← Quay lại trang sách

Chương 6 Nền Hòa Bình Tại Bắc Ireland.

Churchill là nhà lãnh đạo luôn tìm các giải quyết mọi vấn đề một cách quyết liệt, mạo hiểm, luôn hướng về phía trước để tìm kiếm giải pháp; nhưng đối với vấn đề Bắc Ireland, ông gần như bó tay. Tuyên bố được ông viết năm 1922 với nội dung đơn giản súc tích, trong đó xác định quan điểm về việc thiết lập nền chính trị Anh tại Ireland: “Toàn bộ bản đồ châu Âu đã thay đổi nhưng khi cơn bão lớn lắng xuống và nước lũ rút bớt, chúng ta lại một lần nữa trông thấy các tháp chuông ảm đạm của Fermanagh và Tyrone hồi sinh. Cuộc tranh chấp vẫn chưa ngã ngũ, đó là một trong rất ít các thể chế vẫn còn nguyên vẹn sau cơn biến động lớn quét qua toàn thế giới”.

Hận thù đã kéo dài hàng thế kỷ, trong đó tôn giáo và việc tranh chấp lãnh thổ đan xen nhau trong một khối hỗn độn tệ hại, kéo theo cố gắng bất thành về phân quyền vào thế kỷ XIX, sự chia rẽ Bắc và Nam vào thập niên 1920 và cuộc nổi dậy đòi dân quyền của thập niên 1960 đã nhen nhóm một cuộc xung đột tàn khốc ác liệt trải dài nhiều thập kỷ. Rất nhiều nỗ lực nhằm tìm kiếm nền hòa bình đã được thực hiện nhưng thiếu sự tập trung thường xuyên chỉ đem lại một kết quả tất yếu: Sự thất bại liên tục. Ở khía cạnh nào đó, Churchill có thể được khoan dung cho học thuyết chủ bại không điển hình và không thường xuyên của mình.

Khi tôi nói với John Prescott trước cuộc bầu cử năm 1997 rằng tôi quyết tâm đưa nền hòa bình thực sự đến với Bắc Ireland, thì ông chau mày tỏ vẻ hoài nghi. Nỗ lực của John Mayor nhằm đưa tiến trình hòa bình xích lại gần nhau hơn vừa mới sụp đổ trong chủ nghĩa khủng bố kiểu mới, nhưng Mayjor đã tiên đoán chính xác rằng cơ hội đem lại hòa bình là có thực. Ông đã bắt đầu khởi động các cuộc đàm phán bí mật với IRA và bắt đầu tập hợp một số cá nhân để hợp tác đưa ra thỏa thuận cuối cùng. Ông đã mời Thượng nghị sĩ George Mitchell từ Mỹ, một nhân vật lão luyện và sắc sảo để lôi kéo các bên tham gia vào các cuộc đàm phán ngay từ đầu và đạt được thỏa thuận ngừng bắn. Cho dù không được tổ chức, nhưng rõ ràng nó đã khuấy động ở mức thấp đối với phong trào của phe Cộng hòa.

Có lẽ việc đó đã xảy ra cách đây không lâu. Một trong những khía cạnh bất thường nhất của toàn bộ thảm kịch đó là bất kỳ ai đã từng suy nghĩ nghiêm túc: rằng IRA tin việc một quốc gia đầy tự hào như Vương quốc Anh có thể bị đánh bật ra khỏi Bắc Ireland, nơi phần lớn dân số tự coi mình là công dân Anh; rằng Chính phủ Anh từng tin việc chủ nghĩa dân tộc của Ireland có thể được kiềm chế mà không cần một sự thay đổi điển hình về cách ứng xử đối với phe Công giáo Ireland; rằng những người theo chủ nghĩa Hợp nhất từng tin tưởng trên một hòn đảo nơi có tỷ lệ đa số ủng hộ một Ireland thống nhất và là những người theo chủ nghĩa dân tộc Công giáo, thì rất có thể sẽ từ chối chia sẻ quyền lực với họ.

Những gì xảy ra trong bối cảnh này về bản chất là những gì xảy ra trong vô số các cuộc tranh chấp: cái phi lý hất cẳng cái hợp lý, bằng cách sử dụng cái phi lý. Cách thức mà điều này diễn ra rất đơn giản: những người không thù ghét, những người muốn hòa bình, những người sẵn sàng ủng hộ cho sự “tha thứ và quên lãng” (hoặc ít nhất là “tha thứ”) bị giảm dần về số lượng, dường như điều này rất phi thực tế, thậm chí không còn tính ái quốc đối với các thành viên khác của nhóm. Những gì khởi đầu như một thiểu số phi lý lại kết thúc với việc dùng cái hợp lý theo kiểu hoang tưởng và ảo giác.

Chủ nghĩa khủng bố gây ra sự hỗn loạn và chết chóc, đồng thời cũng gây ra hiềm khích với những thủ phạm trong nhóm mục tiêu của chúng; bản chất con người như nó vốn có, nhóm nạn nhân coi nhóm thủ phạm, không chỉ là những thủ phạm đơn lẻ, phải chịu trách nhiệm; nhóm thủ phạm trở thành nạn nhân và cái vòng luân hồi luẩn quẩn ghê rợn vẫn tiếp diễn. Sau đó “các chính quyền” can thiệp và sự can thiệp như vậy cũng đẫm máu. Một khi những quân nhân và cảnh sát cảm thấy sức mạnh của chủ nghĩa khủng bố, họ cũng trở thành các nạn nhân đầu tiên, sau đó chính họ lại là thủ phạm. Người ta thường quên rằng những người lính Anh được phái tới Bắc Ireland vào thập niên 1960, về cơ bản, không phải để chiến đấu với những người theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc, mà để bảo vệ họ.

Sự hận thù trở nên cực đoan và mãnh liệt, kéo dài nhiều thế kỷ. Những thắng lợi cổ xưa được ca tụng tương ứng với sự tàn bạo gây ra bởi các hành động của một bên trong lịch sử được ghi nhớ để định hình đặc điểm hiện tại và tương lai. Trong một phiên họp kéo dài không hồi kết tại phố Downing, tôi nhớ David Trimble – sau này là thủ lĩnh Đảng Hợp nhất tỉnh Ulster, đã chờ trong Phòng Nội các khi tôi gặp gỡ với Gerry Adams của phong trào Sinn Fein tại phòng làm việc. Khi Gerry và tôi kết thúc cuộc họp và qua Phòng Nội các, David đang xem một cuốn sách trên giá. Cuốn sách nói về tiểu sử của Cromwell, nhân vật có ảnh hưởng đến Gerry. Đối với nước Anh, Cromwell là một nhân vật lịch sử quan trọng; đối với người Ireland, ông là một tên đồ tể và một kẻ bảo thủ. Tôi lại nhớ lại một cuộc họp với Gerry và Martin McGuiness tại Chequers (ngôi nhà nghỉ ở vùng quê của Thủ tướng Anh ở Buckinghamshire, phía nam nước Anh). Con gái của Cromwell đã kết hôn với ông chủ Chequers và nơi này đầy ắp các dấu vết và kỷ niệm về Cromwell. Dẫn Martin đi xem xung quanh, chúng tôi ghé ngang qua chiếc mặt nạ chết của Cromwell. Tôi nói: “Anh thấy đấy, ông ta thực sự đã chết.”

Ông ta đáp lại: “Tôi không đánh cược về điều đó.”

Một nền văn hóa phát triển xoay quanh bất đồng. Phe theo chủ nghĩa Hợp nhất không đơn giản bất đồng chính trị với phe Quốc gia chủ nghĩa, hay sự khác biệt về tôn giáo; họ có âm nhạc riêng, một văn hóa giao tiếp khác nhau, một thái độ khác nhau, một bản chất khác nhau. Xét một cách tự nhiên, có sự phân chia giữ người Công giáo/Tin lành, điều đó cũng ẩn chứa những ý nghĩa tiềm ẩn về văn hóa và tôn giáo, nhưng bất kỳ sự bất đồng về luận thuyết nào từ lâu đã được gộp vào nhân tố bộ tộc. Đàn ông Ulster là những người kiệm lời, thẳng thắn, giọng vang nhưng lịch sự, hài hước; và có một xu hướng không phải lúc nào cũng nhận thấy, đó là không tin tưởng vào thế giới. Người Ireland thích tụ tập, ăn mặc lòe loẹt, sử dụng ngôn từ đầy hoa mỹ, thích nói về những cái chung chung hơn cụ thể, với một cảm giác mãnh liệt không chỉ về vị thế nạn nhân của mình mà còn về thế giới rộng lớn hơn đang hòa nhịp với họ hơn là với những nạn nhân.

Trong một chuyến công du Bắc Ireland, tôi đã được tận mắt chứng kiến cách thức nền văn hóa đối nghịch được thực thi. Sinn Fein đã mời những người Palestine đến thị trấn. Khi tôi nghỉ đêm ở đây, tôi nhìn thấy lá cờ Palestine phấp phới dọc các nẻo đường thủ đô Belfast với dân số chủ yếu là người thuộc Đảng Cộng Hòa để đón khách. Ngày tiếp theo, khi lái xe rời thành phố, tôi chứng kiến sự hiện diện của các lá cờ xanh – trắng của Israel dọc các khu người theo chủ nghĩa Hợp nhất. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được làm thế nào mà họ có những lá cờ đó và cắm chúng trong đêm, nhưng khi khoảnh khắc những lá cờ Palestine giương cao, tinh thần đoàn kết của những người theo chủ nghĩa Hợp nhất với Israel là tất cả.

Ireland cũng nằm trong dòng máu của tôi. Mẹ tôi sinh ra tại Donegal. Mặc dù sinh sống tại miền Nam, gia đình bà lại thuộc tầng lớp nông dân theo đạo Tin Lành – người theo đạo Tin Lành chính cống. Ông ngoại tôi là hội trưởng của một trong những hội Tin Lành hữu ái. Một ví dụ điển hình về tính chất bền vững của những người theo chủ nghĩa bè phái được được thể hiện qua bà ngoại của tôi. Bà là một phụ nữ đáng yêu, nhưng ảnh bị hưởng sâu sắc bởi cộng đồng và thời đại bà sinh sống và trong những ngày này, niềm tin mù quáng được chấp nhận như một quy luật. Cuối đời, bà mắc chứng bệnh Alzheimer. Nhưng một ngày, khi tôi đến thăm bà bên giường bệnh, bà lại có một khoảnh khắc minh mẫn đến kỳ lạ. Thời gian đó, tôi chỉ mới bắt đầu hẹn hò với Cherie. Rõ ràng, bà ngoại tôi không hề biết điều này và thậm chí, bà còn chẳng nhận ra tôi nữa. Khi tôi vỗ nhẹ vào tay bà, bà bỗng nắm chặt lấy tay tôi và nói: “Cháu trai, dù cháu làm gì đi nữa, nhưng không bao giờ được kết hôn với một người Công giáo”. Mọi điều khác đã biến mất khỏi tâm trí bà, nhưng sâu thẳm đáy lòng bà vẫn tồn tại ác cảm xuất phát từ chủ nghĩa bè phái.

Trước đây, hàng năm chúng tôi thường tổ chức đi nghỉ tại Ireland để thăm họ hàng của mẹ. Tôi rất thích những kỳ nghỉ này. Chúng tôi thường đến khách sạn Sandhouse tại khu nghỉ dưỡng Rossnowlagh, gần Ballyshannon. Tại đây, tôi đã học bơi trong làn nước Đại Tây Dương băng giá, là nơi lần đầu tiên tôi trò chuyện với các bạn gái khoảng 11 tuổi. Tôi cũng đã được dạy những nốt nhạc đầu tiên trên đàn ghita. Lần đầu tiên, trong đời tôi say mèm.

Thú thật, những người họ hàng của tôi cũng hơi lạ. Đó là dì Mabel móm mém, chỉ còn lại một chiếc răng. Có lẽ với một lý do kỳ quái nào đó, tôi thường ví dì với sản phẩm kẹo bạc hà Glacier Mint của hãng Fox, nhưng có trời mới biết tại sao. Lúc đó thậm chí còn có bác Lizzie kỳ quặc, sống trong một ngôi nhà trên đỉnh đồi và rất keo kiệt. Bác không chỉ chi li mà còn rất bủn xỉn – người rõ ràng giàu sụ nhưng luôn dành dụm lo xa. Phần lớn thời gian và năng lượng của một gia đình nhiều thế hệ dành để nghĩ cách kéo bác Lizzie ra khỏi đống của cải kếch xù đó. Cơ hội để thực hiện điều này khi bác còn sống thật xa vời, nhưng gia đình luôn có nhiều hy vọng về chúc thư của bác. Bác Lizzie luôn được chăm sóc đều đặn chỉ nhằm mục đích kiểm tra xem đã có những dấu hiệu sắp qua đời hay chưa.

Tôi nhớ mẹ đã đưa anh em tôi đến thăm bác. Bác có mong muốn được gặp “những cậu bé” mà mẹ đưa đến như một tín hiệu tốt lành. Tôi chưa bao giờ gặp bác, danh tiếng của bác rất lớn nhưng tôi lại coi điều này chẳng là gì so với cảm giác phấn khích khi được gặp một người keo kiệt trong thế giới thực. Ngay khi chúng tôi bước vào bên trong ngôi nhà, mẹ nói với hai anh em chúng tôi: “Các con thấy đó, nhà bác Lizzie hơi có mùi một chút”. Mẹ dừng lại. “Thực sự, rất nặng mùi. CÁC CON KHÔNG ĐƯỢC BÌNH PHẨM VỀ VẤN ĐỀ NÀY. “Hơn nữa”, mẹ tiếp lời: “Bác Lizzie sẽ mời chúng ta trà. Nếu có bánh, các con hãy ăn chúng. HÃY ĂN CHÚNG”. Mẹ tôi nhắc lại.

“Vâng. Con thích bánh”, tôi đáp.

Mẹ ném về phía tôi một cái nhìn. “Hừm.”

Đến bây giờ, tôi vẫn chưa thể tống khứ cái mùi hôi của căn nhà hoặc những chiếc bánh ra khỏi tâm trí mình. Cái mùi khét lẹt, ngọt, thum thủm xâm chiếm mọi giác quan, giải thích ý nghĩa chính xác của sự mục ruỗng về ngôn từ. Bánh rõ ràng là phần thừa còn lại của bữa trà hào phóng cuối cùng của bác Lizzie, hoặc có thể là bữa trước đó. Cái mùi thum thủm quyện lẫn với mùi bánh khét khiến tôi muốn ói ra khi ngồi ở đó, cho tới khi bác Lizzie nói với mẹ là tôi không phải là một đứa trẻ ngoan. Thậm chí giờ đây, khi viết những dòng này, tôi còn cảm thấy phát ốm.

Khi chúng tôi rời nhà bác – sớm hơn một chút so với dự kiến, vì mẹ lo rằng tôi có thể ói ra nhà – tôi nói với mẹ: “Nhưng chắc chắn nếu bác là một người keo kiệt, bác sẽ không muốn để lại tiền cho bất kỳ ai”. Một suy nghĩ mang tính cảm nhận già dặn trước tuổi của tôi, đúng như mẹ nhận xét sau khi bác Lizzie qua đời là chẳng để lại cho chúng tôi thứ gì.

Ireland không chỉ ăn sâu trong dòng máu của tôi, mà còn là một phần tuổi thơ nơi tôi khôn lớn. Chúng tôi có những người bạn ở đó và hàng năm đều thường gặp mặt nhau. Thời gian đó vào khoảng năm 1969, gia đình chúng tôi không còn đến đây nữa. Mảnh đất này không còn an toàn, mẹ quyết định. Các trục trặc bắt đầu nảy sinh.

Tôi vẫn giữ liên lạc với bạn bè và những bức thư của họ kể cho tôi về sự cay đắng, cơ cực đang xâm chiếm dòng cảm xúc của xã hội nơi đây như thế nào. Tất nhiên, họ là những người theo đạo Tin Lành. Họ miêu tả bằng những lời lẽ chua cay, độc ác về sự xói mòn trong các mối quan hệ của họ và quan điểm của họ với những người hàng xóm theo Công giáo. Vì vậy tôi có chút hiểu biết, tuy ít ỏi, nhưng trực tiếp về sự bất đồng này.

Nhiều năm trôi qua, nước Anh bị đánh thức bởi những tin tức mới nhất về các cuộc tấn công khủng bố, các vụ thảm sát của những người theo chủ nghĩa bè phái, cái chết của một quân nhân hoặc sự rạn nứt ngày càng gia tăng của tình hữu hảo cộng đồng giữa những người theo Chủ nghĩa Hợp nhất và những người theo chủ nghĩa Quốc gia dân tộc. Ian Paisley – người mà bà ngoại tôi luôn tôn sùng – đã trở thành người lãnh đạo nơi này. Thập niên 1970, rồi đến thập niên 1980 và 1990 trôi qua, những tên tuổi gắn liền với các nỗ lực bất thành nhằm đem lại nền hòa bình dần hằn sâu trong ý thức của chúng tôi. Danh tiếng của các tay chơi khét tiếng mà với họ tôi tìm thấy nền hòa bình đã bị đem ra công kích khi diễn ra xung đột bè phái trong thời kỳ này: Gerry Adams và Martin McGiunness, John Hume, David Trimble, John Taylor, Peter Robinson và bản thân Paisley. Họ chỉ là một phần của sự hỗn loạn này, giúp định hình và tạo ra lịch sử cũng như những bí ẩn của nó.

Đôi khi chúng tôi quên mất tính chất tàn bạo của nó: sự hành hạ; sự tàn tật; tính tuyệt đối, toàn vẹn và trải rộng của thù hận. Tôi nghĩ về những người đình công vì đói, đặc biệt là Bobby Sands, bản thân ông đã bị bỏ đói đến chết. Tôi nghĩ về nỗi đau, sự khiếp sợ đến cùng cực, dũng khí mù quáng cần cho một hành động tự hủy hoại như vậy. Nhận thấy sự đau đớn không chỉ trong chốc lát mà từ ngày này qua ngày khác, tuần này sang tuần khác. Mọi người đã làm mọi thứ với nhau và với chính bản thân họ mà giờ đây chúng ta chỉ có thể đứng nhìn với cảm giác ngạc nhiên. Trong nhiều thập kỷ, nét cổ truyền đến man rợ xác định đặc điểm của vùng đất Bắc Ireland.



Tôi nghĩ làm sao có thể giải quyết được vấn đề này đây? Jonathan Powell trước đây cũng luôn quy nó về những cái ông gọi là Messiah Complex (chứng ảo tưởng) của tôi, tức là lúc nào tôi nghĩ mình có thể làm những thứ mà người khác không thể làm được. Thực tế, không phải như vậy. Hoặc, ít nhất, có lẽ phải như vậy, trừ phi còn có lý do khác: Tôi nghĩ không ai còn quan tâm đến việc phải chịu đựng những xung đột nữa, không chỉ tại Bắc Ireland, mà quan trọng hơn, không nằm ngoài nó. Tôi nghĩ mọi thứ đã trở nên cũ rích và không còn phù hợp với thời đại khi hòn đảo Ireland tồn tại.

Bạn có thể băn khoăn về những gì mình muốn nói trong câu: “không ai còn quan tâm đến việc phải chịu đựng những xung đột nữa”. Liệu đã từng có khi nào xảy ra điều tương tự chưa? Tất nhiên, đối với người dân Bắc Ireland điều này chưa bao giờ xảy ra, nhưng nó đã được đổ thêm dầu vào lửa bởi niềm tin mù quáng và nỗi đau về những Trục trặc. Đối với thế giới bên ngoài, Bắc Ireland là một bất đồng trong đó mọi người có thể bày tỏ mối liên hệ cảm xúc của mình mà không phải chịu hệ quả, khá giống với nguyên nhân của người Palestine. Tôi không có ý ám chỉ rằng họ chủ động muốn kéo dài xung đột, mà họ chỉ nhìn phiến diện. Nó là một điểm quy tụ. Đối với các cộng đồng có huyết thống với người Ireland, điều này gợi cho họ về cuội nguồn của mình. Họ thực sự không nghĩ nó có thể được giải quyết, vì vậy không bao giờ tập hợp lại để tạo dựng một nền hòa bình.

Các khu vực của cộng đồng người Mỹ gốc Ireland là một ví dụ điển hình. Ở nơi cách xa hàng nghìn dặm khỏi tình trạng hỗn loạn, mà có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ dễ dàng tha thứ, họ chỉ trích lịch sử và dân ca Ireland, những điều bất công của nước Anh, sự nghiệp bè bạn họ hàng của họ và vui vẻ quyên tiền để giết những dân lành vô tội và các quân nhân Anh.

Những nỗ lực to lớn của Gladstone, Asquith và sau này là Lloyd George nhằm giải quyết vấn đề bằng cách phân quyền trong nội bộ Vương quốc Anh, mà vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX – rõ ràng có thể đem lại hiệu quả (và gần đạt được hiệu quả) – đã đổ vỡ liên tiếp trên guồng quay của sự kích động quần chúng đôi khi mang tính chất cơ hội và luôn chịu định kiến của những người theo đường lối Hợp nhất và Đảng Bảo thủ. Thậm chí những nhân vật quan trọng như F.E Smith cũng sẵn sàng sử dụng bất đồng để làm tê liệt bộ máy Chính phủ Hợp nhất Anh mà họ không thích. Đối với nền chính trị của Cộng hòa Ireland, nó là một chủ đề xuyên xuốt hữu ích, đưa ra quan điểm và mục đích cho Nhà nước non trẻ mới ra đời này khi bản thân nó được thiết lập từng bước. Trong Thế chiến II, Ireland đóng vai trò trung lập, thậm chí có chút xu hướng chống lại Anh, cho dù nhiều thanh niên Ireland can đảm tự nguyện chiến đấu chống lại Chủ nghĩa Quốc xã.

Nhưng thời thế đã thay đổi khi thế giới hiện đại định hình quanh chúng ta. Quan điểm cũ xung đột với những thực tế mới, có sinh lực mạnh mẽ. Các chính khách Mỹ như Teddy Kennedy bắt đầu mơ về một mảnh đất Ireland hòa bình. Dân biểu Cộng hòa, phe tôn sùng Margaret Thatcher và ca ngợi tình bạn của bà với Tổng thống Reagan, bắt đầu cho việc họ đang ủng hộ những người cố gắng giết bà là điều kỳ quặc. Đối với Chính phủ Anh dù có theo giáo phái nào đi nữa, sự cạn kiệt các nguồn lực và sức mạnh quân sự mà Bắc Ireland gặp phải khiến cho bất kỳ triển vọng hòa bình nào đều trở nên cực kỳ hấp dẫn.

Nhưng hầu hết người Ireland đã thay đổi cùng với sự thay đổi thái độ đối với họ. Thật khó có thể hiểu được hiện nay người Ireland được nhiều người Anh và người theo đường lối Hợp nhất coi ra sao. Họ là những trò cười, tất cả xoay quanh sự ngốc ngếch. Họ bị gán ghép một cách tùy tiện là “người Ireland sa lầy”, được thuê làm việc như các công nhân của một nhà thầu xây dựng thay vì các nhân viên ngân hàng. Họ thường không được coi trọng, thậm chí khinh bạc hơn cả việc một số người da trắng tại Nam Phi coi người da đen ở kỷ nguyên chế độ Apacthai: như một tầng lớp thấp hèn hơn. Giờ đây điều đó thật kinh ngạc, nhưng ở một thời điểm nào đó, điều đó có thể đúng. Và nền chính trị của họ được xác định với tính chất kế thừa mối quan hệ với nước Anh.

Vào thập niên 1980 và sau đó là dưới thời Albert Reynolds với Bertie Ahern giữ cương vị Bộ trưởng Tài chính cải cách, thì người Ireland bước vào tiến trình tự chuyển đổi. Họ tham gia Liên minh châu Âu (EU) và được hưởng lợi từ các chương trình phát triển lớn mà họ sử dụng một cách thông minh và khéo léo, mang lại một đất nước hiện đại hóa. Dublin đã trở thành một thành phố phát triển hàng đầu tại châu Âu, kèm theo một nền kinh tế bùng nổ. U2 trở thành một trong những tổ chức lớn nhất thế giới, Bob Geldof trở thành người hùng, Roy Keane trở thành huyền thoại bóng đá thời đó. Tóm lại, hoạt động kinh doanh, nghệ thuật, văn hóa, v.v... mọi lĩnh vực của Ireland đều cất cánh phát triển.

Trong khoảng thời gian vài năm, miền Nam không còn là khu vực lạc hậu và bị xem thường, mà thay vào đó chính là miền Bắc. Miền Nam chạy nước rút trên con đường hướng tới tương lai, trong khi người dân miền Bắc Ireland lại đang quanh quẩn tại điểm xuất phát, tranh cãi về những người theo Đạo Tin Lành và những người theo Công Giáo theo cách làm lu mờ cuộc chạy đua nước rút phía trước bằng những thứ không còn phù hợp.

Đây là nhân tố mà tôi nghĩ sẽ đem lại cơ hội hòa bình. Đối với phe Cộng hòa, đây không còn là bất đồng – một biểu tượng thống nhất của bản sắc Ireland mà là một lời nhắc nhở đau buồn và về quá khứ của Ireland. Trong vài thập kỷ, những người theo trường phái Hợp nhất cũng có thể chỉ ra sự lạc hậu về kinh tế của Ireland kèm theo những khác biệt về văn hóa và tôn giáo của họ khi so sánh giữa hai điều bất khả thi. Giờ đây những yếu tố này cũng đang lu mờ hoặc bị đảo ngược.

Thậm chí trước khi nhậm chức, tôi đã thảo ra một chiến lược. Một trong những việc đầu tiên tôi làm khi trở thành lãnh đạo Đảng Lao động là thay đổi vị thế chính sách lâu dài đối với Bắc Ireland. Trong nhiều năm, chính sách của Đảng Lao động đã được đưa ra để cố gắng đàm phán một thỏa thuận hòa bình giữa những người theo trường phái Hợp nhất và những người theo trường phái Chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc trên cơ sở rằng chúng ta tin tưởng vào một nước Ireland thống nhất và trở thành nhà vận động cho công cuộc thống nhất đó. Nó không buộc một thủ lĩnh chính trị phải nhận thức rằng một vị thế như vậy hoàn toàn xa rời quan điểm của những người theo trường phái Hợp nhất và quá trình thực hiện điều đó sẽ vô hiệu hóa bất kỳ nỗ lực đàm phán bất kỳ một thỏa thuận nào dựa trên giả thuyết đó.

Tôi biết mình có thể chẳng bao giờ có được cơ hội thay đổi chính sách thông qua bộ máy hoạch định chính sách thông thường của đảng – chắc chắn vào thời điểm đó – vì vậy tôi e rằng mình sẽ chỉ xuất hiện bất ngờ vào một buổi sáng trên chương trình Today (Ngày nay) không lâu sau khi trở thành lãnh đạo và công bố rằng từ nay về sau chúng tôi sẽ có một chính sách mới: Trung lập đối với vấn đề một Ireland thống nhất hay Vương quốc Anh. Tôi cũng thay thế Kenvin McNamara – một người đàn ông thực sự đáng yêu nhưng lại hòa hợp với chính sách cũ – bằng Mo Mowlam, người đã từng nắm giữ vị trí dưới quyền John Smith ở Bắc Ireland.

Sau đó, chúng tôi đặt mình vào vị thế lưỡng đảng với John Major, hoàn toàn ủng hộ sự thử sức của ông trong việc kiến tạo hòa bình. Tại thời điểm đó, giải pháp lưỡng đảng còn rất hiếm, một phần do những động thái gay gắt đối với cánh tả và cánh hữu của Đảng Lao động và Đảng Bảo thủ, ngoài ra cũng bởi nó được cho là nền chính trị tồi. Tuy nhiên, John Smith đã rất khôn ngoan khi hậu thuẫn cho Major trong việc hội đàm bí mật với IRA.

Tôi quyết định thực hiện một cuộc thao diễn nhanh chóng không chỉ về sự thay đổi trong chính sách của Bắc Ireland, mà là một sự thay đổi trong giải pháp của phe Đối lập. Như tôi kỳ vọng, mọi người cho rằng nó là nền chính trị chín muồi; không ai tin rằng Bắc Ireland cần phải tập trung ghi điểm về đảng phái. Chúng tôi đã triển khai giải pháp này đến cùng và thông qua cuộc bầu cử năm 1997. Tôi nuôi dưỡng mối quan hệ với David Trimble và những người theo trường phái Hợp nhất. Tôi đã gửi các thông điệp thể hiện sự quan tâm đến Sinn Fein. Tôi đã gặp gỡ Bertie Ahern, một nhà lãnh đạo của Phe đối lập và chúng tôi xúc tiến ngay lập tức như cứu hỏa vậy. Taoiseach John Bruton là một người đàn ông vĩ đại nhưng thẳng thắn mà nói thì sẽ thất bại.

Chiến thắng ngày 1 tháng Năm năm 1997, đã giải phóng nguồn năng lượng mới ở mọi nơi. Những thách thức đã từng đẩy một Chính phủ mệt mỏi và mất tinh thần vào tình thế khó khăn giờ đây lại khơi nguồn cảm hứng cho một nhóm cá nhân đầy tự tin và dồi dào sinh lực cố gắng hơn nữa. Tôi thường phản ánh rằng sự táo bạo như vậy chỉ có thể được chắp thêm cánh trong cơn xúc động đầu tiên chào đón một khoảnh khắc thay đổi sâu sắc.

Một vài tuần đầu tiên đã dạy cho tôi rất nhiều về bản chất và sự phức tạp của thách thức này. Trong lúc tôi đang tham dự Hội nghị thượng đỉnh châu Âu lần đầu tiên, tôi nhận được tin IRA đã sát hại hai sỹ quan cảnh sát đang nghỉ phép bằng những phát súng vào đầu khi họ đang dạo trên phố. Hai cuộc đời chấm dứt; hai gia đình tang tóc. Tôi rùng mình. Tôi đã gửi các thông điệp cảnh báo đến lãnh đạo Sinn Fein trước cuộc bầu cử. Đó không phải là một khởi đầu lạc quan lắm.

Tôi cũng đưa ra quyết định rằng bài phát biểu quan trọng đầu tiên của tôi trên cương vị Thủ tướng sẽ là chủ đề về Bắc Ireland và nền hòa bình. Tôi đã ngẫm nghĩ sẽ phát biểu gì vào một vài thời điểm trước cuộc bầu cử và đã đề cập vấn đề này với David Trimble. Ngay khi chúng tôi nhậm chức tại phố Downing, nhà ngoại giao John Holmes, người đã từng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình dưới thời Major, gia nhập và trở thành một nhân vật không thể tách rời trong nhóm chúng tôi. Ngay từ đầu, Jonathan Powell đã là mật vụ chủ chốt trong việc thực thi các nỗ lực của Chính phủ.

Tôi chẳng không giờ dám chắc về lý do tại sao và bằng cách nào mà Jonathan lại có vai trò quan trọng đối với vấn đề như vậy. Bạn có thể luôn phóng đại trong các tình huống này và cho rằng: “Nếu không phải vì vấn đề này, vấn đề nọ thì điều này có lẽ chẳng bao giờ xảy ra”, nhưng trong tình huống này, điều đó là sự thật. Nếu không có ông ấy, có lẽ sẽ không có nền hòa bình. Mọi tinh hoa mà ông có – và ông có rất nhiều – dường như được thể hiện trong nỗ lực hết sức nhằm theo đuổi thỏa thuận hòa bình này. Ông là người rất mẫn cán, thông minh, sâu sắc, kiên trì, sáng tạo và hơn ai hết là người rất đáng tin cậy đối với cả hai phía. Ông và Adams đã bắt đầu một mối quan hệ chân chính. Những người theo trường phái Hợp nhất tôn trọng ông và ông trở thành nhân vật nổi tiếng nhất trong đội ngũ quan chức Chính phủ Bắc Ireland mà tất cả các đảng phái đều chĩa mũi nhọn để bôi nhọ và trở thành chủ đề của vô số lời than phiền. Nhưng trong thực tế, ông đã thực hiện những nhiệm vụ cao cả trong các tình huống gần như bất khả thi. Sự kiên định không ngờ của ông cũng là một nền tảng lớn cho những thay đổi tâm tính mà vùng đất Bắc Ireland đã sản sinh trong con người tôi.

Trong một cuộc họp, tôi đã được chứng kiến sự giận dữ của người đàn ông Drumcree này với thái độ và tiếng quát tháo mà tôi chưa từng gặp phải trước đó. Người Drumcree là những người phi lý nhất trong những người phi lý. Đứng đầu trong tất cả những điều phi lý, họ để lại mọi rạn nứt, bất đồng, trong mọi tranh chấp khác, thái độ của họ cuối cùng chỉ là những cái ngáp ngắn, ngáp dài. Có một gã, Breandan MacCionnaith, đại diện cho dân cư của đường Garvaghy. Nhưng trước tiên hãy để tôi giải thích tóm tắt về Drumcree.

Các cuộc diễu hành của phe Hợp nhất thường diễn ra xuyên qua các khu vực phe Công Giáo và Cộng Hòa. Không phải là không có lý khi phe Chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc và phe Cộng Hòa không ưa gì chúng và đôi khi họ muốn những cuộc diễu hành này bị cấm. Các cuộc tuần hành có thể kích động bạo lực là điều hoàn toàn vô lý. Trong số nhiều tuyến đường nhạy cảm, Drumcree là tuyến nhạy cảm nhất. Nó là một phần trong tuyến diễu hành thường niên kéo dài đến hàng trăm mét phố Garvaghy, một khu vực lân cận của phe Cộng Hòa. Ủy ban Diễu hành đã phải quyết định xem liệu có cho phép diễu hành theo tuyến này hay không và sau đó những điều tồi tệ xảy ra và cảnh sát đã phải vào cuộc.

Mọi thứ là một cơn ác mộng. Việc cấm diễu hành khiến cho hàng chục nghìn người phe Hợp nhất tràn xuống các đường phố. Việc cho phép diễu hành gây ra bạo động tại các khu vực của phe Cộng Hòa. Một phần trong tiến trình hòa bình là nỗ lực giải quyết vấn đề này. Người dân đã được Breandan MacCionnaith dẫn đầu. Ông ta phi lý đến mức khiến tôi khá tò mò. Ông ta biến cái phi lý thành nghệ thuật. Ông ta không thừa nhận bất kỳ điều gì. Tôi không chỉ nói về thực chất của cuộc họp, ý tôi là cuộc họp nên được tổ chức tại địa điểm nào. Ai nên đến đó tham dự. Ai không nên có mặt ở đó. Thời gian cuộc họp bắt đầu, kết thúc, mục đích là gì. Ai phát biểu đầu tiên. Ai phát biểu tiếp theo và ai phát biểu cuối cùng.

Niềm tin lớn nhất của tôi là khi bạn đàm phán với ai đó, điều đầu tiên là phải tạo ra một bầu không khí dễ chịu; thể hiện thái độ hợp tác; trao đổi những lời nhận xét hài hước; và nên mở đầu bằng những vấn đề không mang tính chất tranh cãi hoặc dẫn đến bất hòa. Hãy khiến người khác gật đầu tán thưởng. Đó chính là cái gật đầu để thiết lập quan hệ và là một tín hiệu tốt đẹp cho sự khởi đầu để chúng ta thấy rằng tất cả không phải chỉ có thất bại. Tôi có thể nói: “Tôi biết ngài rất bất bình vấn đề này”. “Ồ, tất nhiên”, họ đáp lại; đó là lý do tại sao có bất đồng; và sẽ có một cái gật đầu.

Breandan MacCionnaith là người chẳng bao giờ gật đầu đồng tình với bất cứ điều gì. Nếu tôi nói với ông ta “tôi biết ngài rất bất bình với vấn đề này”, ông ta sẽ đáp lại: “Tôi thấy vấn đề này chẳng có gì bức xúc hơn so với bất cứ điều gì khác”. “Vâng tất nhiên, xin lỗi, nhưng rõ ràng ngài đang có vẻ khá gay gắt thì phải”, tôi vặn lại ông ta “Anh là ai mà dám phán xét cảm xúc của tôi?”, ông ta thẳng thừng trả lời. Khi tôi nói rằng mục đích của cuộc họp với cư dân trong khu vực Orange là nhằm giải quyết bất đồng một cách thích đáng và làm yên lòng tất cả mọi người, do đó nền hòa bình có thể được thiết lập. Ông ta nói, ngược lại là khác; mục đích của cuộc họp là nhằm gửi Lệnh Orange và sự khiêu khích khó chịu của những người dân thường tử tế trên đường Garvaghy vào việc tạo nên mớ hỗn độn của lịch sử hoặc đại khái như vậy. Cuối cùng tôi sẽ nói: “Thế còn về…” và tạm ngừng, mục đích để nghe ông ta nói “Không” trước cả khi tôi giải thích lời nhận định. Nếu tôi nói với bạn rằng Breandan MacCionnaith không hề có một chút kiên trì với cái điều phi lý của ông ta (cho dù ông ta đạt được huy chương vàng môn thể thao cận đối kháng cơ bản), bạn có thể hiểu được mức độ phi lý như thế nào.

Thật kỳ lạ, Jonathan đã mất bình tĩnh với Lệnh Orange. Chúng tôi đang có một trong các cuộc họp không mang tính chất xây dựng, dài dòng, loanh quanh về việc liệu cuộc diễu hành có nên diễn ra, ở đâu và như thế nào và Lệnh Orange (nói theo cách lịch sự) đang thắng thế. Một thành viên trong số họ đã có nhận xét rất hồ đồ về sự có mặt của tôi. Tôi bất ngờ ý thức về sự bất bình chung của dân chúng dành cho cánh tả của tôi, Jonathan đứng bật dậy, mặt đỏ gay giận dữ và quát: “Anh dám ăn nói với Thủ tướng Anh như thế à? Sao anh dám…?”

Tất cả chúng tôi đều im lặng ngạc nhiên. Ngoại trừ Jonathan, người nói liên tục, đôi lúc lặp đi lặp lại nhưng đã giải thích cặn kẽ và rõ ràng về những đề xuất của mình. Lệnh Orange khá lung lay. Tôi cũng vậy. Tôi chưa từng bao giờ nhìn thấy bộ dạng ông ấy như vậy trước đó. Chúng tôi đã trao đổi qua với nhau dọc hành lang về việc “đáng lẽ ngài nên uống thuốc sáng nay” và tôi chưa từng thấy ông ấy trong bộ dạng này kể từ đó. Chẳng ai cư xử tầm thường như vậy xung quanh vấn đề Bắc Ireland. Vụ việc xảy ra làm dấy lên mối quan tâm về bản chất của nghề nghiệp: Bạn phải chịu đựng được rất nhiều lời xỉ vả. Không chỉ la ó chửi rủa thô bạo hoặc phản đối, động thái của bạn liên tục bị chất vấn hoặc bị vu khống, ngôn từ của bạn bị hiểu sai lệch, những nỗ lực của bạn nhằm làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp bị nhìn nhận như những nỗ lực hoặc để tăng lợi ích cá nhân của mình hoặc thậm chí để khiến mọi thứ trở nên tồi tệ.

Tôi liên miên gặp vấn đề về sự tin cậy, phần lớn với người theo phái Hợp nhất nhưng cũng với cả phe kia. Nó nảy sinh một phần từ con đường gian nan cần thiết được thêu dệt thông qua các ngóc ngách hiểm nguy của nền chính trị Bắc Ireland và rất nhiều công việc bí mật, đầy rẫy sự ngụy biện; nhưng quan điểm cho rằng mọi người cảm thấy rất khó để chấp nhận các thủ lĩnh chính trị đang thực sự nỗ lực thúc đẩy tiến triển có vẻ được quan tâm nhiều hơn. Vì vậy, đối với Bắc Ireland, bạn có thể nghĩ về tình trạng rắc rối một cách khá khoan dung: Xung đột là vấn đề tại Bắc Ireland (không có cử tri của Đảng Lao động tại đó) nhưng không thực sự là vấn đề trong nền chính trị nước Anh (thực vậy, bạn càng cố gắng giải quyết, thì vấn đề càng trở nên lu mờ và kém quan trọng); cực kỳ khó khăn; tốn rất nhiều thời gian. Về khía cạnh tư lợi chính trị đơn thuần, nếu bạn thất bại, tiền đặt cược càng cao và thấp nếu thành công.

Nhưng tất cả các phương thức thông qua quá trình, thiện ý của Chính phủ, chẳng bao giờ để tâm đến việc cai trị tốt, vẫn còn là một dấu chấm hỏi. Cuối cùng tôi quyết định mọi người hoạt động ở hai cấp độ liên quan đến lãnh đạo chính trị. Ở một cấp, họ đặt tất cả hy vọng, kỳ vọng và mọi thứ vào Chính phủ, các nỗi thất vọng vào nhà lãnh đạo. Bạn trở thành tâm điểm chú ý và do vậy trở thành tâm điểm đối với những lời chỉ trích. Ở cấp độ này bạn không được đo bằng công cụ đo lường phù hợp mà bằng sự hoàn hảo. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi bạn không thể thực hiện được.

Tuy nhiên, ở cấp độ còn lại, mọi người có đánh giá sâu sắc, chín chắn hơn và nếu bạn đang thực sự cố gắng, bạn có thể đạt được kết quả. Ngoài ra, như tôi nói, bạn phải có khả năng chịu đựng những lời xỉ vả vì đây là một phần tất yếu trong công việc.

Có một nét tính cách khác hỗ trợ tôi rất nhiều tại Bắc Ireland. Tôi thực sự không “trèo cao”. Tôi không tự coi mình là “cao sang” tại văn phòng. Tôi đặt thẩm quyền của mình vào việc thúc đẩy và thuyết phục mọi người, chứ không đe dọa họ. Có thể đôi khi tôi hơi quá đà và có thể cũng đúng, khi trong nhiều thời điểm, tính chất ngạo mạn, ông chủ, thậm chí hà hiếp, lại thể hiện trong tôi rõ hơn, nhưng đó là bản chất của tôi. Tại Bắc Ireland, nó có hiệu quả. Mọi người có thể thực sự đang lăng mạ mà không khiêu khích nhiều, nhưng nếu bạn tranh luận với họ về vấn đề đó, hậu quả sẽ khôn lường. Vì vậy nhìn chung, tôi không làm như vậy.

Trong những tháng đầu tiên sau khi nhậm chức, tôi đã cố gắng định hình chiến lược của mình. Tôi đã có bài phát biểu tại Triển lãm Nông nghiệp Hoàng gia Ulster vào ngày 16 tháng Năm và thận trọng trình bày để tranh thủ và đưa ra quan điểm của phe Hợp nhất. Chính buổi phát biểu đã tự thể hiện tính chất chỉ thị của nó – ngay trong tâm trí của cộng đồng phe Hợp nhất. Áp dụng lời khuyên của David Trimble, tôi thể hiện việc đánh giá cao sự Hợp nhất và sau đó là một thông điệp vốn gây ra rất nhiều chỉ trích, với nội dung thể hiện sự nghi ngờ của bản thân tôi về việc bất cứ ai trong chúng tôi có thể nhìn thấy một Ireland thống nhất trong cuộc đời mình. Vì một số trong những người này hiện khoảng 20 tuổi, đó là một tuyên bố ủng hộ Hợp nhất rõ nét. Triển lãm này là nơi huyền bí nhất để đưa ra lời phát biểu quan trọng, trong một túp lều mà bên ngoài những con bò của giải đấu đang tranh giành với những người nông dân có khuôn mặt đỏ gay khi tương lai của mảnh đất đang được định hình.

Cho dù những tên tội phạm sát hại hai sĩ quan cảnh sát là ai (IRA đã gửi thông điệp thông báo rằng việc làm đó là trái pháp luật), chúng tôi đã giành cho IRA năm tuần để khôi phục lại tình trạng cấm sử dụng vũ khí vốn đã mất hiệu lực trong 18 tháng qua. Lần này họ đã thực thi vào ngày 19 tháng Bảy năm 1997.

Vài tuần sau đó, Chính phủ Anh và Chính phủ Ireland đã nhất trí thành lập Ủy ban Quốc tế Độc lập về việc không sử dụng vũ khí (IICD). Việc cấm sử dụng vũ khí là một di sản đầy rủi ro kế thừa từ chính quyền trước mà đã trở thành một quả bóng khổng lồ và dây xích siết chặt chân chúng tôi trong những năm tới. Dưới áp lực của phe Hợp nhất, John Major đã đồng ý rằng điều kiện tiên quyết thiết yếu để thiết lập nền hòa bình và việc chia sẻ quyền lực của IRA không đơn thuần là theo đuổi hòa bình mà còn chấm dứt việc sử dụng vũ khí của họ. Tất nhiên, ở một cấp độ, điều này hoàn toàn hợp lý: nếu bạn theo đuổi hòa bình, bạn không cần vũ khí. Nhưng cấp độ khác, nó ẩn chứa thông điệp gửi tới IRA về những kẻ đầu hàng, về không chỉ nền hòa bình đang theo đuổi đơn thuần mà còn ở hành động xin lỗi vì đã gây ra chiến tranh và nó làm phức tạp hóa việc quản lý nội bộ một cách đáng sợ. Gerry Adams và Martin McGuinness đã cố gắng bám trụ với phong trào của họ đến cùng. Ngoài ra, cũng có một luồng ý kiến như vậy của những người theo phe Cộng hòa. Có những người theo đường lối cứng rắn thực sự. Họ khăng khăng quan điểm về đường lối cứng rắn. Nhưng làm sao để họ không bị co kéo lửng lơ giữa dòng. Triển vọng về việc IRA bị buộc phải hủy bỏ vũ khí đẩy họ đến sự chèo kéo như vậy, nhưng thực tế là vậy; Không thể thất hứa với cam kết của John Major, vì vậy việc đó phải được kiểm soát. IICD đã tiêu tốn của chúng tôi khá nhiều thời gian và sức lực.

George Mitchell đã thực hiện công việc vĩ đại là soạn thảo các nguyên tắc phi bạo lực và các vị trí chung – một cam kết đối với các biện pháp hòa bình dành riêng cho tất cả các bên trong Chính phủ. Ví dụ, những việc chung chung nhưng tạo ra một khuôn khổ cho cuộc đàm phán lớn hơn nhiều được tiến hành – và là các cuộc đàm phán chính trước khi chúng tôi nhậm chức. Sinn Fein lập tức cho rằng họ sẽ hành động dựa theo những nguyên tắc của Mitchell, nhưng IRA từ chối đưa ra cam kết tương tự. Điều đó không làm an lòng phe Hợp nhất, nhưng chúng tôi kiên trì và xác định ba chủ đề đối với cuộc đàm phán được khởi động khi John Major làm Thủ tướng: lãnh thổ Bắc Ireland sẽ được quản lý ra sao dưới một hệ thống chia sẻ quyền lực được chuyển giao; mối quan hệ giữa Anh và Bắc Ireland (Đông – Tây); và quan hệ giữa Cộng hòa Ireland và Bắc Ireland (Bắc – Nam).

Các cuộc hội đàm bắt đầu vào tháng Chín mà không có sự tham dự của David Trimble. Những người chống đối phe Cộng hòa đã đặt một quả bom trong ngày thứ hai của buổi hội đàm. Vào ngày thứ ba, các đảng phái phe Hợp nhất khác, ngoài DUP, đảng của Pasley, đã tham gia hội đàm.

Có nhiều cuộc hội đàm hơn vào tháng tiếp theo và đến ngày 13 tháng Mười, tôi có cuộc họp đầu tiên với Gerry Adams và Martin McGuinness. Tính đến thời điểm đó, chưa một Thủ tướng Anh nào gặp gỡ họ. Đó là một khoảnh khắc trọng đại. Một câu hỏi thiết yếu rằng liệu tôi có bắt tay với họ hay không (không một lãnh đạo nào của phe Hợp nhất làm như vậy cho đến 2007). Tôi quyết định thực hiện điều này một cách tự nhiên. Vì vậy khi họ bước vào, chúng tôi đã bắt tay nhau.

Sau đó, khi được hỏi về điều đó, tôi nói rằng tôi đối xử với họ như với bất kỳ người nào khác; nhưng cùng ngày hôm đó tôi nhận được thịnh tình của phe Hợp nhất. Tôi được Peter Robinson, phó thủ lĩnh của DUP mời đến thăm một trung tâm mua sắm trong địa hạt của ông. Tôi chưa bao giờ chắc liệu ông ta có chào đón mình hay không. Tôi sẽ giả sử là không.

Trung tâm đông nghẹt những phụ nữ cao niên mua sắm. Tuy nhiên, như một giấc mộng tồi tệ, họ bỗng nhiên biến thành những người dữ dằn, phản ứng giận dữ, la ó, chửi thề, coi tôi là một kẻ phản bội và vung những chiếc găng tay cao su vào mặt tôi. Tôi hoàn toàn vui vẻ lắng nghe họ, nhưng RUC (Royal Ulster Constabulary – Sở Cảnh sát Hoàng gia Ulster) – với những gì tôi từng nghĩ là hơi háo hức một chút – coi đó là một sự vụ an ninh quan trọng và kéo tôi vào một căn phòng để đảm bảo an toàn.

Thật ngạc nhiên, tôi chẳng hiểu được những đôi găng tay cao su ám chỉ cái gì và ở đâu ra. Tôi nghĩ họ vừa giặt giũ, rửa bát, dọn dẹp hoặc một việc gì đó. Khi tôi kể với Jonathan, anh ấy cười ầm lên và nói: “Không, điều đó có nghĩa là đáng lẽ ngài nên đeo găng tay cao su khi bắt tay với Gerry Adams.”

Những tháng ngày sau đó đã là một đoạn đường khó khăn băng qua một khu rừng rậm rạp, đầy nguy hiểm chông gai, khi chúng tôi cố gắng trèo lên cao để có thể nhìn thấy con đường dẫn lối đến một thỏa thuận đàm phán. Con đường chúng tôi đi, cho dù có chút may mắn tạm thời, nhưng lại liên tục bị cản trở bởi những sự kiện bất lợi. Một nhóm phe phái Hoàng tộc tái tuyên bố tình trạng ngừng sử dụng vũ khí. Tốt. Sau đó một nhóm phe phái Hoàng tộc khác phá vỡ cam kết của họ và bị loại khỏi các cuộc đàm phán. Xấu. Tháng Một năm 1998, đã xảy ra cuộc khủng hoảng thực sự khi IRA giết hại hai người tại thủ đô Belfast. Sinn Fein đã bị loại khỏi bàn đàm phán trong vòng 17 ngày. Sau đó, phe Cộng Hòa chống đối, Quân giải phóng Dân tộc Ireland giết hại Billy Wright, lãnh đạo Lực lượng Tình nguyện Hoàng gia, bên trong nhà tù Maze. Càng ngày càng có nhiều chính biến xảy ra.

Từ đầu đến cuối tôi chưa bao giờ từ chối nói chuyện điện thoại với David Trimble và các lãnh đạo phe Hợp nhất. Họ coi sự bùng phát rải rác, các vụ bạo lực là một điều gì đó không nhất quán với các nguyên tắc của Mitchell.

Để làm dịu quan điểm của phe Dân tộc Chủ nghĩa và dưới áp lực từ Ireland, tôi cũng ra lệnh mở một cuộc điều tra về vụ nổ súng Ngày Chủ nhật Đẫm máu năm 1972, khi quân đội Anh nổ súng vào những người phản đối tại thủ đô Belfast, giết hại nhiều người. Những người theo phe Dân tộc Chủ nghĩa tuyên bố họ là những người phản đối hòa bình. Một cuộc điều tra tại thời điểm đó do Nghị sĩ Widgery, người sau này trở thành Chánh án Tòa án Tối cao tiến hành đã bị lên án rộng rãi như một vụ che giấu sự thật và chúng tôi nhất trí đáp ứng yêu cầu 25 năm trước để tiến hành một cuộc điều tra khác. Việc làm này tất nhiên làm dịu bớt công luận tại thời điểm đó. Tuy nhiên, nó cũng trở thành một chuỗi các sự kiện kéo dài 12 năm với chi phí lên tới gần 200 triệu bảng Anh. Cho đến khi sự kiện được báo cáo vào năm 2010, tôi xem nó như một ví dụ điển hình về việc tại sao bạn không nên tiến hành các cuộc điều tra về bất kể điều gì trừ phi thật sự bắt buộc, hoặc chỉ trong những trường hợp ngoại lệ nhất. Các cuộc điều tra hiếm khi đạt được mục đích. Tuy nhiên, báo cáo cuối cùng đã chứng tỏ nhận định của tôi là sai. Bản báo cáo rất có giá trị: một bản báo cáo công bằng và thấu đáo về vụ việc đã xảy ra.

Bằng cách này hay cách khác chúng tôi đã do dự bước vào giai đoạn đầu tháng Tư khi quyết định thử tổ chức thỏa thuận xoay quanh ba chủ đề được lấy làm cơ sở cho các cuộc đối thoại dưới thời John Major. Chúng tôi đã định ngày tháng cho cuộc họp. Điều thú vị về Thỏa thuận Ngày thứ Sáu Tốt lành là nó diễn ra một cách rất tình cờ thay vì theo lịch trình định sẵn. Tôi phải ở lại thêm một ngày để nhất trí thông qua bản thỏa thuận, công việc chi tiết do các quan chức thực hiện. Tôi kết thúc sau thời gian ở lại bốn ngày đêm và tham gia tận tình vào một trong những vòng đàm phán hòa bình đặc biệt nhất từng được triển khai. Theo các quan điểm mang tính chỉ trích trong suốt những ngày này thì thỏa hiệp đã thất bại; nhưng cuối cùng, chúng tôi đã thông qua thỏa hiệp đó. Thành thật mà nói thì tôi chưa bao giờ tham gia vào bất cứ vấn đề nào như vấn đề này. Và thỏa thuận đạt được thực sự đã làm nên lịch sử.

Nói về “lịch sử”, có một khoảnh khắc khá hài hước khi lần đầu tiên tôi đến đây. Tôi đã nghe David Trimble trao đổi qua điện thoại đêm trước đó rằng cho dù các quan chức đã triển khai một khối lượng rất lớn các công việc chi tiết, nhưng không chỉ một phần thỏa thuận thực sự được nhất trí mà còn các thỏa thuận trông có vẻ như không chắc chắn cũng đạt được sự nhất trí. Tôi quyết định triển khai theo mô hình thực tiễn, chuyên nghiệp, chu đáo, không khoa trương khi tuyên bố với báo chí ngoài Hillsborough, ngôi nhà lớn ở nông thôn có giá trị lịch sử để khách thăm quan là nơi ở riêng của Bộ trưởng Ngoại giao Anh khi đến Bắc Ireland rằng “Hôm nay không phải là một ngày dành cho lời giới thiệu ngắn về chương trình sắp phát thanh”, tôi bắt đầu háo hức, tỏ lòng kiên nhẫn bắt tay vào làm việc và giận dữ với bất cứ điều gì hoa mỹ và giả tạo. Khi đó – và trời mới biết ý tưởng từ đâu đến, nó chỉ mới xuất hiện trong đầu tôi – tôi nói “nhưng tôi cảm nhận được trách nhiệm của lịch sử đặt lên vai chúng ta”, tất nhiên đó là về lời giới thiệu ngắn cho chương trình sắp phát thanh lớn như bạn có thể suy ngẫm. Tôi có thể nhìn thấy Jonathan và Alastair tán dương. Tôi quyết định không phát biểu nữa và quay trở lại tòa nhà trước khi được đưa tới các cuộc đàm phán tổ chức tại Tòa nhà Castle ở Stormont.

Stormont, trụ sở của chính quyền Bắc Ireland trong những năm sau chia cắt cho đến khi toàn bộ hệ thống sụp đổ, là điển hình của các tòa nhà đặc biệt mà nước Anh đã công bố với thế giới về tầm quan trọng của chúng. Được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX, nó là một kiến trúc hùng vĩ với các khu vực sân diễu hành với một vẻ trang nghiêm đầy ấn tượng, oai vệ và mạnh mẽ. Tuy nhiên, một số thành phần quá khích đã quyết định chọn Tòa nhà Castle – sự tổng hòa của các yếu tố hiện đại nhất – làm nơi gặp gỡ. Hẳn là phải có một lý do bảo đảm cho người thiết kế ra nó. Gần như không có công trình phụ trợ nào, nó xấu xí, chật hẹp và tệ hại, đặc biệt là không có hồn. Tôi khá nhạy cảm với không gian xung quanh. Tôi yêu thích những thiết kế đẹp, tìm kiếm nguồn năng lượng từ cái đẹp, từ sự đặc biệt trong lối kiến trúc, tôi thích làm việc trong một môi trường có thể giúp đôi mắt thư giãn và tâm hồn trở nên tươi mới. Tòa nhà Castle lại là một kiểu kiến trúc tương phản tức mắt.

Tuy nhiên, bỏ qua tòa nhà tồi tệ đó, thì rõ ràng chúng tôi đã đánh giá sai khả năng sẵn sàng thương lượng của phe Hợp nhất. Tất nhiên, David Trimble phải chịu áp lực liên tục từ Ian Paisley, người xuất hiện ngoài Tòa nhà Castle để lên án mọi thứ như là một động thái phản bội gay gắt.

Tôi cũng đã đưa ra cảnh báo về hội đàm vào buổi tối trước đó với John Alderdice, lãnh đạo của Đảng Liên minh các Cộng đồng. John là nhà lãnh đạo hoàn toàn phù hợp cho một đảng rất chính đáng, điều đó có nghĩa là họ không có khả năng giành chiến thắng. Ngược lại, họ có thể mang lại ảnh hưởng hai chiều tại khu vực trung tâm và John là một chính trị gia tài năng đặc biệt vốn hiểu rất rõ về cộng đồng phe Hợp nhất. Ông ta nói thẳng với tôi rằng hội đàm với David Trimble không có triển vọng thành công.

Tôi vào căn phòng trên tầng 5 – nơi tôi sẽ ở trong một vài ngày tới. Tôi bước vội dọc hành lang để gặp George Mitchell, người có tâm trạng vui vẻ nhưng đôi khi cũng khiến tôi bực mình vì đã lịch sự nói với tôi rằng ông ta nghĩ thỏa thuận sẽ không thể nào đạt được.

Ngay lúc đó và tại đó tôi quyết định chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc thương lượng. Tôi nói lại với David Trimble, người có sở thích để dành mọi việc cho đến sau ngày Lễ Phục sinh. Tôi bắt đầu xem xét tỉ mỉ chi tiết những nội dung ông cần. Buổi tối trước đó, tôi đã tự làm quen với những vấn đề phức tạp thuộc các chủ đề khác nhau trong cuộc đàm phán. Nó giống như việc ngồi phía sau tại Tòa án nghiên cứu tóm tắt hồ sơ vụ kiện ngày tiếp theo. Rất may là tôi có thể “tiêu hóa” được lượng lớn thông tin một cách nhanh chóng, một khóa đào tạo vô giá mà luật pháp thực sự mang lại.

Tôi có sở thích nghiên cứu mở rộng vấn đề đến từng chi tiết. Thực tế, Thủ tướng không thể nào quan tâm đến từng chi tiết của mọi vấn đề, ngoài ra, quá chi tiết lại có thể làm phát sinh một vấn đề mới ngay lập tức. Nhưng đôi khi – tại các thời điểm khủng hoảng hoặc các cuộc đàm phán như thế này hay một số các hiệp ước châu Âu vốn rất khó khăn mới có thể đạt được, các thỏa thuận về ngân sách – thì tính chi tiết tuyệt đối lại đóng vai trò quyết định. Tại các thời điểm như vậy, tôi sẽ đắm mình trong từng chi tiết.

Giờ đây, tôi thực sự ở trong tình huống đó. David đã có những trang sửa đổi và một cách tự nhiên, sự thay đổi văn bản của bên này sẽ là thất bại của bên kia. Thiếu cơ sở chính thức cho quyết định như vậy, nên tôi đã hứa với David là sẽ cung cấp những gì ông ta cần.

Tiếp theo tôi giữ chặt Bertie, người vừa mới đến. Bertie là một trong những thủ lĩnh chính trị ưa thích của tôi. Ông dần trở thành người bạn thực sự của tôi và đóng vai trò người hùng trong toàn bộ quá trình đàm phán; thông minh, mạnh mẽ và hơn hết không bị bất kỳ trói buộc nào của lịch sử. Điều đó không có nghĩa là ông không có ý niệm gì về lịch sử. Ngược lại, gia đình ông đã chiến đấu chống lại Anh, là thành phần trong Cuộc nổi dậy Lễ Phục sinh, là người theo phe Cộng hòa chính thống; nhưng ông lại có tài năng cơ bản, phẩm chất của những chính trị gia vĩ đại: Ông là một nhà nghiên cứu lịch sử, không phải là nô lệ của lịch sử.

Mẹ ông – người rất gần gũi với ông – vừa qua đời và đêm trước, ông đã thức canh thi hài của bà. Cuối cùng, ông đã trở lại sau công việc gia đình. Giờ đây, ông phải chắc chắn với tôi về vấn đề hai miền Bắc – Nam, hay toàn bộ phần viết về Ireland, khu vực rất thân thuộc với các cử tri của ông – sẽ phải viết lại. Đây không phải là tin tức mà ông muốn đón nhận, nhưng đây là nơi Bertie thể hiện khí phách và tính cách của mình.

Vào ngày 7 tháng Tư năm 1998 – và nhiều lần sau đó vào các năm tiếp theo – ông ta đáng lẽ nên cân nhắc đối chiếu quá khứ truyền thống của đất nước mình trước một tầm nhìn tương lai đang vận động và phát triển. Thay vào đó, ông lại lựa chọn việc xem xét tương lai lên trước. Sự ủng hộ và sự khéo léo của ông chứng tỏ sự trở lại của một vai trò trụ cột, góp phần tìm kiếm nền hòa bình mới. Các quan chức của ông thực sự có năng lực và họ hành động theo ông. Sự hiện diện của ông và của tôi, cá tính của ông và của tôi, ở một khía cạnh nào đó tạo nên biểu tượng về thực tế mới mẻ hiện đại vốn đang dập tắt những tư tưởng cổ hủ lạc hậu trước kia. Ở một khía cạnh khác, chúng tôi đã nhân hình hóa cơ hội để trốn chạy lịch sử của Anh, Ireland và tiến trình hòa bình. Ngược lại, ông thực sự cho tôi thấy rằng việc viết lại hiệp ước Bắc – Nam sẽ là một cú trời giáng đối với phe theo Chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc.

Việc tiếp theo là gặp gỡ David Trimble và toàn bộ đội ngũ của ông ấy. Đây là một hiện tượng kỳ lạ về sự khác biệt giữa hai phe phái. Khi gặp phe Cộng hòa, bạn nhìn thấy sự thống nhất trong hành động của họ. Họ có đường lối riêng; họ thực hiện nó; họ nắm giữ nó. Sẽ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng các điều chỉnh sẽ được thực hiện trong quá trình diễn ra cuộc họp, với quan niệm rằng sự điều chỉnh đã được xây dựng trước trong đường lối và đường lối vẫn được duy trì. Gerry Adam là thủ lĩnh. Bạn có lẽ không phải khiến một trong số các đại biểu nhướng mày suy nghĩ trong bài nhận xét của ông, hãy để một mình ông tuôn ra những lời lẽ chống đối hơn là để Ian Paisley lãnh đạo dàn hợp xướng sôi nổi của “Danny Boy”. Trái lại, Đảng Hợp nhất (Ulster Unionist Party – UUP) có cách thức báo động về việc tổ chức các cuộc họp. Bạn có thể nghĩ rằng mình khiến họ trở nên náo nhiệt và phân loại theo nhóm và sau đó từng người trong số họ, thường không phải là lãnh đạo, có thể sẽ đưa ra một nhận xét bi quan phiền muộn và tất cả họ sẽ hùa theo để nhảy xuống bờ vực. Thậm chí đáng báo động hơn, điều đó có thể xảy ra đối với vấn đề nhỏ nhất. ?