà.”

Kiyoshi ngoan ngoãn gật đầu. “Được, miễn là các vị để tôi ngồi yên ở phía sau.”

Cảnh 4: Bờ sông

Kiyoshi không nói một lời trong khi Emoto lái xe đưa chúng tôi tới Sanzen-in, một đền thờ ở Ohara, phía bắc Kyoto. Cậu ấy ngồi ở ghế sau lặng im như một pho tượng Phật.

Chúng tôi dừng lại tại một tiệm ăn ở Ohara để thưởng thức chút đồ ăn Thiền kaiseki rất ngon. Ngay cả khi Emoto giải thích về các món ăn truyền thống, tâm trí Kiyoshi dường như vẫn đang ở đâu đâu.

Emoto và tôi vẫn tiếp tục, tôi thấy hài lòng vì có cơ hội thăm nhiều nơi ở Kyoto: Đại học Doshisha, Đại học Kyoto, Lâu đài Nijo, Đền Heian, Hoàng cung, và phim trường Uzumasa.

Buổi tối, Emoto đãi chúng tôi bữa tối sushi ở Kawaramichi và sau đó đưa chúng tôi tới một quán cà phê rất hấp dẫn chuyên chơi nhạc cổ điển.

Đó là một ngày vô cùng thú vị, mặc dù chúng tôi không tiến thêm được bước nào trong vụ án.

Khi tôi thức dậy vào sáng hôm sau, Kiyoshi và Emoto đều đã đi mất.

Tôi ăn sáng ở gần nhà ga rồi bắt đầu lang thang không chủ đích. Tôi vào khu mua sắm, băng qua một con mương nhỏ sang một sân chơi. Vài nhóm người chạy bộ chạy ngang qua. Tôi cố gắng tập trung trở lại vụ án.

Vụ giết người hoàng đạo không phải là một bí ẩn bình thường. Nó có tầm vóc đến mức cuộc sống của nhiều người đã bị hủy hoại. Có người đã bán toàn bộ tài sản của mình để đầu tư nghiên cứu vụ án. Có người thì hóa điên và tự sát bằng việc nhảy từ trên vách đá xuống biển Nhật Bản. Phải chăng tôi cũng sẽ bị hiến sinh trước đàn tế của bí ẩn này?

Tôi quyết định quay lại Kawaramachi. Tôi thấy thích quán cà phê chuyên chơi nhạc cổ điển và nghĩ nên “tị nạn” ở đấy. Sau đó, có lẽ tôi nên dừng ở một hiệu sách và mua một cuốn sách dạy về minh họa.

Trong lúc đứng chờ chuyến tàu địa phương sắp đến, một chuyến tàu tốc hành chạy ào qua, khiến cho một ít rác bị cuốn tung lên. Đột nhiên, cảnh tượng đó làm tôi nhớ đến bờ sông ở Toyosato - cho - vùng đất bỏ không, lau lách, những cái lốp xe bị vứt bỏ. Tôi nghĩ về con gái Yasukawa. Việc không thể trò chuyện được với chị ta đã để lại một lỗ hổng lớn trong quá trình điều tra của chúng tôi. Chúng tôi cần câu chuyện của người phụ nữ đó - có rất nhiều điều chị ta có thể nói với chúng tôi. Tôi đứng lên, đi xuống sảnh ga và vượt qua mé bên kia của con hẻm. Tôi sẽ quay lại gặp con gái của Yasukawa.

Đồng hồ chỉ hơn 4 giờ một chút khi tôi đến Toyosato-cho. Quanh nhà ga chẳng có gì nhiều. Chỉ có mấy người bán bánh xèo Nhật Bản okonomiyaki và bánh nướng nhân bạch tuộc takoyaki, hai thứ đồ ăn vặt rất được ưa chuộng ở Kansai. Tôi đi bộ về phía cây cầu bắc qua sông Yodo, đi dọc ngõ hẻm lần nữa, tìm quán bánh tráng và bắt đầu đi lên cầu thang của khu chung cư. Chính lúc đó cảm giác ngập ngừng trào lên trong tôi.

Liệu người phụ nữ kia có sẵn lòng trò chuyện với tôi không? Những vụ án mạng nhà Umezawa chẳng phải là chuyện thú vị, nhưng chí ít chị ta cũng phải quan tâm đến sự liên đới của cha mình trong vụ án này chứ nhỉ. Có lẽ tôi nên mang theo cuốn sổ ghi chép của ông Takegoshi. Mối liên hệ của chúng tôi với ông ấy chắc chắn nâng tầm chúng tôi lên cao hơn đám thám tử nghiệp dư vẫn đến gõ cửa nhà họ. Tôi có thể nói tôi là bạn thân của con gái ông Takegoshi. Tuy là lời nói dối, nhưng tôi phải làm những gì cần thiết. Điều tôi muốn là thu được manh mối dù nhỏ nhất chứng tỏ rằng Heikichi Umezawa chưa chết. Ngoài ra, tôi còn muốn tìm hiểu xem cuộc sống của Yasukawa thế nào sau vụ việc. Nếu Heikichi chưa bị sát hại, có lẽ họ vẫn giữ liên lạc với nhau chăng?

Lần này, không còn những người giặt giũ ở lối đi. Tôi gõ cửa. Chủ nhà mở cửa và không hề giấu vẻ khó chịu của mình khi lại nhìn thấy tôi.

“Tôi rất xin lỗi, xin bỏ qua cho tôi, tôi không có ý thiếu tôn trọng, tôi thực sự rất xin lỗi.” tôi nói, cúi người nhiều lần. Tôi đang cố gắng để một vài lời của mình lọt được vào trong nhà trước khi chị ta ra đóng sập cửa trước mặt tôi. “Tôi tự mình đến đây. Tôi có vài thông tin mới về vụ việc, và tôi muốn kể cho chị nghe về nó…”

Có lẽ trông tôi rất nghiêm túc, thậm chí hơi ngốc ngếch khi xin lỗi rối rít. Người phụ nữ mỉm cười, từ từ bước ra khỏi cửa. “Chúng ta ra bờ sông nhé,” chị ta nói. “Con tôi thích được ra ngoài.”

Ra đến sông, tôi bắt đầu nói liên tục, chỉ dừng lại để thở. Thật kỳ cục, người phụ nữ này không quan tâm đến câu chuyện của tôi như tôi mong đợi, mặc dù vẫn lắng nghe, cuối cùng chị ta lên tiếng.

“Chà, anh Ishioka, tôi có thể nói gì với anh đây? Tôi lớn lên ở Tokyo. Nhà tôi gần ga Hasunuma trên tuyến Ikegami, nhưng mẹ tôi thường đi bộ tới Kamata để đỡ tốn tiền,” chị ta mỉm cười chua chát. “Cha mẹ tôi không kể với tôi về thời tuổi trẻ của họ, cho nên tôi không biết giúp được bao nhiêu cho anh. Những gì tôi thật sự biết là sau vụ án mạng nhà Umezawa, cha tôi gia nhập quân đội. Ông ấy bị thương trong chiến tranh: tay phải bị liệt. Khi trở lại Nhật Bản, ông ấy gặp mẹ tôi và cưới bà. Mới đầu họ rất hạnh phúc, nhưng sau đó cha tôi sa vào một lối sống khá bạc nhược. Chúng tôi lâm vào túng quẫn và sống nhờ trợ cấp, trong khi ông ấy chơi cờ bạc. Ngày nào cha tôi cũng mò tới các đường đua Omori và Oi. Mẹ tôi buộc phải làm việc kiếm tiền. Căn hộ của chúng tôi chỉ là một phòng rộng bằng sáu manh chiếu. Nó quá nhỏ cho ba người, nhưng không còn lựa chọn nào khác. Cha tôi say xỉn và đánh đập mẹ tôi hằng ngày. Thỉnh thoảng ông ấy bị ảo giác, khăng khăng cho rằng ông nhìn thấy những người thân đã chết từ lâu…”

Tôi phải ngắt lời. “Họ là ai? Cụ ông có nhắc đến Heikichi Umezawa không?”

“Tôi đoán anh sẽ hỏi như thế. Có, tôi nghe cha tôi nhắc đến ông Umezawa, nhưng làm sao chúng tôi tin được cha mình? Cha tôi không mấy khi làm được những việc có ý nghĩa. Có lẽ cha tôi bị phê thuốc hoặc say rượu. Anh biết đấy, cha tôi thỉnh thoảng có dùng moóc phin.”

“Nếu cha chị thực sự nhìn thấy Umezawa thì ông cụ sẽ là một nhân chứng rất quan trọng trong vụ án.”

Đầy phấn chấn và hứng khởi, tôi nói với người phụ nữ về giả thiết của mình: Heikichi giết người thế mạng và biến mất; Heikichi giết Kazue để giữ bí mật tội ác của mình; chỉ có Heikichi mới có động cơ thực hiện vụ án mạng Azoth…

Mối quan tâm của Kato với vụ việc dường như càng giảm hơn nữa. Chị ta xốc đứa bé trên lưng, để cho gió thổi qua tóc mình.

“Thế cha chị có nhắc nhở gì đến Azoth không?” - Tôi hỏi.

“Chà, có thể có, nhưng lúc đó tôi còn nhỏ… tôi nghĩ tôi có nghe thấy cái tên Heikichi Umezawa lại được nhắc đến gần đây, nhưng tôi không quan tâm đến vụ việc hoặc con người đó. Tôi vẫn cảm thấy phẫn nộ khi nghe đến tên lão. Nó chỉ mang lại những ký ức buồn đau. Toàn những kẻ lạ mặt đến làm phiền chúng tôi. Nhiều lúc tôi về nhà và thấy có người chờ cha trong căn hộ của mình chỉ để hỏi một câu ngớ ngẩn. Chúng tôi chẳng còn quyền riêng tư, và tôi sống trong tình trạng bức bối mỗi ngày. Thậm chí đến tận hôm nay, tôi vẫn thấy bực. Đó là một trong những lý do khiến chúng tôi chuyển đến Kyoto.”

“Tôi rất xin lỗi. Chị đã phải chịu quá nhiều đau khổ, và tôi chỉ làm tăng thêm điều đó. Tôi rất xin lỗi đã đến làm phiền chị.”

“Đừng xin lỗi nữa. Tôi cũng xin lỗi vì thái độ của tôi ngày hôm trước. Các anh đến vào đúng thời điểm khó chịu và tôi đã không kiềm chế được.”

“Chị thật tốt và tôi cảm ơn chị vì đã nói chuyện với tôi. Mẹ chị có khỏe không ạ?”

“Mẹ tôi ly hôn với cha tôi. Bà cụ muốn mang tôi theo, nhưng cha tôi không chịu. Sau khi mẹ tôi ra đi, ông cụ thực sự là người cha rất tốt với tôi. Tôi rất tiếc vì cha tôi đã phải rời bỏ công việc mà ông cụ yêu thích. Chúng tôi nghèo, nhưng thời điểm đó rất nhiều người nghèo, cho nên tôi chẳng bao giờ cảm thấy xấu hổ về điều kiện sống của chúng tôi cả.”

“Cha chị có bạn bè thân thiết nào không?”

“Ông ấy đánh bạc và bù khú rượu chè với nhiều người khác nhau, nhưng chỉ có một người bạn thân là Shusai Yoshida. Cha tôi vô cùng ngưỡng mộ ông ấy.”

“Shusai Yoshida vẫn còn sống chứ?”

“Đúng, ông ấy còn sống.”

“Ông ấy làm gì?”

“Tôi nghĩ ông Yoshida là một thầy bói kiểu Trung Hoa. Có lẽ ông ấy trẻ hơn cha tôi đến mười tuổi. Họ gặp nhau trong một quán rượu ở Tokyo.”

“Ở Tokyo ư?”

“Vâng, đúng như vậy.”

“Cha chị cũng quan tâm đến tướng số phải không?”

“Tôi không nghĩ vậy. Cha tôi quý ông Yoshida vì họ cùng chung sở thích chế tạo búp bê.”

“Chế tạo búp bê ư?”

“Vâng, tôi nghĩ đó là lý do khiến họ trở thành bạn bè. Sau khi ông Yoshida chuyển đến Kyoto, cha tôi cũng làm theo.”

“Chị có kể chuyện này cho cảnh sát không?”

“Kể cho cảnh sát ư? Tại sao tôi phải làm thế? Không, chẳng bao giờ.”

“Thế còn tất cả những thám tử nghiệp dư? Chị có kể với họ điều gì liên quan đến chi tiết này không?”

“Không, không. Anh là người đầu tiên đấy.”

“Tôi muốn hỏi chị thêm hai câu. Từ những điều chị nghe cha mình nói, chị có nghĩ Heikichi Umezawa còn sống không? Và chị có nghĩ rằng ông ấy thực sự đã tạo ra Azoth không?”

“Tôi không biết. Tôi không chú ý nghe cha tôi cho lắm. Có vẻ cha tôi tin rằng Umezawa vẫn còn sống, nhưng - để tôi nói lại với anh điều này - cha tôi đã mất hết mọi cảm xúc. Nếu anh gặp ông cụ, anh sẽ nhận thấy điều đó. Tại sao anh không tới gặp ông Yoshida nhỉ? Ông ấy đáng tin cậy hơn nhiều. Cha tôi hoàn toàn tin tưởng ông. Tôi không nghĩ ông Yoshida sẽ thêu dệt sự thật.”

“Ông Yoshida sống ở đâu?”

“Tôi chỉ gặp ông có một lần và tôi không có địa chỉ hay số điện thoại gì cả. Tôi chắc là ông Yoshida sống gần xưởng xe Karasuma ở khu Kita, Kyoto. Khu vực đó ở cuối phố Karasuma. Nếu anh hỏi thăm, tôi tin chắc anh sẽ đến được nơi đó.”

Tôi cảm ơn người phụ nữ và cáo từ. Chị ta quay đi, nựng nịu đứa con và không hề ngoái lại nhìn tôi.

Tôi đi xuống bờ sông, len vào đám lau lách, theo một lối hẹp ra mép nước. Lau lách mọc cao hơn cả tôi, khiến tôi có cảm giác đang đi qua một đường hầm. Ở mép nước, những con sóng nhẹ nhàng vỗ vào bờ đất đen. Tôi ngước nhìn lên. Cây cầu sắt đổ bóng xuống dòng sông trong ánh sáng đang nhạt dần và những ánh đèn pha ô tô đã bắt đầu nhấp nháy.

Cuộc trò chuyện với con gái ông Yasukawa khiến tôi thêm nhiệt huyết.

Vậy là Yasukawa nghĩ rằng Heikichi chưa chết…Yoshida Shusai hẳn phải biết điều gì đó.

Lúc đó là 7giờ 5 phút tối ngày mùng 9. Chúng tôi còn đúng 3 ngày thì hết hạn. Tôi không thể lãng phí thêm thời gian nữa. Tôi bắt tàu trở lại Shijo-Kawaramachi rồi đón xe buýt đến xưởng xe Karasuma. Tôi không biết đường nhưng xe buýt ở đây chạy loanh quanh khắp phố. Gần 10 giờ tối thì tôi đến nơi. Đường phố vắng ngắt. Tôi đi bộ kiếm ngôi nhà có tên Yoshida, nhưng không tìm thấy. Tôi phải nhờ đồn cảnh sát khu vực chỉ dẫn.

Cuối cùng, tôi cũng tìm thấy nhà, nhưng trong nhà không sáng đèn. Lại quá muộn! Tôi quyết định sẽ quay lại vào ngày hôm sau. Hy vọng khi đó ông ấy sẽ có nhà.

Khi tôi trở về căn hộ của Emoto, Kiyoshi và Emoto đã đi ngủ. Kiyoshi còn tử tế dọn sẵn giường cho tôi - có lẽ cậu ấy không muốn bị quấy rầy đêm khuya khi đã ngủ bởi những tiếng lịch kịch dọn giường. Nhừng dù sao tôi cũng rất cảm kích. Tôi khẽ khàng chui vào chăn, nghĩ về tất cả những chuyện đã xảy ra và tất cả những gì phía trước. Hơi thở của tôi chậm lại và tôi chìm vào một giấc ngủ say.

Cảnh 5: Thợ làm búp bê

Sáng hôm sau khi tôi thức giấc thì Kiyoshi và Emoto đều đã đi cả. Tôi lại lỡ cơ hội kể cho Kiyoshi những điều đã biết từ con gái ông Yasukawa, thông tin khiến tôi rất phấn khởi. Tôi hơi tiếc vì đã ngủ nướng, nhưng rồi chợt nghĩ ra: tôi có thể tự mình tiếp tục quá trình tìm kiếm. Và nếu tôi giải quyết được vụ án trước Kiyoshi thì đó sẽ là một kết thúc quá ư có hậu.

Tôi thay quần áo và đi thẳng tới xưởng xe Karasuma. Tôi đến nhà Shusai Yoshida lúc khoảng 10 sáng. Tôi đẩy cánh cửa trượt ở lối vào và gọi to để xem có ai ở nhà không. Một bà lão mặc kimono xuất hiện. Tôi thưa rằng tôi muốn nói chuyện với ông Yoshida.

“Tôi e rằng chồng tôi đang ở Nagoya,” bà lão đáp.

Tôi thấy lòng chùng hẳn xuống. “Chà, cho phép cháu hỏi khi nào bác trai sẽ về ạ?”

“Có lẽ tối nay.”

Chậc, thế còn hơn không. Tôi xin hỏi số điện thoại để gọi trước khi tới lần nữa.

Chán nản, tôi đi bộ về phía nam dọc sông Kamo cho tới khi dòng chảy nhập vào sông Takano. Thật tình cờ, tôi nhận ra mình đã ở gần Imadegawa: Đó chính là nơi gia đình vợ cũ của Heikichi, bà Tae, đã từng sống một cuộc sống không mấy hạnh phúc.

Giờ đã là ngày mùng 10. Chỉ hai ngày nữa, chúng tôi phải kết thúc giao kèo với Takegoshi Con. Tôi có cảm giác rằng chúng tôi không thể thu được gì vào thời gian đó, cho dù tối nay thu được manh mối quan trọng từ Shusai Yoshida hoặc có được một chỉ dẫn bất ngờ nào đó vào ngày mai.

Tôi gọi đến nhà Yoshida lúc 2 giờ chiều. Bà lão cho tôi biết lão vẫn chưa về và xin lỗi tôi. Tôi không muốn cứ làm phiền bà nên quyết định không gọi lại trước 5 giờ chiều. Tôi cảm thấy tâm trạng thất vọng ngày càng tăng.

Tôi ngồi trong công viên một lúc rồi đi tới một hiệu sách. Cuối cùng, tôi ghé vào một quán cà phê ở tầng hai để có thể nhìn người ta qua lại mà không để họ phát hiện ra mình. Lúc 4 giờ 50 chiều, không thể đợi lâu hơn được nữa. Tôi quay số máy nhà Yoshida và phấn chấn hẳn khi nghe tin ông lão vừa về đến nhà. Tôi gác máy và chạy lao đi, suýt nữa va phải cô phục vụ đang bưng một khay cà phê nóng.

Con gái ông Yasukawa nói rằng ông Shusai Yoshida khoảng 60 tuổi; nhưng mái tóc bạc trắng khiến ông lão trông già hơn nhiều. Ông Yoshida chào tôi rất nhã nhặn và dẫn tôi vào phòng khách. Ngồi xuống trường kỷ, tôi thuật lại thật nhanh lời thú nhận của ông Bunjiro Takegoshi và cuộc trò chuyện của tôi với con gái ông Yasukawa.

“Dường như ông Yasukawa nghĩ rằng ông Heikichi Umezawa vẫn còn sống. Bác có nghĩ ông Umezawa vẫn còn sống không ạ? Và nếu đúng vậy thì ông ấy có tạo ra Azoth không?” Tôi hỏi.

Ông Yoshida im lặng ngả người trên ghế, lắng nghe rất chăm chú. Vẻ mặt ông lão thoải mái, mái tóc bạc ôm lấy khuôn mặt hơi dài với ánh mắt dịu dàng nhưng sắc bén. Dáng điệu của chủ nhà toát lên vẻ chính trực và căng tràn sức sống. Thật ngạc nhiên là ông ấy rất hợp với hình ảnh con sói đơn độc mà tôi hình dung.

“Dĩ nhiên tôi có biết vụ án,” ông lão bắt đầu nói. “Tôi đã tìm hiểu vụ việc bằng kỹ thuật đoán số mệnh nhưng không có bất kỳ kết luận gì về cái chết của Heikichi Umezawa. Tôi nghĩ 60% khả năng là ông ấy đã chết. Về Azoth, theo tôi chắc Heikichi đã tạo ra nó. Tôi là thợ làm búp bê, nên tôi hiểu suy nghĩ của ông ấy. Nếu Heikichi gây ra các vụ án mạng thì không có lý do gì ông ấy lại không hoàn thành ý tưởng sáng tạo của mình.”

Đúng lúc đó, bà vợ ông Yoshida bưng một ít trà và bánh ngọt bước vào phòng. Tôi nhận ra do quá chú tâm với những suy nghĩ của mình nên quên mang theo một món quà theo phong tục truyền thống. Tôi bối rối xin lỗi.

“Ồ, đừng ngại,” ông Yoshida cười to, khiến tôi cảm thấy an tâm.

Các giá sách trong phòng khách đầy kín sách và đủ các loại búp bê; một số con được làm bằng gỗ, một số bằng nhựa tổng hợp. Hầu hết số búp bê ấy trông vô cùng sống động. Tôi hỏi ông Yoshida xem mối quan tâm đến nghề làm búp bê của ông lão hình thành như thế nào.

“Chà, thật sự thì tôi quan tâm đến con người. Không dễ giải thích mối liên hệ này trừ phi có cùng chung sở thích.”

“Cháu hiểu. Nhưng bác nói bác có thể hiểu niềm đam mê của ông Heikichi Umezawa đối với việc tạo ra Azoth.”

“Để tôi giải thích nhé. Có gì đó rất kỳ diệu - nói như thế đúng hơn - về công việc chế tạo búp bê. Búp bê là bản sao của con người. Khi tạo ra một con búp bê một cách suôn sẻ, chúng ta có được cảm giác nhất định về sự sáng tạo. Chúng ta cảm thấy như thể con búp bê đang dần dần có linh hồn. Tôi đã từng có cảm giác này nhiều lần. Chính vì thế, khi làm búp bê, luôn có một cảm giác kỳ lạ về sức mạnh. Cảm giác mà tôi có được sâu xa đến mức tôi không thể nào tìm được đúng từ để diễn đạt xem tại sao nó lại cuốn hút tôi đến vậy. Từ ‘cuốn hút’ chưa thật sự đúng với những gì tôi cảm nhận. Theo truyền thống, anh Ishioka ạ, người Nhật không thích làm búp bê lắm. Thời xưa, họ làm những hình haniwa trong các dịp lễ; đó là hình nhân thế mạng thay cho những người bị chôn sống làm vật hiến tế. Làm búp bê có ý nghĩa như là tạo ra một con người chứ không phải là một sở thích hay nghệ thuật. Thực tế, người Nhật xưa rất sợ rằng một con búp bê có thể đánh cắp linh hồn họ. Đó là lý do tại sao họ không muốn tạo ra chúng hoặc thậm chí không vẽ những bức chân dung: điều đó không phải do họ thiếu kỹ năng. Vẽ chân dung - cũng như làm búp bê - là một điều cấm kỵ. Chính vì thế rất ít chân dung hoặc tượng của các hoàng đế và tướng lĩnh ở Nhật Bản, trong khi ở Hy Lạp và La Mã đến đâu cũng gặp tượng và chân dung của các hoàng đế và anh hùng. Ở Nhật Bản cổ đại, chỉ có Đức Phật được tạc tượng. Chuyện này nghe có vẻ buồn cười trong xã hội hiện đại, nhưng đó là tín ngưỡng xa xưa. Thợ thủ công dành cả đời mình cống hiến cho công việc. Nghề làm búp bê chỉ trở thành một sợ thích phổ biến vào cuối thập niên 1920.”

“Vậy ý tưởng về Azoth là…”

“Chà, có thế đó là một mối quan tâm về mặt tri thức, nhưng dĩ nhiên nó cũng là một khái niệm hoàn toàn vô nhân đạo. Sử dụng người thật để làm búp bê là trái với các quy định, là chống lại tự nhiên. Xét về lịch sử, tôi có thể đoán được ông Umezawa lấy ý tưởng đó từ đâu. Có lẽ hầu hết những người chế tạo búp bê nghiêm túc ở thế hệ tôi đều biết điều này, nhưng không ai theo con đường mà ông ta chọn. Đó là vấn đề nguyên tắc. Ý tưởng của ông Umezawa rất xa lạ với những ý tưởng của một thợ làm búp bê.”

“Rất thú vị. Cháu bắt đầu hiểu ý bác là gì rồi, bác Yoshida. Nhưng bác nói có thể ông Umezawa đã chết. Tại sao bác lại nghĩ như vậy?”

“Đó là phán đoán của tôi. Vừa là thợ làm búp bê vừa là thầy bói, tôi rất tò mò với vụ án này. Bên cạnh đó, như anh biết đấy, tôi biết Yasukawa, bạn của Umezawa. Rất có thể Umezawa còn sống, nhưng để chứng minh, tôi cần phải có bằng chứng cụ thể, nhưng tôi lại không có. Cảm nhận của tôi dựa trên cảm giác chứ không phải logic. Tôi trình bày như thế này để anh nghe nhé, anh Ishioka. Giả sử Umezawa còn sống, ông ấy vẫn cần phải có liên hệ với xã hội. Cho dù ông ấy ẩn nấp trong một vùng núi thì ông ấy cũng sẽ vẫn cần ăn. Chuyện đó rất không đơn giản như người ta nghĩ. Nếu dân làng nhìn thấy ông Umezawa đi kiếm thức ăn, họ sẽ nghĩ ông ấy là kẻ lang thang và sẽ báo cảnh sát. Và nếu Umezawa chọn sống trong một đô thị thì láng giềng của ông ấy cũng sẽ muốn biết ông này là ai và từ đâu đến.

“Người Nhật rất thóc mách, tôi nghĩ họ quá chú ý đến người khác. Nhật Bản là một hòn đảo và do tinh thần đảo quốc nên bất kỳ cộng đồng nào cũng sẽ sớm có thái độ ngờ vực với một người như Umezawa dù rằng ông ta có định sống ở đâu đi chăng nữa. Giả sử Umezawa tự sát sau khi tạo ra Azoth; xác chết chắc chắn sẽ bị phát hiện. Sẽ có ai đó chôn cất hoặc hỏa táng cái xác. Rõ ràng, ông ấy không thể làm việc đó một mình được. Và chính vì thế nên không thể nghĩ rằng Umezawa còn sống được.”

“Bác đã bao giờ nói chuyện này với ông Yasukawa chưa?”

“Có, tôi từng nói rồi.”

“Thế ông ấy bảo sao?”

“Ông bạn tôi không nghe tôi nói. Ông già đó hơi cuồng tín với những quan niệm của riêng mình.”

“Đúng vậy, cháu nghe nói ông Yasukawa tin rằng ông Umezawa vẫn còn sống… Nhưng bác nghĩ chuyện gì đã xảy ra với Azoth?”

“Theo ông Yasukawa, nó đã được tạo ra và đặt ở đâu đó tại Nhật Bản.”

“Ông ấy có đề cập đến vị trí cụ thể nào không ạ?”

“Có chứ,” ông Yoshida đáp và đột nhiên cười phá lên.

“Ông ấy nói đó là chỗ nào ạ?”

“Ở Meiji-Mura… Làng Meiji. Anh có biết chỗ đó không?”

“Cháu chỉ vừa mới nghe đến cái tên đó thôi.”

“Đó là một công viên di sản do Công ty Đường sắt Meitetsu phát triển ở Inuyama thuộc tỉnh Aichi, phía bắc Nagoya. Mọi thứ đều mô phỏng theo cuộc sống thời Minh Trị (1868-1912) và đến giờ vẫn còn hàng chục tòa nhà cổ tồn tại từ thời đó. Rất tình cờ vì hôm qua tôi vừa mới ở đây về.”

“Thật không ạ? Nhưng Azoth nằm ở chỗ nào tại Meiji-Mura chứ? Được chôn ở đâu đó chăng?”

“Chà, trong công viên có một bưu điện cũ, từ Uji-Yamada, nơi trưng bày những vật lưu niệm của ngành bưu chính Nhật Bản qua nhiều năm. Nó có cả những hình mẫu các nhân viên đưa thư trong bộ đồng phục thuộc các thời kỳ khác nhau, những hòm thư cổ lỗ sĩ - đại loại như thế.”

“Vậy là giống như một bảo tàng ạ?”

“Đúng. Hiện tại triển lãm có duy nhất một ma-nơ-canh nữ trong góc phòng. Yasukawa khăng khăng cho rằng đó chính là Azoth!”

“Sao cơ ạ…? Thật không tin nổi! Nhưng chúng ta không thể truy nguyên xem nó xuất xứ từ đâu ư? Điều đó hoàn toàn có thể cơ mà, phải không bác?”

“Ồ, anh không cần phải truy nguyên xuất xứ đâu, anh Ishioka ạ. Đó là một dự án mà cá nhân tôi có tham dự, Anh biết đấy, tôi là nhân viên Công ty Sản xuất Ma-nơ-canh Owari ở Nagoya, nằm trong nhóm chuyên qua lại giữa Nagoya và Kyoto, sản xuất ma-nơ-canh cho toàn bộ công viên Meiji-Mura. Nhưng có chuyện bí ẩn xảy ra: đúng hôm khai trương, chúng tôi phát hiện thấy có một mẫu ma-nơ-canh mà chúng tôi không chế tạo đã được cho thêm vào để trưng bày. Đó là một ma-nơ-canh nữ, và không phải là sản phẩm của bất cứ ai trong số chúng tôi cho nên mọi người kết luận rằng ban quản lý Meiji-Mura đã thay đổi quan điểm và bổ sung vào phút cuối cùng. Yasukawa cũng không hẳn điên khùng khi nghĩ đó là Azoth, bởi vì ma-nơ-canh này thực sự có diện mạo rất đặc biết.”

“Hôm nay bác đến Meiji-Mura để sửa chữa ma-nơ-canh à?”

“Không. Tôi đến thăm một người bạn, cũng là một nghệ nhân. Phải thú nhận rằng tôi mê nơi đó; nó gợi cho tôi nhớ đến thời tuổi trẻ của mình ở Tokyo. Người ta đã dẹp bỏ nhiều công trình cũ: một phần của Khách sạn Hoàng đế - do Frank Lloyd Wright thiết kế - rồi Cầu sông Sumida cũ, đại loại những thứ kiểu như thế. Ở đó rất thanh bình vì ngày thường không có nhiều khách ghé thăm. Tokyo thì quá đông đúc, tôi chịu chẳng thể sống ở đấy được nữa. Kyoto cũng tốt, nhưng tôi nghĩ Meiji-Mura rất tuyệt. Thỉnh thoảng tôi lại ghen tị với bạn mình vì được làm việc ở đó.”

“Nó là một nơi đẹp thế kia ạ?”

“Ồ, một nơi hoàn hảo. Không biết liệu cánh thanh niên có đồng ý với tôi không.”

“Nhưng, trở lại với ma-nơ-canh nữ… Bác vẫn cười nhạo ý tưởng của ông Yasukawa về chuyện coi nó là Azoth ư?”

“Chậc, Yasukawa lúc nào cũng đắm chìm trong những điều tưởng tượng. Tôi chẳng bao giờ xem ông ấy là nghiêm túc cả.”

“Nhưng ông ấy đã chuyển tới Kyoto để được gần bác, có phải không ạ?”

“Tôi không biết,” Yoshida mỉm cưới, thoáng chút cay đắng.

“Chắc hai bác là bạn bè thân thiết?”

“Bạn tôi thường xuyên tới thăm tôi. Tôi không định nói xấu người đã khuất, nhưng nói thật với cậu, những ngày cuối đời ông Yasukawa có vẻ rất lạ. Cố gắng giải quyết vụ án hoàng đạo trở thành nỗi ám ảnh của ông ấy. Tôi biết đó là sở thích của nhiều người, nhưng với ông Yasukawa thì nó biến thành một dạng nghiện. Bạn tôi thảo luận về vụ án với tất cả mọi người ông ấy gặp. Ông lão cũng bị ốm. Luôn có một chai nhỏ rượu mạnh trong túi. Tôi khuyên ông ấy nên cai rượu, nhưng lời khuyên của tôi bị bỏ ngoài tai. Ông ấy không quan tâm đến cái gì khác ngoài việc nhâm nhi chai rượu và say sưa phân tích những quan điểm về các vụ án, cho dù người nghe có quan tâm dù chỉ chút xíu hay là không. Cho nên cuối cùng người ta tìm cách lảng tránh ông lão. Những lần ghé chơi nhà tôi thưa hơn sau một lần tôi thể hiện thái độ bực bội. Nhưng hễ khi nào có một giấc mơ, ông lão lại chạy ngay đến kể cho tôi một cách tường tận. Phần lớn thời gian Yasukawa chẳng làm được gì có ý nghĩa. Ông ấy đánh mất mối liên hệ với thực tiễn. Đỉnh điểm là lần ông ấy chỉ một người bạn khác của tôi và tuyên bố, ‘Người này chính là Heikichi Umezawa!’ Rồi sụp xuống sàn, vái lấy vái để và kêu khóc ‘Đã lâu rồi mới được gặp lại ông, ông Umezawa!’ Bạn tôi có một cái sẹo phía trên lông mày, và đó có vẻ là điều khiến Yasukawa chú ý.”

“Ông Umezawa cũng có một cái sẹo ư?”

“Tôi không rõ. Chắc chỉ có ông Yasukawa mới biết.”

“Bác vẫn còn liên lạc với người bạn đó của bác chứ?”

“Có, ông ấy là một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi. Ông ấy là người tôi vẫn tới thăm tại Meiji-Mura.”

“Cháu hiểu. Cháu xin tên ông ấy được không?”

“Hachiro Umeda.”

“Hachiro Umeda ạ?!”

“Đừng vội rút ra bất kỳ kết luận gì, anh Ishioka. Yasukawa tin rằng Hachiro Umeda chính là Heikichi Umezawa. Tên của họ nghe có vẻ giống nhau, nhưng không hề có bất kỳ bằng chứng gì cho thấy họ là cùng một người. Umeda là một cái tên rất thông dụng ở khu vực Kansai, và trên thực tế, ga lớn nhất tại Osaka lại nằm ở một nơi gọi là Umezawa.”

Măc dù Yoshida cố gắng phủ nhận bất kỳ mối liên hệ nào nhưng sự nghi ngờ của tôi càng tăng thêm nữa. Tôi chú ý đến cái tên Hachiro hơn là cái họ Umeda. Hachi nghĩa là “tám” và chính xác đã có tám nạn nhân trong vụ án Hoàng đạo: Heikichi (hoặc kẻ đóng thế, nếu ý tưởng của tôi là đúng), Kazue, và sáu cô gái nhà Umezawa.

“Theo như tôi biết,” Yoshida tiếp tục, “Umeda chưa bao giờ sống ở Tokyso. Ông ấy trẻ hơn tôi, cho nên không thể là ông Umezawa được. Ông Yasukawa đã nhầm lẫn vì cho rằng Umeda trông giống Umezawa thời còn trẻ.”

“Thế ông Umeda làm gì ở Meiji-Mura ạ?”

“Ông ấy làm việc tại đồn cảnh sát Kyoto Shichijo, một tòa nhà nguyên bản từ thời Minh Trị. Ông ấy không phải cảnh sát thực sự nhưng làm một số công việc của cảnh sát, mặc đồng phục cảnh sát thế kỷ 19 và vác theo kiếm.”

Tôi đang suy nghĩ xem làm cách nào tôi có thể gặp người này thì ông Yoshida xen vào như thể đang đọc được suy nghĩ của tôi. “Có lẽ cậu muốn gặp ông lấy, nhưng tôi cam đoan với cậu rằng cậu không nên coi Hachiro là Heikichi Umezawa. Ông Hachiro trẻ hơn ông Umezawa rất nhiều nếu Umezawa có sống tính đến thời điểm này và tính cách hai ông già đó thì khác nhau như nước với lửa; ông Umeda làmột diễn viên hài kịch bẩm sinh, trong khi Heikichi Umezawa là người phản kháng xã hội và hướng nội. Thêm nữa, ông Umezawa thuận tay trái, còn ông Umeda thuận tay phải.”

Lúc tôi ra về và cảm ơn Yoshida đã dành thời gian tiếp, vợ ông ấy bước ra chào tạm biệt, cúi người rất thấp. Yoshida bước ra phố cùng tôi. “Công viên Meiji-Mura mở cửa từ 5 giờ đến 10 giờ vào mùa xuân,” ông nói. “Hãy đến sớm. Cậu sẽ mất vài tiếng để thăm thú xung quanh đấy.”

Tôi cảm ơn ông lần nữa và đi về phía trạm xe buýt. Tôi ngước nhìn vầng thái dương đang lặn, hy vọng nó không phải là khúc xạ của những gì sắp tới.

Khi quay trở về, tôi thấy Emoto đang bình thản nghe nhạc nhưng không thấy Kiyoshi đâu cả.

Kiyoshi đâu? Ông đã gặp cậu ấy chưa?” Tôi hỏi.

“Có, tôi gặp lúc cậu ấy vừa ra ngoài,” Emoto trả lời.

“Cậu ấy thế nào?”

“Chà… Ừm… trông cậu ấy rất giận dữ, chẳng thèm nói với tôi đi đâu, cậu ấy chỉ nói ‘Tôi sẽ không bỏ cuộc!’ và sau đó lao ra ngoài.”

Thật tò mò. Nhưng vì đã câu được con cá của mình nên tôi hỏi mượn Emoto xe hơi vào ngày hôm sau.

“Ổ, cứ lấy mà dùng,” Emoto đáp.

Mệt nhoài sau một ngày hoạt động, tôi quyết định không thức khuya nữa. Tôi đặt chuông báo thức với hy vọng sẽ dậy được sớm. Không biết giao thông ở Kyoto có tệ hại như ở Tokyo không nhưng tôi vẫn quyết định đi từ lúc 6 giờ sáng để tránh giờ cao điểm. Đi sớm như thế tôi sẽ không gặp được Kiyoshi, nhưng biết làm sao được: Rõ ràng cậu ấy đang đi theo con đường riêng của mình và tôi cũng vậy. Chúng tôi sẽ nói chuyện khi tôi quay về vào buổi tối.

Tôi trải nệm ra sàn và trải sẵn cả cho Kiyoshi để đáp lại sự giúp đỡ của cậu ấy lần trước, đoạn kéo chăn trùm kín đầu và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Cảnh 6: Ma-nơ-canh

Tôi có một giấc mơ kỳ dị. Khi thức giấc, tôi không thể nhớ được nội dung giấc mơ đó, nhưng cứ nghĩ đến nó thì thấy rùng mình.

Kiyoshi vẫn đang ngủ. Tôi nghe tiếng cậu càu nhàu khi tôi chui ra khỏi túi ngủ.

Bên ngoài trời rất lạnh, nhưng không khí thật trong lành. Tôi hoàn toàn tỉnh táo khi xuống đến chân cầu thang.

Xe của Emoto khởi động rất dễ, tôi lái ra Cao tốc Meishin, hòa vào dòng xe cộ lưu thông một cách thuận lợi. Một tấm biển quảng cáo trên bãi trống bên tay trái lọt vào tầm mắt. Một cô gái đang mỉm cười bên cạnh chiếc tủ lạnh, mái tóc tung bay trong gió. Đột nhiên, giấc mơ trở lại với tôi. Một thiếu nữ xinh đẹp, hoàn toàn khỏa thân, đang vùng vẫy giữa đại dương, mái tóc dài của cô ta dập dờn theo sóng. Hai bầu vú, bụng và đầu gối của cô ta gầy một cách bất thường, như thể được bó chặt lại bằng một sợi dây. Cô gái nhìn thẳng vào tôi, nhưng tôi không tài nào nhận ra cô ta. Dường như cô gái đang ra hiệu cho tôi trong sự im lặng lạnh lùng. Sau đó cô gái biến mất dưới những lớp sóng tối