Chương 8 Kosovo.
Sự trỗi dậy của phe đối lập lẫn phe Chính phủ là một phần bản chất khắc nghiệt của quá trình ra quyết định. Ở phe đối lập, nếu đã đủ kỹ năng, bạn có thể che giấu những mâu thuẫn, che giấu những lựa chọn, làm lu mờ sự khác biệt, phủ tấm màn đồng thuận mơ hồ lên những quyết định khó khăn và khiến mọi chuyện trông có vẻ êm xuôi. Nhưng ở Chính phủ, mọi chuyện đều có những góc cạnh riêng, sắc bén. Khoảnh khắc bạn lựa chọn và bắt đầu hành động theo lựa chọn đó, các cạnh sắc cũng bắt đầu cứa vào bạn.
Tôi dần trau dồi thêm về các chính sách đối nội. Nhưng phải đến nhiệm kỳ cuối tôi mới tìm được tiếng nói riêng trong các cải cách này. Ngược lại, sự thức tỉnh của tôi về các chính sách đối ngoại diễn ra khá đột ngột. Tất cả bắt đầu từ sau sự kiện Kosovo.
Việc các chính sách được phân thành nhóm đối nội và đối ngoại có điều gì đó không đúng. Đơn giản là một cuộc khủng hoảng ngoài nước có thể tác động nghiêm trọng tới tình hình trong nước. Có hai điều khiến cho sự phân loại càng trở nên sai lầm trong thời đại ngày nay: Một là, thế giới đã hội nhập toàn cầu, vì thế tình hình trong và nước ngoài có xu hướng song hành; hai là, khi truyền thông toàn cầu phát triển, các cuộc khủng hoảng nước ngoài thường được truyền hình hoặc thông tin trực tiếp qua hệ thống truyền thông. Chúng nhanh chóng trở thành những thách thức đối nội do chúng tác động tới đời sống trong nước – như vấn đề kinh tế thế giới hay tình trạng nhập cư – và cũng bởi sự cảm thông và tình cảm của những người có liên quan. Ví dụ, khi Israel tấn công Gaza, những hình ảnh sống động về cuộc chiến và mất mát mà những người tham gia phải chịu đựng hiện hữu ngay lập tức trong nhà của từng người, vươn tới tận những vùng xa xôi nhất của nước Anh. Chúng ta biết tới tình hình đó theo cách mà trước đó vài thập kỷ, cần phải có những chiến dịch như Midlothian để thu hút và khuấy động tình cảm của mọi người.
Tuy nhiên, ngay cả sự mô tả này dường như cũng tầm thường hóa những việc đang diễn ra, không đơn thuần là việc mọi người bị ảnh hưởng bởi những gì họ nhìn thấy, mà là họ quan tâm tới đồng loại. Cảm xúc của họ là có thực. Họ nhìn thấy trẻ em chết đói ở châu Phi và cảm động tới mức phải bắt tay vào hành động. Họ chứng kiến những bất công và mong muốn Chính phủ của mình giúp thay đổi chúng. Họ có thể quan tâm nhất tới những gì xảy ra trên đất nước mình nhưng cũng không bao giờ thờ ơ với những mảnh đời khốn khổ vượt ra khỏi biên giới.
Kết quả của tất cả những việc này là khiến cho thế giới liên kết với nhau không chỉ về kinh tế hay lợi ích tự thân mà còn về tình cảm, trái tim cũng như khối óc một cách mạnh mẽ. Khi chúng ta nói về một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, điều đó có nghĩa là chúng ta được kết nối với nhau, có chung thách thức cũng như giải pháp, vấn đề nảy sinh ở nơi này trên thế giới có thể dễ dàng kích động phản ứng ở nơi khác; nhưng chúng ta cũng cảm thấy tình đồng loại được kết nối vượt ra ngoài các đường biên giới nhiều hơn bao giờ hết. Không gian chúng ta đang sống được chia sẻ nhiều hơn. Du lịch, truyền thông đại chúng, mạng Internet và các hình thức liên lạc hiện đại kéo chúng ta về cùng một hướng. Tôi cảm thấy thoải mái, thậm chí phấn khích về một thế giới đang rộng mở, cho phép chúng ta trải nghiệm và học hỏi từ nhau. Tuy nhiên, ngay cả nếu tôi bực bội vì điều đó, tôi cũng sẽ phải chấp nhận nó như một thực tế của nền chính trị hiện đại.
Trong quá trình đó, chính sách đối nội và đối ngoại tương tác và lấn sân nhau, tuy nhiên, chúng tôi vẫn cố vờ rằng sự thực không phải thế. Trước khi trở thành Thủ tướng, tôi đọc rất nhiều, vì thế cũng có vốn hiểu biết tương đối tốt về lịch sử. Nnhưng về vấn đề ngoại giao đương đại, tôi biết rất ít. Chiến dịch năm 1997 diễn ra gần như hoàn toàn trên nền tảng chính sách đối nội. Nếu trong buổi sáng tháng Năm tươi sáng ấy, khi lần đầu tiên tôi bước vào phố Downing, bạn cho tôi biết rằng trong thời gian tại nhiệm tôi sẽ kéo nước Anh vào bốn cuộc chiến, chắc hẳn tôi đã vô cùng hoang mang và kinh hoàng.
Mọi sự là như thế. Tôi không nhớ trong các đời Tổng thống Mỹ, đã có người nào lại dựa vào chính sách đối ngoại để bước chân vào Nhà Trắng. Tôi cũng không nhớ đã có tổng thống nào, trong suốt thời gian tại nhiệm lại không thấy căng thẳng với vấn đề chính sách đối ngoại. Tất cả các chiến lược gia chính trị đều đưa ra lời khuyên rằng việc dùng chính sách đối ngoại làm nền tảng hoặc trọng tâm của chiến dịch tranh cử là một thảm họa, là sự mở đầu cho một cái kết. Như tôi tìm hiểu, điều này khá là đúng, lý do vì công chúng nghĩ chính sách đối ngoại vừa quan trọng lại vừa quá xa vời so với những mối bận tâm thường ngày của họ.
Vì thế, ở một mức độ nào đó, công chúng hiểu nhu cầu về một bức tranh quốc tế tổng thể. Ở một mức độ khác, công chúng được chứng kiến hết vòng đàm phán này đến vòng đàm phán khác, các hội nghị thượng đỉnh, các cuộc họp, các cuộc tiếp xúc cấp cao. Những điều đó thật xa vời – dân chúng la ó: “Chúng liên quan gì đến chúng ta?” Trên cương vị một nhà lãnh đạo, bạn nhận ra rằng tuy những cảm xúc đó của người dân có thể thông cảm được, nhưng chúng hoàn toàn sai lệch. Bản chất của việc phụ thuộc lẫn nhau khiến cho vấn đề trở nên như vậy. Toàn cầu hóa kéo mọi người lại gần nhau hơn. Người ta cùng nhau đối mặt với các thách thức và ở một mức độ nào đó, với tốc độ khác nhau. Người ta cùng tìm ra các giải pháp. Vì thế, không thể dám chắc rằng một thách thức ở lục địa A, nếu nó thực sự nghiêm trọng, sẽ không gây ra một thách thức khác ở lục địa B. Cụm từ “cộng đồng quốc tế” hoàn toàn sáo rỗng, nhưng nó đúng. Đó là cách chúng ta sống ngày nay.
Còn có một hệ quả khác từ mối tương tác giữa các chính sách đối nội và đối ngoại: Bản thân chính sách đối ngoại phải được thực hiện theo cách thức riêng biệt. Các thách thức toàn cầu đòi hỏi những giải pháp toàn cầu. Các giải pháp toàn cầu cần những liên minh toàn cầu. Các liên minh toàn cầu không thể được xây dựng trên nền tảng lợi ích quốc gia hẹp hòi, chúng phải được thiết lập dựa trên những giá trị chung toàn cầu.
Lấy vấn đề biến đối khí hậu – một thách thức toàn cầu làm ví dụ. Giải pháp là sự đồng thuận toàn cầu và cần phải được các quốc gia phát triển và đang phát triển – Trung Quốc và Ấn Độ, Mỹ và châu Âu – cùng ủng hộ. Lợi ích quốc gia của họ nằm trong những thương thuyết tập thể. Những thương thuyết ấy sẽ không đạt hiệu quả nếu nó không mang lại công bằng cho các quốc gia đang ở những giai đoạn phát triển khác nhau. Với lập luận như thế, chúng ta có thể thấy lợi ích quốc gia phụ thuộc vào sự thỏa thuận đa quốc gia dựa trên những nhận thức chung về sự công bằng.
Tất cả những điều trên cho thấy quan điểm về chính sách đối ngoại truyền thống (vốn dựa trên những phân tích hẹp hòi về lợi ích quốc gia và thái độ thờ ơ nếu lợi ích đó không được đề cập trực tiếp) rất thiếu sót và lỗi thời. Tình cờ, tôi và Gladstone cùng chia sẻ một suy nghĩ, rằng hành xử theo chính sách đối ngoại đó cũng là vô đạo đức. Nhưng ngay cả khi không nghĩ thế, tôi chắc rằng vào những năm đầu thế kỷ XX, quan điểm đó cũng không còn hiệu quả nữa.
Tất nhiên, điều đó trở thành cuộc tranh luận nảy lửa về chính sách đối ngoại trong suốt thời gian tại nhiệm của tôi. Cuối cùng, tôi phải thừa nhận mình thuộc nhóm thiểu số khi lối tư duy này dẫn đến những động thái quân sự. Nhưng trên lĩnh vực kinh tế, môi trường và các vấn đề khác thì quan điểm này lại được chấp nhận rộng rãi hơn, ít nhất về mặt lý thuyết. Nó cũng gây nên tình trạng tả hữu lẫn lộn cho đến khi chúng tôi rơi vào vị thế kỳ quặc, khi việc ủng hộ thực thi nền dân chủ tự do là một quan điểm “tân bảo thủ” và không can thiệp vào tình hình một quốc gia khác là “tiến bộ”.
Khi vấn đề Kosovo trở nên nổi cộm vào cuối năm 1998 và bùng nổ vào những tháng đầu năm 1999, thì những cạnh sắc của chính sách đối ngoại và quá trình ra quyết định lập tức nổi cộm và gây “đau đớn”.
Về cơ bản, những vấn đề này xảy ra sau khi Nam Tư chia tách. Trước đó, sự kiện Bức tường Berline sụp đổ vẫn còn gây chấn động. Những vết thương của cuộc xung đột Bosnia vẫn chưa lành. Đặc biệt, Serbia vẫn nằm dưới chế độ độc tài Slobodan Milosevic. Căng thẳng tôn giáo, sắc tộc và phong trào dân tộc chủ nghĩa diễn ra khắp nơi. Kosovo – một lãnh thổ nhỏ chỉ bằng diện tích bang Yorkshire hay Connecticut với khoảng một triệu dân mà đa phần là người Albany Kosovo Hồi giáo – vẫn là một phần của Serbia, một quốc gia theo đạo Thiên chúa chính thống. Mối quan hệ giữa những người Serb cai trị và những người Kosovo rất tồi tệ.
Hậu quả là cuộc xung đột Bosnia đã chia tách Nam Tư cũ thành nhiều quốc gia (theo Hiệp ước Dayton cuối năm 1995, đạt được nhờ sự nhiệt tình và khả năng thiên tài của nhà ngoại giao Mỹ Richard Holbrooke). Mặc dù, phải mất đến hai năm thì phương Tây mới can thiệp – tại thời điểm đã có tới 750 nghìn người chết – nhưng việc phân vùng cũng mang lại một chút hòa bình.
Tháng Mười hai năm 1998, Paddy Ashdown gửi cho tôi một bức thư ngắn khi ông đến thăm khu vực này. Ông cho rằng nhìn chung mọi việc đang tiến triển tốt đẹp; chỉ riêng với Kosovo, mọi việc trở nên tồi tệ hơn. KLA – lực lượng bán quân sự giải phóng Kosovo đang tái vũ trang khi phải đối mặt với việc quân đội Serbia chuẩn bị một cuộc xâm lược. Sự lo lắng của Paddy trở nên có căn cứ hơn khi vào cuối năm 1998, tình báo của chúng tôi đưa ra những bằng chứng rõ ràng rằng Milosevic chuẩn bị phê duyệt một cuộc tấn công của quân Serbia. Từ nhiều tháng trước đó, hàng trăm nghìn dân thường đã buộc phải di dời và khoảng 2 nghìn người đã bị sát hại.
Tháng Mười năm 1998, một hiệp ước tạm thời được ký kết và một số dân thường đã trở về nhà dưới sự bảo đảm của cộng đồng quốc tế. Nhưng kể từ đó, việc di dời và giết chóc vẫn tiếp tục diễn ra.
Đây là một cuộc thanh trừng sắc tộc. Hơn thế, nó còn xảy ra ngay trên biên giới châu Âu. Trong hai tháng đầu năm 1999, cộng đồng quốc tế đã bắt đầu có những động thái can thiệp. Một hội nghị được tổ chức tại Rambouillet, Pháp nhằm nỗ lực đạt tới một thỏa thuận. Các nghị quyết được thông qua; nhiều tuyên bố được được đưa ra nhằm kịch liệt phản đối các động cơ và hàng động không thể chấp nhận của Milosevic. Nhưng giết chóc và thanh trừng vẫn tiếp tục diễn ra. Ngày 15 tháng Một tại Racak, một làng nhỏ ở Kosovo, 45 thường dân bị hành hình. Những lời lên án được gửi đi chỉ khiến cuộc thanh trừng trở nên khốc liệt và tàn bạo hơn, hàng nghìn người đã bị sát hại.
Cuối cùng vào tháng Ba, các hành động quân sự được tiến hành dưới hình thức các cuộc tập kích của NATO chống lại lực lượng Milosevic. Sự việc còn tiếp diễn cho đến tận tháng Sáu năm 1999, khi lực lượng của Milosevic rút lui trong tán loạn do lo sợ phải đối phó với bộ binh – ít nhất là từ Anh và Mỹ, dẫn đến sự suy giảm quyền lực của ông ta và sau đó ông ta buộc phải thoái vị. Khoảng 750 nghìn người tị nạn được hồi hương.
Cuộc xung đột Kosovo dạy cho tôi nhiều điều, về Chính phủ, về bộ máy lãnh đạo, về bản thân mình. Giờ đây khi đọc lại các tài liệu và suy ngẫm về sự việc lúc đó, tôi hoàn toàn cảm thấy thán phục. Nó đã thay đổi thái độ của tôi về chính sách đối ngoại.
Nhiều vấn đề nảy sinh. Thứ nhất, động thái đầu tiên của cộng đồng quốc tế là hành động – không còn nghi ngờ gì – nhưng trong khuôn khổ rất nhỏ hẹp; và nếu có thể, họ còn tập hợp bất cứ hành động nào để giảm nhẹ vấn đề. Đó là mong muốn xoa dịu chứ không phải giải quyết.
Thứ hai, ngay từ đầu tôi đã vô cùng thẳng thắn trong việc vận động một giải pháp quân sự. Giờ nhìn lại toàn bộ quá trình, tôi hoàn toàn cương quyết muốn có một giải pháp chứ không đơn thuần là hành động xoa dịu. Điều đó khiến nhiều đồng minh của chúng tôi tức giận và cả hệ thống sửng sốt.
Thứ ba, điểm mạnh và điểm yếu của châu Âu trong những hoàn cảnh này là: Giỏi đưa ra những tuyên ngôn hành động nhưng để chúng bốc hơi và để lại những hậu quả rõ ràng. Toàn bộ sự kiện này làm tôi tin chắc rằng chúng tôi cần một bộ máy lãnh đạo mạnh mẽ cho khu vực châu Âu và cho một chiến lược phòng thủ châu Âu phù hợp.
Ngoài ra, tôi đặt sức ép lên mối quan hệ cá nhân giữa tôi với Bill Clinton. Điều đó nói lên rất nhiều về ông và ông thật tốt vì đã cho phép tôi tạo sức ép cho ông. Điều đó cũng nói lên rất nhiều về nước Mỹ và về sự sẵn sàng của quốc gia này trong những thời điểm cấp thiết hy khi phải chấp nhận sự cần thiết của thời cơ và hành động.
Kosovo là một vấn đề rất khó khăn đối với nước Mỹ. Không giống những cuộc xung đột tại Afghanistan và Iraq sau này, Mỹ không nhận được nhiều lợi ích trực tiếp từ quốc gia này. Công chúng và giới chính trị gia đều dửng dưng với việc phải thực thi các hành động trong cuộc xung đột này chứ chưa nói đến việc phải đưa bộ binh vào. Quan điểm của Mỹ ít nhiều cũng cho rằng đây là vấn đề của châu Âu, trên biên giới châu Âu, cách Mỹ hàng nghìn dặm; do đó, châu Âu cần tập trung ý chí để đối phó với vấn đề này.
Khi thảo luận với các quan chức và giới quân đội của chúng tôi, tôi nhanh chóng nhận ra rằng không thể giải quyết vấn đề chỉ bằng ngoại giao và quân sự là điều cần thiết. Tiếp theo là thất bại của chúng tôi trong việc can thiệp vào Bosnia và thảm họa Sarajevo. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Milosevic không cảm nhận được ý chí của phương Tây trong việc đưa ra những hành động mạnh tay. Thay vào đó, ông ta tin rằng mình có thể làm bất cứ điều gì, nếu muốn. Vì thế, tôi nhận được lời khuyên rằng nếu không có ít nhất một lời đe dọa quân sự đáng kể thì không có mấy triển vọng ngăn chặn thảm cảnh bạo lực và áp bức. Kể cả như thế, ông ta cũng vẫn sẽ thử quyết tâm của chúng tôi và xem liệu chúng tôi có đưa lực lượng quân sự của mình vào như tuyên bố không.
Từ đầu tháng Một, tôi cố gắng gây dựng một kế hoạch đồng thuận về hành động. Về cơ bản, chiến lược của tôi là tạo nên một tập hợp các lời tuyên bố mạnh mẽ và duy trì các cuộc đàm phán ngoại giao, nhưng cũng chỉ rõ rằng nếu những biện pháp trên thất bại, chúng tôi sẵn sàng hành động.
Vì sao tôi lại quyết tâm hành động đến thế? Theo cá nhân tôi thì cơ bản là vấn đề về đạo đức. Và ở một khía cạnh nào đó, điều đó định hình quan điểm của tôi về các động thái can thiệp ngoại giao và quân sự. Tôi cũng thấy đó là một hành động làm sáng tỏ lợi ích quốc gia, vì tôi tin rằng nếu chúng ta để vấn đề lây lan hoặc cho phép các cuộc thanh trừng sắc tộc diễn ra, chúng sẽ lan ra toàn châu Âu.
Tuy nhiên, động lực cơ bản của tôi là cảm giác phẫn nộ trước những gì đang diễn ra. Đó là những dân thường, bị đuổi khỏi nhà và biến thành dân tị nạn, bị giết, hãm hiếp, đánh đập tàn nhẫn, cả gia đình bị làm nhục hoặc bị sát hại. Lạy Chúa, chẳng nhẽ chúng ta chưa học được gì từ lịch sử châu Âu sao? Điều đó thật kinh hoàng. Và theo một cách nào đó, thậm chí nó còn tàn nhẫn hơn ở một vài nơi khác trên thế giới,
Sau này, khi tôi đến thăm các trại tị nạn ở Macedonia, lắng nghe những câu chuyện thương tâm và thống khổ ở đó, tôi cảm thấy thật tự hào về những việc chúng tôi đã làm. Những người tị nạn này sẽ được trở về nhà. Nhưng tôi cũng cảm thấy không thoải mái khi nhận ra chúng tôi đã suýt nữa không bao giờ cho họ cơ hội đó.
Giờ chúng tôi nhìn lại và hầu hết mọi người sẽ nói: Đương nhiên chúng tôi không thể cướp mất cơ hội đó của họ mặc dù chúng tôi gần như đã làm như thế. Không phải bởi các chính trị gia do dự khi ấy là những người xấu hoặc có năng lực lãnh đạo tồi, mà bởi họ không cảm nhận được nhiều như tôi về những nỗi thống khổ của người dân và sự bạo tàn ở trại tị nạn đó. Vào đầu năm 1999, khi chúng tôi tìm ra giải pháp, thì mọi sự lại không hề đơn giản. Kosovo là một phần của Serbia. Serbia có lực lượng quân đội nổi tiếng thiện chiến. Phát động chiến tranh thì dễ, nhưng kết thúc nó thì rất khó. Hàng ngàn người vô tội bị sát hại. Những hậu quả khôn lường xảy ra. Những tình huống xấu có thể sẽ trở nên càng ngày càng tồi tệ. Chỉ đến khi sự việc xảy ra thì người ta mới vỡ lẽ và thông suốt, các hậu quả để lại nói lên tất cả, nhưng như thế là quá muộn – đó là điều làm khó các nhà lãnh đạo.
Qua sự kiện Kosovo, tôi nhận thấy rằng trong một bối cảnh không chắc chắn, cách duy nhất để tìm ra phương hướng là phải hỏi những câu hỏi đạo đức như: Điều đó có được phép xảy ra hay không? Chế độ này có nên tiếp tục hay không? Những người này có nên tiếp tục chịu đựng bất công không?
Nếu câu trả lời là không thì cũng không có nghĩa là bạn tìm ngay đến giải pháp quân sự. Bạn cần thử tất cả mọi biện pháp thay thế khác trước. Bạn cần hỏi xem liệu những hành động đó có khả thi và thực tế không. Mọi người thường nói với tôi rằng nếu ông dẹp lũ bất lương ở Sierra Leone, Milosevic, Taliban và Saddam, tại sao ông không dẹp bỏ Mugabe? Tôi trả lời rằng mình rất mong muốn làm điều đó, nhưng tình huống này không thực tế (vì trong trường hợp của Mugabe với những lý do tôi chẳng bao giờ hiểu thấu được, thì các quốc gia châu Phi lân cận luôn duy trì sự ủng hộ ông ta và sẽ phản đối bất cứ hành động cứng rắn nào).
Hỏi và trả lời một câu hỏi đạo đức không dẫn ngay đến một giải pháp quân sự, nhưng nó tạo ra một khuôn khổ cho phép làm như vậy. Và đó là cấu trúc có một điểm khởi đầu hoàn toàn khác biệt với các chính sách ngoại giao truyền thống, vậy liệu điều đó có phải vì lợi ích quốc gia không?
Đương nhiên, luận điểm lớn hơn của tôi – dựa vào lý thuyết về sự phụ thuộc toàn cầu – là câu hỏi đạo đức này là một phần của lợi ích quốc gia. Nhưng xét về lịch sử, một luận điểm lớn như vậy là không đáng tin. Nếu biện minh một chút, nó được cho là giống như việc lãnh đạo dẫn đến sự nhiệt thành và những tiêu chuẩn phán xét chủ quan chứ không khách quan, dẫn đến việc lãnh đạo bằng trái tim thay vì khối óc. Tôi có phần đồng tình với quan điểm này. Quan điểm đối lập với quan điểm của tôi không phải là sản phẩm của sự khiếm khuyết về đạo đức. Nó được sinh ra từ sự dè dặt hoàn toàn tự nhiên về những hệ quả không lường trước của các hành động can thiệp có động lực đạo đức. Tôi không chê trách sự hạn chế về đạo đức của loại quan điểm như thế, nhưng tôi muốn nói rằng chính sách không can thiệp cũng để lại những hệ quả khó lường. Chính sách không can thiệp đối với Bosnia những năm đầu thập niên 1990 có vẻ là khôn ngoan vào thời điểm đó. Nhưng khi nhìn nhận lại, nó không hề khôn ngoan chút nào. Chính sách này dẫn tới việc Milosevic tin rằng ông ta có thể chạy thoát với chiến dịch Kosovo.
Giữa năm 1991 và 1992, Milosevic đã theo đuổi chính sách thanh trừng sắc tộc. Ông ta tổ chức và thực hiện chính sách này với sự tàn bạo của lực lượng quân đội quốc gia Nam Tư. Hai trăm nghìn người Bosnia bị sát hại và một con số tương đương bị thương trên tổng số 4 triệu dân. Hãm hiếp và cướp bóc diễn ra trên diện rộng. Thật khó có thể tin rằng những hành vi này lại diễn ra ở một quốc gia tương đối phát triển vào cuối thế kỷ XX. Liên Hợp Quốc cũng bó tay. Khi cuộc chiến nổ ra, lực lượng Liên Hợp Quốc ở Sarajevo rút đi và phó mặc người dân cho số phận. Hậu quả là 12 nghìn người ở khu vực này đã thiệt mạng. Hàng nghìn người khác ở Croatia chết và hàng trăm nghìn người bị mất nhà. Ngay cả khi hòa bình đã được lập lại, Milosevic vẫn không phải trả giá cho những hành động tội ác của ông ta, nghĩa là hòa bình chỉ xoa dịu chứ chưa giải quyết vấn đề. Đầu năm 1999, trong khi nỗ lực tìm kiếm giải pháp, tôi nhận thức rằng sự miễn cưỡng đã hình thành nên thái độ điển hình của chúng tôi những năm đầu thập kỷ 1990 vẫn đang hiện diện.
Tôi làm việc với hai nhóm: Những người Mỹ và những người châu Âu. Với châu Âu, chủ yếu là Jacques Chirac và Gerhard Schroeder, trong đó có cả Thủ tướng Ý Massimo D’Alema bởi nước Ý rất gần gũi với cuộc chiến, tôi cố gắng khơi gợi sự quan tâm và cũng thúc đẩy suy nghĩ rằng việc từ chối giải quyết vấn đề này sẽ chỉ mang lại những rắc rối lớn hơn. Rất nhanh sau đó, họ sẵn sàng bày tỏ sự ghê tởm, đúng với những gì đang diễn ra và yêu cầu phải dừng những hành động đẫm máu đó, nhưng lại không thống nhất được về việc bất cứ hành động đe dọa quân sự nào và cũng thẳng thừng loại bỏ khả năng sử dụng bộ binh.
Một cách tự nhiên, đó là một chiếc thuật thương lượng hoàn toàn vô vọng đối với Milosevic. Ngay từ đầu, nó đã báo hiệu rằng sự nghiêm túc trong ý định hành động của chúng tôi cũng có giới hạn; và rằng nếu có thể chịu được một cuộc không kích thì ông ta có thể trụ lại. Thật kinh ngạc khi người ta liên tục không hiểu được rằng bất cứ sự đe dọa nào trên chính trường quốc tế cũng là đáng tin cả. Việc thiếu vắng niềm tin như thế chỉ làm tăng nguy cơ đối đầu. Những kẻ bị đe dọa không tin vào lời cảnh báo và vẫn tiếp diễn hành động. Khi đó, lựa chọn mà bạn cố gắng né tránh – chiến tranh hay không chiến tranh – trở thành lựa chọn bắt buộc. Tôi đã chứng kiến điều này nhiều lần và chuẩn bị chứng kiến cùng một sự kiện đáng buồn tại Iran. Dùng một lời đe dọa đáng tin để nhấn mạnh một yêu cầu và yêu cầu đó có triển vọng được thực thi. Nếu bạn không chắc chắn về việc yêu cầu của bạn được đáp ứng hay không thì việc đối đầu là không tránh khỏi.
Như vậy, có thể nói tôi bị cô lập ở phía châu Âu. Thực tế, Gerhard có những mối bận tâm nội bộ thực sự và đặc biệt là những lo ngại của nước Đức về việc tham gia vào các hoạt động quân sự vì những lý do đã rõ ràng. Nước Đức phải kiềm chế việc sử dụng vũ lực dưới những thể chế và nền chính trị trong nước. Nhưng cùng với thời gian, ông ấy ngày càng nhấn mạnh rằng không nên sử dụng bộ binh ở bất cứ hoàn cảnh nào, không chỉ lực lượng bộ binh của Đức mà của bất kỳ nước nào. Đó là vết rạn đầu tiên trong mối quan hệ giữa tôi và ông ấy. Tôi hiểu vấn đề của ông, nhưng là một người thông minh, ông ấy chắc chắn có thể nhìn thấy vấn đề của chúng tôi: Nếu tình hình cho thấy chỉ bộ binh mới có tác dụng trong hoàn cảnh này thì hoặc chúng tôi sử dụng lực lượng này, hoặc chúng tôi không thể làm gì được. Hàng trăm nghìn người tị nạn đã quay trở về Kosovo vào mùa hè và mùa thu năm 1998 với lời hứa của chúng tôi rằng chúng tôi sẽ không cho phép việc thanh trừng sắc tộc tái diễn.
Khi chúng tôi bắt đầu các cuộc thảo luận chuẩn bị cho một cuộc tấn công của liên quân NATO, thì một vấn để trở nên vô cùng rõ ràng: Ngay cả nếu chúng tôi chỉ tấn công bằng không quân thì 85% thiết bị sử dụng sẽ do phía Mỹ cung cấp. Sự thật là nếu không có Mỹ tham chiến thì hãy quên việc này đi, sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Đó là toàn bộ sự bất lực của châu Âu.
Tôi bắt đầu liên hệ với Bill Clinton về khả năng tấn công quân sự, không chỉ bằng không quân mà còn bằng bộ binh nếu cần thiết. Quan hệ giữa tôi và ông ấy vốn đã gần gũi từ trước và là những người bạn tâm giao trong chính trị. Chúng tôi chia sẻ khá nhiều luận điểm phân tích về những yếu kém của nền chính trị cấp tiến và đều có tư tưởng đổi mới mạnh mẽ. Chúng tôi đều có phong cách giản dị và trông trẻ hơn tuổi thật. Chúng tôi cũng rất dễ gần. Nhưng khi nhìn sâu hơn vào vấn đề, bạn sẽ thấy chúng tôi cũng cần phải có rất nhiều đá hóa cương để tạo nên cái nền tảng chung ấy.
Ông là chính trị gia đáng gờm nhất mà tôi từng phải đương đầu. Năng lực phi thường trên chính trường khiến người ta không nhận ra ông cũng là một người có suy nghĩ sâu sắc, với một triết lý và chương trình chính trị rõ ràng và thông suốt. Những lời đồn thổi mà ông phải chịu đựng là hiểu lầm về khả năng đắc cử của ông. Về phương diện này, một lần nữa, lại có những tương đồng với tình huống khó khăn của Đảng Lao động mới.
Triết lý trung hòa mà chúng tôi ủng hộ không chia tách rõ ràng cánh tả và cánh hữu. Nó cũng không phải là mẫu số chung nhỏ nhất của chủ nghĩa dân túy. Nó là một nỗ lực thực sự, nhất quán và rất thành công nhằm định nghĩa lại nền chính trị cấp tiến: Để giải phóng nó khỏi những hệ tư tưởng lỗi thời; để áp dụng những giá trị của nó vào một thế giới mới; để cải cách vai trò của Chính phủ và Nhà nước; và để tạo ra mối quan hệ hiện đại giữa trách nhiệm của công dân và trách nhiệm của xã hội. Đó là tinh thần dành cho “cần câu” chứ không cho “con cá” trong lĩnh vực phúc lợi xã hội, là cơ hội và trách nhiệm tạo dựng nền tảng của một xã hội vững mạnh. Đó là cách vượt ra trạng thái Nhà nước nhỏ và hệ tư tưởng “không có vai trò cho xã hội” của phe Cộng Hòa; cũng là cách vượt ra trạng thái Nhà nước lớn, hệ tư tưởng kinh doanh thù địch của nền tảng Dân Chủ truyền thống. Chính chúng tôi nên là những nhà quản lý kinh tế giỏi, những người hiểu về tội phạm, những người được truyền cảm hứng và cảm thông với nó.
Bill hoàn toàn thoái lui khỏi nền chính trị liên minh cầu vồng rất được một phần cánh tả ủng hộ vào thời điểm đó. Trong bài phát biểu nổi tiếng của ông chống lại những nhà hoạt động da đen, những người vẫn đi rao giảng lòng thù địch với người da trắng, ông nói thẳng với họ rằng ông sẽ không ủng hộ điều đó, không bao giờ thay đổi hình ảnh của phái dân chủ thành hình ảnh của những người mắc nợ một thiểu số cấp tiến.
Dần dần, giới cánh tả tạo ra một huyền thoại huy hoàng rằng mọi người bỏ phiếu cho Bill bởi ông là người điều hành chính trị vô cùng thông minh; và đương nhiên một phần không nhỏ giới cảnh hữu cũng tham gia vào điệp khúc này. Thực tế, mọi người bỏ phiếu cho ông bởi họ thông minh. Họ không cần một chính trị gia bóng bảy; họ cần một chương trình khôn ngoan, hiện đại, hiệu quả dựa trên một triết lý phù hợp với thời đại.
Ngay cả về mặt nhân cách, chúng tôi cũng ít khác biệt hơn mọi người nghĩ. Nhưng trong những hoạt động chính trị có tầm ảnh hưởng, tôi vẫn lắng nghe ý kiến của các bậc thầy trong khi Bill lại tự quyết định mọi việc. Sự thông thái vượt bậc của ông thường được che giấu sau phong thái bình thản. Ông cũng có khả năng phân tích đáng kinh ngạc và thực sự quan tâm tới các cuộc tranh luận về chính sách – mà đôi lúc còn quan tâm hơi thái quá – và thường xuyên tìm kiếm các ý tưởng mới.
Clinton là người nhanh trí. Nếu tham gia các phiên điều trần Thủ tướng, hẳn ông đã tỏa sáng. Khi tới thăm ông ở Phòng Bầu dục năm 1996, ngay trước thềm chiến dịch bầu cử của tôi và đợt tái bầu cử của ông, chúng tôi đã ngồi đó và tôi cảm thấy vô cùng kính nể ông; cũng như các bạn, tôi hy vọng buổi gặp gỡ sẽ không diễn ra chóng vánh quá (“Blair bị mất mặt”), cầu mong nó sẽ vượt quá thời gian hạn định (“Blair được chào đón”), nhưng dù cách nào thì cũng mong sao cuộc gặp gỡ không phải là thảm họa. Neil Kinnock, nhà lãnh đạo Đảng Lao động trong chuyến thăm Washington dưới thời Ronald Reagan đã gây tổn hại to lớn bằng cả nội dung cuộc họp (Reagan nói thẳng ra rằng chính sách giải trừ hạt nhân đơn phương của Đảng Lao động thật điên rồ) và bằng việc Reagan nhầm Denis Healey, người đi cùng Neil trong vai trò Ngoại trưởng của Nội các Đối lập, là Đại sứ Anh. Tôi vừa thấy hồi hộp khi được có mặt ở đó, vừa thấy nhẹ nhõm khi cuộc họp kết thúc. Bill đã hết sức niềm nở và hoan nghênh sự có mặt của tôi, cuộc họp thực sự đã vượt quá thời gian dự kiến.
Bill không định tổ chức một cuộc họp báo lớn – và việc tổ chức một cuộc họp báo lớn với nhà lãnh đạo phe đối lập của Anh cũng là không thích hợp – nhưng ông có phát biểu (mà không cần có sự chuẩn bị trước) trong Phòng Bầu dục, vây quanh là giới báo chí xếp hàng chụp ảnh. Khi chúng tôi ngồi đó và các máy ảnh chớp liên tục, thì một ai đó (tôi nghĩ là Peter Riddell của tờ Times) đã hỏi Clinton rằng ông có nghĩ mình đang ngồi cạnh vị Thủ tướng tiếp theo của nước Anh không. Một câu hỏi khó. Nếu nói: “Đó không phải là câu hỏi dành cho tôi” thì thật lạnh lùng, còn nói “Có” thì thật là một câu trả lời không tưởng về mặt ngoại giao. Phản ứng rất nhanh, Bill trả lời: “Thực ra tôi chỉ hy vọng ông ấy đang ngồi cạnh vị tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ”.
Ông cũng có khả năng linh hoạt mà ít ai sánh kịp. Khi bạn nghĩ về những gì Bill phải trải qua trong thời kỳ xảy ra hàng loạt các lời cáo buộc, bạn sẽ phải ngồi xuống. Quá nhiều việc. Ông đã và có thể vượt qua sóng gió đó như thế nào? Vậy mà ông đã làm được và từ nhiệm với tỷ lệ ủng hộ lên đến 60%.
Ông đã làm được điều đó trước hết vì ông không cho phép sóng gió chi phối quan điểm của mình trên cương vị Tổng thống, ngay cả khi nó thực sự đã chi phối quan điểm của giới truyền thông. Đây là lúc mà khả năng mềm dẻo và linh hoạt đóng vai trò quan trọng đối với thành công và sinh tồn của ông. Ông thường nói với tôi rằng mình thức dậy mỗi ngày với quyết tâm thực hiện việc lãnh đạo. Khi họ nhắc đến câu chuyện về Monika Lewinsky, ông nói về việc khởi động kế hoạch chăm sóc y tế. Khi họ đào sâu về khả năng ông không thể tiếp tục tại nhiệm, thì ông vẫn nắm giữ vị trí ấy và thúc đẩy một chương trình phúc lợi mới. Bất chấp mọi điều họ làm nhằm bôi nhọ hay hạ bệ ông, ông vẫn tiếp tục thực hiện tất cả những gì có thể vì mọi người. Ông chỉ đơn giản là đứng dậy và bước qua sóng gió.
Lý do thứ hai là, như tôi đã gợi mở ở trên, công chúng luôn nhìn đời sống tình dục của các chính trị gia một cách con người và cẩn trọng hơn so với sự cuồng nhiệt thái quá của giới truyền thông. Họ hiểu, họ nhấn mạnh và đến một mức nào đó, họ tha thứ. Điều đó không có nghĩa là họ ủng hộ, nhưng sự phản đối của họ khá hòa nhã. Mức độ thất vọng của họ có giới hạn, bởi họ biết rằng chính họ cũng đã, đang và có thể vấp ngã, cũng mắc sai lầm và cũng cần sự tha thứ. Trong khi một số người quan niệm rằng các chính trị gia không có gì đáng trách trong vấn đề này thì một số khác nghĩ rằng có những thước đo quan trọng hơn để đánh giá các nhà lãnh đạo, ví như: Họ có đang cống hiến hết mình vì lợi ích của đất nước không?
Vì thế ngay cả khi Bill “không nói sự thật”, họ vẫn hiểu đó là vì ông không muốn làm xấu mặt gia đình mình. Và những kẻ hãm hại ông đã quá tay mà thành thất bại, để rồi cuối cùng chính họ cũng bị đưa ra trước vành móng ngựa của công luận, như ông vậy. Tôi cũng tin rằng hành vi của ông xuất phát một phần từ sự quan tâm và tò mò hơn mức bình thường của ông đối với mọi người. Đối với đàn ông, điều đó thể hiện bằng tình bạn. Đối với phụ nữ, rất có thể liên quan đến yếu tố tình dục. Và như thế, tôi không cho rằng ông quá khác biệt so với phần lớn những người đàn ông khác.
Ông có thể điềm tĩnh một cách phi thường trước những vấn đề “nước sôi lửa bỏng”. Vô cùng tình cờ, tôi có thời gian bên ông trong giai đoạn xảy ra hàng loạt sóng gió. Lần đầu tiên, tháng Hai năm 1998, phần chính của câu chuyện Monica Lenwisky bị tiết lộ và lúc đó tôi đang ở tại Nhà Trắng. Chúng tôi phải dự một cuộc họp báo. Khi đứng trong phòng lớn, chờ đợi đằng sau tấm màn để bước ra, thì chúng tôi đã trò chuyện phiếm. Tôi hơi hồi hộp. Không một giây phút nào tôi lại không nghĩ tới việc sẽ đứng hẳn về phía Bill. Ông ấy là một người đàn ông mẫu mực, một Tổng thống hết lòng vì trách nhiệm của mình đối với đất nước và trên tất cả là một người bạn của tôi. Tôi rất, thậm chí là quá mức, chân thành với bạn bè.
Đó là một trong những thời khắc lạ lùng trong chính trị. Tại các buổi họp báo, luôn có một chủ đề được đưa ra – thực ra trong trường hợp này, dù bạn có tin hay không, thì chủ đề là về Saddam và vũ khí giết người hàng loạt của ông ta. Saddam lại tiếp tục cản trở quá trình điều tra của các thanh tra viên và cộng đồng quốc tế đang chính thức vào cuộc. Chúng tôi nghĩ khả năng tập kích quân sự hoàn toàn có thể xảy ra. Đó là một vấn đề mang tính sống còn nghiêm trọng. Nhưng rồi giới truyền thông lại muốn hướng về một sự việc khác: Monica. Lúc này mọi sự đã rõ ràng: Vấn đề nào mới gây quan tâm nhiều hơn.
Ngay trước khi chúng tôi bước lên sân khấu, Rahm Emanuel, lúc đó là cố vấn cấp cao của Bill nói với chúng tôi rằng: “Đừng rối lên thế!”. Chúng tôi không hề rối. Bill là một người đứng đắn. Tôi ủng hộ ông ấy. Căn cứ vào hoàn cảnh thì chắc chắn đó sẽ là một thắng lợi.
Sau này, một sự kiện khác đã xảy ra: Trong cuộc hội thảo về chính trị cấp tiến ôn hòa, nơi Bill và tôi sẽ cùng phát biểu với Tổng thống Bulgaria (một người đàn ông đáng mến tên là Petar Stoyanov) và Romano Prodi (một sự xếp đặt kỳ lạ) thì các băng ghi âm cuộc phỏng vấn Starr được tiết lộ. Sự việc được bàn tán khắp nơi. Sức ép đè nặng lên Bill và những lời công kích đều có chủ ý. Đối thủ của ông đánh hơi thấy sự việc và lao vào mổ xẻ chúng.
Sau đó, hóa ra các cuộn băng ghi âm không gây sốc như mong đợi, nhưng ngày hôm đó kỳ lạ hơn lần sóng gió trước, khi tôi bước vào phòng chuẩn bị hội thảo, Bill và Hilary dẫn tôi đến một văn phòng nhỏ để cùng trao đổi. Đó là nơi tôi được chứng kiến ý chí và tinh thần mạnh mẽ của Hilary. Nếu tôi đã từng băn khoăn bà ấy quan trọng như thế nào đối với thành công của Bill thì giờ phút đó là lúc tôi biết câu trả lời. Bà tức giận và bị tổn thương còn nhiều hơn cả Bill – điều đó là rõ ràng – nhưng không bao giờ bà ấy cho phép điều đó hủy hoại những thứ mà bà và Bill đã gây dựng nên. Nếu có ai đó được quyền tức giận với Bill thì người đó chỉ có thể là Hilary.
Mọi người thường hỏi tôi về quan hệ giữa họ. Nhiều người, trong đó có cả các nhà lãnh đạo, thường cho rằng cuộc hôn nhân của họ không phải là một cuộc hôn nhân dễ chịu, mà mang tính liên minh chính trị; và rằng chính điều đó đã ràng buộc họ với nhau, bất chấp mọi điều tiếng khác. Còn tôi vẫn thường trả lời họ rằng: “Các anh có biết tôi nghĩ cuộc hôn nhân này là vì điều gì không? Là vì họ yêu nhau.” Đó là sự tiết lộ chân thật nhất. Vâng, đó cũng có thể là một liên minh chính trị, nền móng của nó là những tham vọng chung, nhưng khi tất cả được nói ra và thực hiện, tham vọng là mái hiên để tình yêu đích thực trú ngụ chứ không phải tình yêu là nơi trú ngụ của tham vọng.
Tôi không biết phải nói điều gì khi ba người chúng tôi ngồi lại bên nhau. Hilary giải thích từ tốn và dứt khoát: Sự việc này không thể loại bỏ anh ấy được. Anh ấy sẽ ở lại, chiến đấu và chiến thắng. Chúng tôi nói về tất cả những chuyện đó trong một khoảng thời gian ngắn trước khi quay lại để thực hiện cuộc hội thảo. Đương nhiên Bill đã rất hoạt ngôn, hấp dẫn và bình thản. Tôi ngồi đó, nhiều lúc kinh ngạc đến sững sờ và thực sự ngưỡng mộ sự gan dạ ấy.
Sau hôm đó, Bill và tôi tới một cuộc hội thảo được tổ chức cho học sinh trường Trung học phổ thông Montgomery Blair ở ngoại ô Washington. Chúng tôi sẽ phát biểu về chính sách giáo dục. Khi tới nơi, chúng tôi thấy có hàng nghìn học sinh đã tập trung trong phòng thể thao của trường. Khung cảnh rất giống một cuộc diễu hành: Các em học sinh náo nhiệt, dậm chân và hát. Chúng tôi phát biểu như dự định và khuấy đảo đám đông như hai ông hoàng phòng hòa nhạc. Bill được chào đón nhiệt liệt và điều đó làm tinh thần ông thoải mái hơn rất nhiều.
Khoảng thời gian này, tháng Chín năm 1998, Kosovo trở thành vấn đề được quan tâm nhiều nhất. Đến đầu năm 1999, tôi đã tìm ra những yếu tố thành công cần thiết và nhận ra rằng tất cả phụ thuộc vào mối quan hệ của tôi với Bill. Nếu có thể thuyết phục ông, chúng tôi còn có cơ hội. Nếu không, phía châu Âu sẽ không bao giờ có động thái gì và chúng tôi sẽ lặp lại sai lầm ở Bosnia.
Khoảng thời gian từ tháng Một đến tháng Hai năm 1999, giữa tôi và Bill thường xuyên có những cuộc trao đổi. Cuộc tấn công ngoại giao vẫn tiếp tục, nhưng cuộc tấn công của Milosevic nhằm vào những người Hồi giáo Kosovo cũng đang tiếp diễn. Bản mô tả các tội ác tàn bạo – Racak là nơi khốc liệt nhất, nhưng cũng còn vô số địa điểm khác – khiến ai cũng phải rùng mình. Điều đó thật kinh khủng: Một nhóm dân thường bị chôn sống chỉ vì họ thuộc về một tôn giáo khác. Lãnh đạo của người Kosovo, Ibrahim Rugova, đến gặp tôi. Ông ấy có dáng người dong dỏng cao, tiều tụy vì đang phải chống chọi với căn bệnh ung thư vòm họng quái ác. Ông ấy cầu xin sự giúp đỡ với lời thỉnh cầu tha thiết: “Bọn họ đang giết chết chúng tôi”. Ông ấy đưa tôi một tặng vật nhỏ, một chiếc vòng Kosovo pha lê màu tím và trắng. “Tôi muốn tặng ông món quà nhỏ này”, ông ấy giải thích và đặt món quà vào bàn tay tôi. Tôi vẫn luôn để nó ở trên bàn trong phòng nghỉ của mình ở phố Downing.
Bill và tôi đồng ý sẽ thông qua NATO để tiến hành các hoạt động không kích. Ban đầu, mặc dù tôi còn khá chần chừ và nghi ngại, nhưng tất cả đều chắc chắn là sẽ không sử dụng bộ binh. Nếu không tuyên bố trước như vậy, sẽ chẳng có một cuộc không kích nào. Bởi vậy, tôi nghĩ việc đồng ý với tuyên bố này cũng đáng và sẽ tìm cách điều chỉnh sau.
Mọi sự chuẩn bị được tiến hành. Đột nhiên vào cuối tháng Ba, quá trình trục xuất, thanh trừng và sát hại người Hồi giáo Kosovo được đấy nhanh. Milosevic đang đẩy nhanh chiến dịch vốn đã được dự đoán trước. Điều đó buộc chúng tôi phải hành động. Các cuộc không kích bắt đầu, máy bay Anh tham chiến. Tôi phát biểu ở Nghị viện và chúng tôi giành được sự ủng hộ rộng rãi trong các đảng. Paddy, mặc dù đã thông báo hồi tháng Một rằng sẽ từ chức khỏi vị trí lãnh đạo phe Dân chủ Tự do, vẫn đang tại nhiệm và nhiệt liệt ủng hộ chúng tôi. Ông ấy cũng gửi cho tôi một bức điện ngắn cảnh báo rằng cần phải có bộ binh tham chiến.
Tôi phát động một chiến dịch quân sự toàn diện vì về cơ bản, sự kiện Kosovo đã cho thấy một chiến dịch không quân đơn thuần chống lại kẻ địch ngoan cố và cảm tử thường có những hạn chế căn bản và để lại hậu quả không thể cứu vãn. Chiến dịch không kích rất dữ dội và có khả năng gây ra những thiệt hại đáng kể, nó làm suy yếu cơ sở hạ tầng của kẻ địch và làm mất tinh thần của cả quân đội lẫn dân thường. Không kích có thể cầm chân, chặn đứng và hạn chế quân thù – nhưng nó không thể đánh đuổi một đội quân vốn đã ngoan cố giữ đất và lại sẵn sàng cầm cự và đón nhận thất bại.
Ban đầu mục tiêu rất nhiều nhưng với công nghệ và vũ khí hiện đại, những mục tiêu này nhanh chóng bị loại bỏ. Dần dần, các mục tiêu ngày càng lẫn với khu vực dân cư. “Thương vong ngoài dự tính” – một thuật ngữ tôi đã cố cấm mọi người sử dụng – ngày càng tăng, còn đạn pháo nhắm sai một vài mục tiêu. (Trong trường hợp này, không chỉ là thường dân mà còn là Đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade.) Quân thù chịu tổn hại, nhưng chúng không bị lật đổ. Cảm giác chán nản đối với một chiến dịch thuần không kích tăng lên, cảm giác bất công cũng thế, ít nhất là ở các quốc gia phương Tây. “Máy bay đối đầu với binh lính” là không công bằng. Tất cả làm gia tăng sức ép lên các nhà lãnh đạo. Nếu bạn không cẩn thận, kẻ thù sẽ tự cho mình là nạn nhân trong cuộc chiến.
Trong với trường hợp này, điều tồi tệ hơn là sau một vài ngày, chính NATO lại bộc lộ những hạn chế nghiêm trọng trong việc tiến hành một chiến dịch như thế. Chúng tôi có một quy trình phê chuẩn hội đồng phức tạp đến nực cười và khó tả để phê duyệt các mục tiêu. Điều đó thường gây chậm trễ trong quá trình ra quyết định. Wes Clark, Chỉ huy Liên quân Tối cao châu Âu phụ trách các chiến dịch quân sự của NATO, là một người tốt, nhiệt thành, tâm huyết, nhưng lại không hề có những nền tảng truyền thông cần thiết mà một chiến dịch như thế này cần có để chiếm lĩnh mặt bằng tin tức thế giới. Javier Solana, Tổng Thư ký NATO cũng thuộc nhóm cán bộ cao cấp, nhưng bị mắc kẹt giữa những quan điểm khác nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao hơn.
Tóm lại, tại thời điểm đó đã có hàng trăm nghìn người tị nạn dọc biên giới, tràn ngập trong các quốc gia láng giềng quanh đó, nhất là Macedonia. Sau hai tuần, tôi nghĩ là đã quá đủ. Mọi việc không thể tiếp diễn như thế, nếu không nó sẽ trở thành một thảm họa.
Lúc đó, tôi đã đưa ra một quyết định rõ ràng. Mới cầm quyền được 18 tháng, nhưng tôi đã suy ngẫm về việc có thể sẽ phải ra đi. Tôi nói chuyện với Alastair và Jonathan, sau đó gọi cho đội ngũ thân cận của mình. Tôi nói rằng mình chấp nhận mất quyền lãnh đạo vì sự kiện này, nhưng phải sẵn sàng mạo hiểm tất cả. Chúng ta sẽ phải đối đầu nhiều hơn, xông pha hơn, giữ vị trí dẫn đầu và dám hy sinh tất cả để chiến thắng. Sự đáp trả gần đây của quân địch trước cơn phẫn nộ của chúng ta thật thảm hại. Chúng ta phải cố gằng kiềm tỏa chúng và tôi sẽ sử dụng triệt để mối quan hệ với Tổng thống Clinton để đưa bộ binh vào kế hoạch tác chiến.
Đội ngũ của tôi luôn tỏ ra tuyệt vời trong những khoảnh khắc như vậy. Một vài trong số họ nghĩ rằng có chút kỳ lạ khi một Chính phủ vốn cam kết sẽ thay đổi các dịch vụ công và cắt giảm tỷ lệ thất nghiệp của nước Anh lại đặt cược sự tồn vong của mình vào một cuộc phiêu lưu quân sự ở Balkans. Nhưng họ đều bắt tay ngay vào thực hiện nó.
Trước tiên, tôi liên hệ với NATO và nói chuyện với Wes và Javier. Trước sự ngạc nhiên của tôi, thay vì nổi giận với lời đề nghị, họ lại chào đón nó với thái độ cởi mở. Chúng tôi tới NATO. Tôi đi cùng Alastair, không phải để anh ấy hỗ trợ cho các cuộc họp báo của tôi mà là của họ. Tôi nhớ lại lần gặp mặt Wes ở văn phòng của ông ấy. Đột nhiên điện thoại của ông đổ chuông. Đó là một nhà báo hỏi về chiến dịch. Ông ấy trao đổi ngắn gọn rồi quay trở lại cuộc trò chuyện với chúng tôi. “Những việc như thế có thường xảy ra không?” tôi hỏi. “Ồ, luôn thế đấy” ông đáp. Ông có thể rất giỏi về quân sự, nhưng lại hoàn toàn thất bại bởi thiếu vắng sự gắn kết và nhất quán chính trị cần thiết. Ông ấy cảnh báo tôi theo cách mà tôi nghĩ là vì lịch sự và nhã nhặn. Theo ông, tôi không nên cho rằng tất cả các nhà lãnh đạo đều chia sẻ cùng quan điểm với tôi. Alastair bắt tay vào việc “phù phép”, tạo ra một nền tảng truyền thông thích hợp. Wes nói Alastair nên trông chừng tôi. Wes thật tốt bụng khi nói ra điều đó, nhưng tôi đã biết rằng mình hoàn toàn được một mình.
Sau đó, tôi nói chuyện với các tướng lĩnh, đặc biệt là vị tướng nhân từ người Đức phụ trách chiến dịch không kích. Các vị tướng, trong đó có Tướng Rupert Smith rất giỏi của chúng tôi, đều đồng lòng: chúng ta không thể chiến thắng chỉ bằng không kích.
Paddy tới Balkans một lần nữa, quay trở về và cho tôi biết rằng chúng tôi đã thất bại. Sau 30 ngày, chúng tôi vẫn chưa thể ngăn Milosevic làm bất cứ điều gì ông ta muốn nhằm chống lại những người Kosovo. Số lượng người tị nạn đang tăng lên, các mục tiêu dần thu hẹp. Thủ tướng Macedonia gửi cho tôi một thông điệp qua Paddy: “Người dân của tôi đang hoảng sợ vì họ nghĩ NATO có một kế hoạch bí mật mà họ không được biết. Tôi còn hoảng sợ hơn bởi tôi biết NATO chẳng có một kế hoạch nào cả”.
Tôi tiếp tục thảo luận với Tổng thống Clinton, sau đó gửi đi một bức thư cá nhân ngắn. Tôi đề xuất các kế hoạch để điều phối chiến dịch tốt hơn, thay đổi các quy trình thủ tục thông qua mục tiêu, thay đổi cả những chiến dịch truyền thông.
Một tuần sau, tôi gửi một bức thư ngắn khác, đồng thời cũng tới thăm một trong các trại tị nạn. Cho dù các cuộc viếng thăm bề ngoài chỉ mang tính xã giao nhưng nhờ chúng mà tôi đã có thể nói chuyện với các cấp chính quyền cao hơn. Trong bức thư thứ hai, tôi xem xét lại cuộc đàm thoại vào đêm trước của chúng tôi, cuộc gọi mà một lần nữa tôi đã đưa ra ý kiến sử dụng bộ binh. Không ngạc nhiên, Bill nhắc lại tất cả các lý do phản đối, cho dù chỉ là việc lên kế hoạch thực hiện, bởi kế hoạch chắc chắn sẽ rò rỉ ra ngoài. Trong bức thư, tôi nhấn mạnh yêu cầu phải bắt đầu chuẩn bị hậu cần từ bây giờ, bởi nếu không, mọi chuyện sẽ quá muộn khi mùa đông đến. Mà một chiến dịch bộ binh phải mất hàng tháng trời để triển khai.
Sau đó, tôi xem xét kỹ tương quan lực lượng và nghiên cứu tình hình quân đội của mình. Bộ trưởng Quốc phòng, Charles Guthrie, là người tôi rất yêu mến, tôn trọng và tin tưởng. Ông là người có cùng quan điểm với tôi và cũng cho rằng nếu cần một cuộc tấn công bộ binh, thì chúng tôi cần phải yêu cầu huy động 50 nghìn quân Anh, còn phía Mỹ cung cấp 100 nghìn đến 150 nghìn. Tôi rất rõ về vấn đề này, nếu không có bất kỳ quốc gia châu Âu nào khác cùng tham chiến, chúng tôi sẽ phải dựa vào người Mỹ. Không có gì là vô lý nếu họ nói: Xem nào, các ông hăm hở như thế thì các ông đã chuẩn bị những gì để duy trì chiến dịch về lâu dài? Ngay cả Charles cũng phải nhíu mày. Đó là một canh bạc quá mạo hiểm. Và Gordon, một lần nữa, không hề vô lý khi đặt câu hỏi về chi phí.
Các cuộc không kích tiếp diễn, nhưng mỗi ngày trôi qua, sự kỳ quặc của việc từ chối sử dụng bộ binh càng trở nên rõ rệt. Đương nhiên, số lượng quân nhân cần dùng khiến ai cũng phải ngỡ ngàng. Nhưng đó là điều thật thú vị về nghệ thuật lãnh đạo. Đó là những quyết định vạch rõ sự khác biệt giữa bạn và những người khác. Đó là những quyết định mang tính phân loại. Đó là điểm làm nên tầm cỡ của nghệ thuật chỉ huy cấp cao.
Tại sao tôi nói vậy? Bạn có một mục tiêu chiến lược. Cứ cho là bạn quyết tâm giành được nó. Bạn vấp phải chướng ngại vật. Cái giá phải trả để loại bỏ chướng ngại vật này có thể là rất lớn. Bất cứ ai không ngồi trên ghế lãnh đạo đều có thể bàn tán về sự vụ. Chi phí quá cao, một người nói; mục tiêu là quan trọng, người thứ hai nói; lợi bất cập hại, người thứ ba đáp lại. Nhà lãnh đạo phải quyết định liệu mục tiêu có xứng với chi phí bỏ ra không. Hơn thế, người đó phải đưa ra được quyết định khi không chắc chắn về phí tổn chính xác, hoặc thiệt hại chính xác của việc không đạt được mục tiêu. Cả hai điều đó phải được cân nhắc và đo đếm bằng một loại khoa học không chính xác. Những ai không ngồi trên ghế nóng có thể nghiêng về phí tổn hoặc chi phí, nhưng họ không bị buộc phải quyết định yếu tố nào quan trọng hơn. Trách nhiệm của họ có thể rất lớn, nhưng không phải là tối cao bởi trách nhiệm tối cao nằm trong tay người lãnh đạo.
Trong hoàn cảnh này, không quyết định cũng là một quyết định. Không hành động cũng là một hành động. Lựa chọn hay từ bỏ đều có những hệ quả của nó.
Vì thế, một cuộc chiến bộ binh ở Balkans thì sao? Anh có điên không? Nhưng nếu lựa chọn thay thế là chiến thắng về phần Milosevic thì cái gì sẽ định giá hòa bình cho một khư vực rộng lớn hơn? Cái gì sẽ định giá độ tin cậy của NATO? Cái gì sẽ định giá sự răn đe đối với những kẻ độc tài?
Bởi thế, cho dù cái giá phải trả có cao đến đâu, quyết định của tôi vẫn là cái giá cho việc để Milosevic chiến thắng vẻ vang là không thể chấp nhận được. Vì thế, nếu cách duy nhất để tránh được cái giá đó là một chiến dịch bộ binh thì chúng ta buộc phải làm điều đó.
Tuy nhiên, có thể nói đó là quan điểm thiểu số.
Tại thời điểm chuyển giao giữa tháng Tư và tháng Năm, nỗi lo lắng của tôi lại tăng gấp đôi. Bao trùm trụ sở đầu não của NATO tại Brussels là sự bức bối. Chúng tôi có ít nhất một trường hợp nghiêm túc để khai thác và đang khai thác nó. Nhưng thực tế vẫn vậy: Milosevic vẫn ở đó, không có dấu hiệu cho thấy ông ta chuẩn bị rút quân. Con đường ngoại giao vẫn tiếp tục, nhưng không rõ là nó có dẫn tới kết quả chấp nhận được đối với tôi hay không. Cho tới lúc đó, tôi phải tin rằng chẳng có gì ngoại trừ thất bại rõ ràng của ông ta có thể thỏa mãn tôi.
Nhưng thái độ nhiệt tình của các đồng minh châu Âu đối với một cuộc tấn công bộ binh vẫn không hề tăng lên. Ngược lại, sự phản đối vẫn cứ kiên cố như cũ. Vào ngày 18, 19 tháng Năm, tôi viết hai bức thư, một cho Tổng thống Clinton, một cho các nhà lãnh đạo đồng nhiệm quan trọng ở châu Âu.
Trong bức thư gửi cho Bill, tôi tái khẳng định về sự cần thiết phải chuẩn bị cho một cuộc tấn công bộ binh. Tôi đề nghị huy động một lực lượng khoảng 150 nghìn binh lính với một nửa từ châu Âu và một nửa từ Anh. Đó là một đề xuất khá táo bạo bởi tôi không có lý do để tin rằng châu Âu sẽ góp quân, ngoại trừ nước Anh. Nhưng tôi cũng cược là nếu Mỹ tham gia, phía châu Âu sẽ xấu hổ mà phải ủng hộ, nhất là nếu người Anh đưa nhiều binh lính nhất.
Tôi cũng cố gắng chỉnh sửa đề xuất đã được Massimo D’Alema đưa ra trong 48 tiếng tạm ngừng ném bom. Mục đích của đề xuất là xem xét khả năng nhượng bộ của Milosevic. Tôi thực sự lo lắng rằng nếu chúng tôi chấp nhận đề xuất này một cách đơn giản thì Milosevic sẽ có được chính xác cái ông ta muốn. Vì thế, tôi gợi ý là cùng với đợt tạm ngừng ném bom, cần có một nghị quyết của Hội đồng Bảo an (một số dấu hiệu cho thấy Nga có thể ủng hộ nghị quyết này nếu tạm ngừng ném bom) nhằm cảnh cáo Milosevic: Tiếp tục hay là dừng lại; và nếu ông ta bác bỏ, nghị quyết sẽ ngay lập tức tái thiết lập triển vọng về một cuộc tấn công bộ binh.
Bức thư gửi cho Bill thể hiện sự hối tiếc về việc tiếp tục gây sức ép về vấn đề huy động lực lượng bộ binh, nhưng tôi vẫn kiên trì về sự cần thiết phải đối mặt với vấn đề. Milosevic vẫn đang chịu đựng hình phạt, nhưng việc nhắm trúng mục tiêu ngày càng trở nên khó khăn. Một đoàn xe chở dân thường đã bị đánh trúng, khiến chiến dịch của chúng tôi bị chỉ trích nhiều hơn. Tôi có thể thấy sự việc này sẽ dẫn đến đâu, mà tôi muốn tránh một thỏa hiệp rối rắm bằng mọi giá.
Với nguyên thủ các quốc gia châu Âu, tôi đã trình bày rõ rằng: Kết quả cuối cùng sẽ là “NATO không được thua” hay sẽ là “NATO không được phép sử dụng bộ binh?” Nếu câu trả lời là lựa chọn đầu tiên, sao chúng ta có thể loại bỏ khả năng sử dụng bộ binh trong khi các lời khuyên quân sự đều nhất trí rằng chúng ta không thể chiến thắng chỉ bằng các cuộc không kích?
Tôi củng cố lý lẽ của hai bức th