← Quay lại trang sách

Chương 11 Sự Ủy Thác Cho Đảng Lao Động Mới.

Kỳ bầu cử 2001 là một trò chơi quái lạ và rời rạc. Kết quả đã rõ ràng: Lại một kỳ thắng lợi áp đảo của phe đa số. Cỗ máy chính trị kết cấu tốt và được bôi trơn dầu mỡ của chúng tôi hoạt động một cách dễ dàng – hoặc chỉ với vẻ bề ngoài – qua mặt cỗ máy giải mật Heath Robinson giả mạo: Đảng Bảo thủ. Và có thể vì sự dễ dàng đó mà kỳ bầu cử 2001 diễn ra trong quái lạ và rời rạc.

Tôi học được hai điều từ chiến dịch tranh cử này. Thứ nhất, càng ngày truyền thông báo giới chẳng có hứng thú gì với các chính sách cả, trừ phi là một chính sách nào đó gây ra tranh cãi vừa rõ ràng và vừa có ảnh hưởng lớn. Thứ hai là câu chuyện giữa TB và GB chẳng bao giờ có được một kết cục tốt đẹp, ít nhất là trong khoảng thời gian tôi làm Thủ tướng.

Cơn khủng hoảng bệnh dịch lở mồm long móng đang đi vào giai đoạn cuối. Không phải do chúng tôi tìm ra cách kiểm soát bệnh dịch này hoàn toàn hay do gia súc mắc bệnh bị tiêu hủy hết mà chỉ là do nó tự yếu dần đi. Chúng tôi kiểm soát được nó và nó không làm ảnh hưởng gì đến kỳ bầu cử. Quyết định dừng bầu cử lại một tháng là đúng đắn. Tuy nhiên, các cử tri và cả các chính khách có ý kiến cho rằng cần phải kiểm tra lại sự ủy trị của Chính phủ.

Tôi gọt giũa bản tuyên ngôn tranh cử năm 2001 rất cẩn thận và chi tiết. Tôi đã quyết định rằng chúng tôi đã và đang phạm lỗi vì quá cẩn thận và đến bây giờ phải liều lĩnh và táo bạo hơn. Tôi cũng học được nhiều về Chính phủ của mình và trên hết, tôi học được rằng nguy cơ không phải là chương trình nghị sự nào đó mà cả hệ thống chính trị đang dung dưỡng một cách bí mật mà chính là sự trì trệ. Chúng tôi đã quan sát, làm việc và trải nghiệm khiến mọi thứ dần trở nên tốt đẹp hơn và triệt để hơn.

Tôi hiểu ra rằng những cải tổ về các dịch vụ công cần một sự thay đổi mang tính cơ cấu bao gồm cả sự hợp tác gần gũi hơn nữa với các thành phần tư nhân. Tôi đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng luật và những hình thức pháp quy là tù nhân của hệ thống luật hình sự và tố tụng hình sự – những thứ mà đơn giản đã không còn thức thời với bản chất của xã hội thế kỷ XXI cũng như các loại tội phạm và các hình thức phạm tội. Tôi muốn một sự tập trung vào các vấn đề khoa học, công nghệ và các doanh nghiệp nhỏ để hình thành nên một phần của chính sách công nghiệp và doanh nghiệp hiện đại. Tôi đi đến kết luận rằng về vấn đề trợ cấp phúc lợi xã hội, chúng tôi phải tập trung hơn và cụ thể hơn nữa vào sự chia rẽ trong xã hội và cả mối nguy hiểm khi những gia đình trở nên lạc lõng so với dòng chảy xã hội bên ngoài. Về đồng euro, tôi vẫn gắn chặt với những thử nghiệm kinh tế trong khi hội nhập, nhưng tôi muốn tạo ra một trường hợp chính trị thực sự rõ ràng; và nếu các nền kinh tế có thể phát triển ngang nhau, tôi sẽ sẵn sàng trưng cầu dân ý cho việc sử dụng đồng tiền chung châu Âu.

Vì vậy, tôi vừa vui vừa không vui với bản nghị sự. Một trường hợp ngoại lệ đó là vấn đề cải cách đại học và học phí – chương trình mà tôi đã rút lui mặc dù đã có cam kết rõ ràng bởi vì vẫn tồn đọng những điểm khác biệt chính sách quan trọng trong Đảng và tất nhiên trong cả Bộ Tài chính. Tuy nhiên, nhìn chung, nó vẫn đánh dấu một vị trí rõ ràng và trọn vẹn của Đảng Lao động.

Chiến dịch tranh cử bắt đầu một cách lạ kỳ và luôn như thế đến tận khi kết thúc. Chúng tôi quyết định không tranh cử theo cách truyền thống cũ rích với hình ảnh mấy vị chính khách chỉn chu trong những bộ comple ngồi trong các phòng hội nghị nữa mà thay vào đó là cuộc vận động được diễn ra ở một trường học để nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục trong nhiệm kỳ thứ hai. Tôi đến thăm một trường trung học dòng của của nhà thờ St Saviour và St Olave, nằm ở Southwark phía Nam London để gặp gỡ các em học sinh, dự giờ một vài lớp học và sau đó chúng tôi tham dự một cuộc họp. Vì đây là trường dòng nên trước khi phát biểu, các thầy trò ở đây đã biểu diễn một số bài thánh ca. Khoảng khắc đó thật đáng nhớ: Tôi đứng trước một cửa sổ kính mờ, ca hát và cầu nguyện. Sau đó tôi diễn thuyết, trình bày lý do vì sao chúng ta không thể quay về thời kỳ bùng nổ của những năm do Đảng Bảo thủ lãnh đạo. Khán giả toàn là những em học sinh nữ hầu hết chưa đến tuổi bầu cử. Ngay khi bắt đầu, tôi thấy thật buồn cười vì cái sự ngu ngốc và lố bịch này. Tuy vậy, tôi vẫn cứ tiếp tụ trước sự kinh ngạc của các em học sinh và cả sự xấu hổ của bản thân, tôi kết thúc vội vã và rời đi nhanh nhất có thể.

Buổi nói chuyện đó quả thực không phù hợp và có một làn sóng phản đối nổi lên. Anji và Kate Garvey rất giỏi trong việc tổ chức những việc đó và thực sự có năng lực. Tuy vậy, đây là lần duy nhất bộ máy ưu việt của chúng tôi phải làm đủ thứ để vụ việc chìm xuồng. Về phía trường học không có vấn đề gì, bởi vì thầy hiệu trưởng đã chịu hết búa rìu dư luận khi dám cho phép buổi diễn thuyết đó.

Một phần, chúng tôi là nạn nhân của “thần thoại” do chính mình tạo ra. Tất cả mọi người đều nghĩ đó là một hành động lỗi lạc. Chà, hẳn là phải thế chứ? Rốt cuộc, chúng tôi chỉ là những ông vua quay sợi, blah blah blah.

Tuy nhiên, tại sao chúng tôi lại nghĩ việc phải đưa ra một “phong cách mới” là điều cần thiết? Người ta cho rằng các chính trị gia phải liên tục tìm kiếm những cách thức trình bày tốt hơn bởi họ thường bỏ qua thành công của bài thuyết trình để đạt được mong muốn của mình. Thực ra, chính trị gia chỉ đối phó với thực trạng, chứ không tạo ra nó.

Một chính trị gia bậc trung hạnh phúc nhất khi nói về các chính sách. Họ thích làm vậy và tôi cũng thế. Tôi có thể dành hàng giờ để nói về về mặt tích cực và tiêu cực của chính sách cải cách giáo dục hay y tế. Tôi thực sự thấy thích thú trước hệ thống luật pháp về tội phạm hình sự và sự tranh luận cũng như cân bằng giữa quyền tự do công dân và việc thực thi pháp luật hiệu quả. Một trong những lời đồn đáng bàn cãi nhất về các chính trị gia là họ có vai trò của những người dẫn chương trình đối thoại truyền hình, những người mà phải học về chính sách; thông thường hơn, họ là những người nắm quyền sinh sát các chính sách phải học cách trở thành người dẫn chương trình đối thoại truyền hình.

Bởi vì giới truyền thông thường đặc biệt quan tâm tới những tin giật gân, các vụ bê bối và đụng độ, nên các chính trị gia phải tìm thêm nhiều phương tiện và chiến thuật để thu hút được sự quan tâm. Tôi đi đến một kết luận đáng buồn thông qua chiến dịch năm 2001 rằng điều tốt nhất tôi có thể hy vọng nằm bên dưới sức sáng tạo quảng bá có tốc độ tên lửa hay bên dưới tình tiết của một câu chuyện, chúng tôi có thể rút ra được một chính sách nào đó. Nhưng chưa bao giờ có bất kỳ một cơ hội nào đưa chính sách giữ vai trò trung tâm.

Khi một chính quyền đang trải qua những tháng ngày đầu tiên mới được thành lập và có một vài chính sách đánh dấu sự phá vỡ tôn chỉ của chính quyền trước đó, thì chính sách đó có thể được công bố, có thể được lắng nghe và thực thi. Nhưng dần dần khi chương trình nghị sự trở nên quen thuộc − thậm chí nếu những chính sách thực sự mới mẻ − thì sự quan tâm cũng mờ nhạt dần và rất nhanh chóng, một cảm giác “trước đây chúng tôi đã nghe điều này rồi” xâm chiếm hoàn cảnh.

Để công bằng với giới truyền thông, phải công nhận sự tồn tại của những tình huống khó khăn khi Đảng Bảo thủ không thực sự gắn kết, trừ vấn đề về châu Âu. Nhưng ngay cả thế, thái độ đó của họ cũng làm mất nhuệ khí và nó có nghĩa rằng khi chúng tôi cố gắng, như trong bài nói ở trường học và khoe mẽ, thì nó chỉ cho phép họ khẳng định trước công luận rằng chúng tôi thực sự chỉ đang cưỡi ngựa xem hoa. Nhưng chúng tôi biết chắc rằng nếu mình tiến hành một cuộc bầu cử chung theo quy củ, nó cũng chẳng đi đến đâu cả.

Trong suốt chiến dịch, với những cuộc bỏ phiếu thăm dò đã cho thấy chúng tôi dẫn trước dao động trong khoảng 10 đến 20 điểm. Sau cuộc mit-tinh của đảng ở Croydon, tôi nhận một cuộc gọi từ Bill Clinton khi đang ở trong phòng khách sạn. Tôi rùng mình khi nhận ra ông ta có thể “đọc vị” được tôi từ cách đó vài nghìn kilômét.

“Tôi chỉ gọi xem anh thế nào,” ông ta nói.

“Tôi rất ổn”, tôi trả lời.

“Không, tôi biết anh đang thấy thế nào”, ông ta nói. Sau đó, ông ta giải thích cho tôi nghe tại sao trong chiến dịch năm 1996 chống lại Bob Dole, ông ấy đã nắm chắc phần thắng trong tay. Tất cả những gì chiến dịch đó làm, ông ta nói, chỉ là khiến giới truyền thông phát cuồng lên và công chúng nghĩ rằng đó là sự kiện nhất định giành thắng lợi. Ông ấy biết rằng vào lúc này tôi có thể đang nản lòng và lo sợ rằng công chúng sẽ phản ứng chống lại nó.

“OK, anh nói đúng”, tôi nói. “Thế câu trả lời là gì?”

Câu trả lời, ông ta nói tiếp, là phải dốc sức cho chiến dịch như thể đó là trận chiến sống còn, để thể hiện cho mọi người biết lòng nhiệt huyết của anh, anh đã chuẩn bị kĩ càng như thế nào và anh biết ơn từng lá phiếu cuối cùng mà mình sắp được nhận ra sao. “Hãy cho họ biết anh đang rất mong chờ sự ủy thác của họ và càng dẫn trước trong các cuộc thăm dò, thì anh càng cần phải tỏ ra nhiệt huyết.”

Đây là một lời khuyên thấu tình đạt lý vì thế tôi đã áp dụng nó. Từ đó trở đi, tôi đã không quan tâm Đảng Bảo thủ tệ như thế nào, tôi chỉ đấu đá, tranh chấp và dấn lên từng bước như thể mạng sống của tôi phụ thuộc vào từng lá phiếu. Điều đó không làm thay đổi tâm trạng giới truyền thông và có trời mà biết nó có làm thay đổi kết quả cuối cùng hay không, nhưng nó đem lại cho tôi năng lượng và đem lại cho đảng động lực.

Chiến dịch của Đảng Bảo thủ thực sự rất đê tiện. Tôi chóng mặt vì William Hague. Ông ta thực sự là một nhà hùng biện xuất chúng, một trí tuệ phi thường và một khả năng lập luận bậc cao. Có rất nhiều điều giá trị trong con người ông ta và về ông ta. Tôi nghĩ ông ta có một năng lực lãnh đạo tuyệt đối. Trong những hoàn cảnh khác và ở một thời điểm khác, ông ta có thể đã – và rất có khả năng vẫn đang là – một lãnh đạo tuyệt vời và thậm chí một Thủ tướng.

Tuy nhiên, khi nghe ông ta nói, tôi tự hỏi liệu người ta có thể quá coi trọng câu chữ không. Khả năng sử dụng từ ngữ và khiếu hài hước; năng lực thêu dệt tính tự cao tự đại một cách thông minh và sự minh họa hóm hỉnh gây cười mà ông ta đã phát triển quá nhiều trong đầu, khiến ông ta quên hẳn việc tập trung vào mục đích chính mà sự tự cao và hóm hỉnh đó được sử dụng. Cuối cùng, mặc dù ông ta thường hạ nhục đối thủ, nhưng thường hiếm khi có thể đánh bại họ trong tranh luận.

Tôi không thể khinh địch ông ta được bởi vì ông ta khá “cao tay” Đảng Bảo thủ đã bước đầu đưa chiến dịch của họ ở châu Âu vào thực thi theo một cách khó lý giải. Có đủ dẫn chứng truyền thông và kết quả bỏ phiếu trưng cầu dân ý hoàn hảo cho một chiến thuật như vậy: Kết quả bỏ phiếu cho thấy chính sách của Đảng Bảo thủ được ưa chuộng hơn của chúng tôi rất nhiều; tờ Murdoch, tờ Mail và tờ Telegraph đều có quan điểm chuộng châu Âu và vì thế mạnh mẽ ủng hộ quan điểm của Đảng Bảo thủ. Vấn đề ở chỗ, những thành viên Bảo Thủ cấp cao như Ken Clarke lại phản đối chiến thuật đó và vụ việc có nguy cơ gây chia rẽ đảng sâu sắc. Hơn nữa, khi chủ nghĩa hoài nghi châu Âu vẫn còn có thể chịu đựng được, như thường vẫn xảy ra với những vụ việc như thế, thì xuất hiện những người muốn chiếm một vị trí vốn đã nằm trên ranh giới của sự tôn trọng và đẩy ra xa ranh giới đó. Vị thế lãnh đạo cho họ quyền hạn đi xa hơn và tiến tới nơi ý kiến dư luận về châu Âu không thể được đoán định hoàn toàn bằng cách tham khảo các cuộc bỏ phiếu thăm dò. Nếu được hỏi, đúng là họ ủng hộ Đảng Bảo thủ về vấn đề đó, nhưng điều này không bao giờ quyết định kết quả bầu cử. Đó không phải đặc quyền của họ, vì thế sự tập trung của Đảng Bảo thủ vào nó đã “tặng” cho các đảng viên của đảng này một cái nhìn hiếu kỳ, phiến diện vốn có thể khiến công chúng nghĩ rằng, chà, có lẽ họ chưa sẵn sàng để nắm chính quyền. Một khi suy nghĩ đó chiếm ưu thế, cuộc bầu sẽ đi đến hồi kết.

Rõ ràng, điều quan trọng duy nhất là chúng tôi phải tránh được một sai lầm nghiêm trọng. Tất nhiên, giới truyền thông cũng biết điều đó và cố gắng tìm cách buộc chúng tôi mắc sai lầm. Chúng tôi đã tạo lập thông điệp thiết thực: Nhiều điều đã được thực hiện; nhiều điều đang chờ đợi phía trước; nhiều điều phải mất đi. Rất đơn giản. Không ai có thể phủ nhận nền kinh tế đang vững mạnh và tiền bạc đang bắt đầu chảy vào các trường học và bệnh viện (mặc dù cam kết duy trì thắt chặt chi tiêu trong hai năm đầu đã gây ra một số bất cập − quyết định đó là đúng đắn nhưng đã khống chế chúng tôi rất nhiều). Và đó là nhiệm kỳ đầu tiên; chắc chắn chúng tôi cần có thêm cơ hội hoàn thành những gì mình đã khởi xướng. Ký ức về Đảng Bảo thủ vẫn còn đủ tươi mới để câu “còn nhiều thứ để mất” vẫn giữ nguyên được tiếng vang.

Một cách tự nhiên, tôi muốn một chiến dịch được đẩy nhanh hơn, một chiến dịch có thể chuyển cả đất nước ra ngoài những lựa chọn của quá khứ, ra ngoài chủ nghĩa Thatcher theo một nghĩa nào đó. Trong một bài nói chuyện của tôi trong khi cuộc bầu cử đang diễn ra, tôi đã nêu rõ những trục trặc của chủ nghĩa Thatcher, đã dành quá nhiều thời gian trước đây để nhắc người ta nhớ về những điều cần phải giữ gìn.

Trên phương diện lịch sử, bà Thatcher đã nhận ra rằng khi người ta ngày càng giàu có, họ càng muốn tự do sử dụng tiền bạc theo ý thích; và họ không muốn một quốc gia lớn can thiệp vào sự giải phóng đó bằng cách bóp nghẹt người dân trong sự đồng nhất, trong sự buồn tẻ và nhàm chán của tư tưởng độc quyền Nhà nước. Rõ ràng là sự cạnh tranh đẩy cao các tiêu chuẩn và mức thuế cao là một chướng ngại.

Tuy nhiên, điểm cho thấy bà đã sai lầm và đi ngược lại dòng thủy triều của lịch sử là thái độ đối với châu Âu và lời từ chối ưng thuận sự thật rằng số đông mọi người thường xuyên phải phụ thuộc vào các dịch vụ công và sức mạnh của Chính phủ để đạt được các cơ hội mà họ cần. Chính phủ nên thay đổi; các dịch vụ công nên được cải cách; nhưng bà đã quá sa đà khi nghĩ rằng mọi thứ có thể được quy về lựa chọn cá nhân. Theo cách đó, bà là một đảng viên truyền thống của Đảng Bảo thủ, nhưng thêm vào đó là sự thiếu kiên nhẫn với bất kỳ ai chưa thành công với ý nghĩ rằng mình đã thành công rồi, tại sao những người khác vẫn chưa?

Cuối cùng, bà có quan điểm về nước Anh ở mức độ đúng đắn và cần thiết – lấy lại tinh thần can trường và tham vọng – nhưng ở một mức độ khác, lại hoàn toàn thất bại vì không tính đến sự thay đổi vị thế của nước Anh trên thế giới dựa trên dân số, kích cỡ và địa lý; và cho phép nguyện vọng được đứng trên chính đôi chân mình của người dân thiếu hụt nghiêm trọng lòng trắc ẩn dành cho những ai bị bỏ lại phía sau. Bà đã không có thích thú gì với nguồn vốn xã hội.

Tôi nhìn thấy vai trò của đảng mình là đưa nước Anh lên một giai đoạn hiện đại hóa xa hơn, tạo ra những ngành dịch vụ công và một trạng thái phúc lợi kết hợp đầu tư với cải cách để biến những dịch vụ này sâu sát tới từng cá nhân, đáp ứng nhanh được tình hình xã hội, có tính chất kinh doanh, đảm bảo được mặt phúc lợi dựa trên các trách nhiệm và quyền hạn cũng như tư cách pháp lý. Tôi cho rằng đây chính là nơi quảng đại quần chúng có chỗ đứng, nơi mặt bằng hiểu biết và nghiêm túc có thể được quy tập và nơi chúng ta có thể vạch ra một khung nghị sự là vật liệu ba chiều thiết yếu: Tham vọng cá nhân kết hợp với lòng trắc ẩn của xã hội.

Về vị trí của nước Anh trên thế giới, dường như với tôi, thì việc chúng tôi phải thiết lập quyền lực thông qua các liên minh là điều hiển nhiên. Chúng tôi có hai đồng minh tốt nhất – châu Âu và Mỹ – vậy thì tại sao lại không duy trì mối quan hệ bền vững với họ và tranh thủ sự ủng hộ đó? Lập luận này khó có thể thuyết phục số đông; nhưng sức mạnh của nó lại rất rõ ràng và mặc dù số lượng người ủng hộ ít nhưng chất lượng lại rất cao. Đặc biệt, các doanh nghiệp nắm vững vấn đề này một cách triệt để.

Tuy nhiên, kế hoạch đẩy mạnh hiện đại hóa này lại được cho là một điều hoàn toàn bất khả thi. Tôi quyết định vận dụng một loạt bài diễn thuyết về tương lai của nước Anh về từng phần khác nhau của nghị trình và từ đó cố gắng thúc đẩy một cuộc tranh luận hùng hồn về chính sách. Các bài diễn thuyết đều rất thấu đáo và chặt chẽ. Tôi đã tự tay soạn thảo phần lớn những bài này, cùng với sự giúp đỡ từ trưởng ban cố vấn chiến thuật Matthew Taylor, Andrew Adonis và David Miliband. Nhưng trong những ngày khởi động chiến dịch, thì rõ ràng đó cũng không phải là một bài trần thuật sâu sắc về những lựa chọn chính sách trong tương lai của đất nước.

Ngày chúng tôi đưa ra bản tuyên ngôn, 16 tháng Năm năm 2001, gần như là sự minh họa khôi hài của luận điểm này. Nếu các cuộc bầu cử được đánh giá dựa trên thành công của sự phát động ngày bầu cử, thắng lợi vẻ vang có thể đã thuộc về bên đối lập. Tôi nghi là nhiều điều không may, sai lầm và rủi ro hơn nữa trong chiến dịch một ngày tranh cử rất có thể xảy ra.

Chúng tôi chọn thực hiện một cuộc họp báo nghiêm túc có quy mô lớn để giới thiệu bản tuyên ngôn, trong đó các bộ trưởng chuẩn bị để miêu tả chương trình tiếp theo của Quốc hội. Tôi quyết định đưa ra giới hạn cho mọi thứ bằng cách phác họa rõ thiết kế khung của chúng tôi để đưa khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào quy trình dịch vụ công. Giới chính trị gia và cố vấn thâm niên có xu hướng xem đây như một phần của kế hoạch nhằm đổi chiều sang phải và dỗ dành giới truyền thông cánh tả. Tôi vẫn cố giải thích rằng mình thực sự tin tưởng nó – điều này tôi nghĩ đã làm tình hình trở nên tồi tệ hơn. Khi bạn nghiên cứu về hệ thống các dịch vụ công ở các quốc gia khác, tôi gần như nhận thấy các hệ thống chăm sóc sức khỏe trong đó có một sự pha lẫn giữa công và tư, hay ít nhất nó đòi hỏi một sự cam kết cá nhân nào đó và cung cấp một lựa chọn cá nhân là có hiệu quả nhất. Những hệ thống nguyên khối vừa đang trong thời kỳ thay đổi hoặc thất bại. Việc thất bại của hệ thống Mỹ nằm ở số người nghèo bị bỏ quên là đúng đắn, nhưng với những người được bao chi phí, tiêu chuẩn của sự chăm sóc và sự phục vụ nhiệt tình (cùng với những thứ thuộc hàng thứ yếu như thức ăn, môi trường sống, vv…) thường cao hơn so với một dịch vụ Nhà nước thuần túy. Rõ ràng là chúng ta có thể kết hợp giữa công bằng và hiệu suất.

Ở Mỹ, loại hình các trường học đặc cách cũng chỉ mới được khởi xướng và kết quả của các cuộc cải cách giáo dục ở Thụy Điển bắt đầu có hiệu lực, vì vậy có một loạt dẫn chứng dựa trên kinh nghiệm trên khắp thế giới về những thay đổi đang được đề xuất, bởi ai, vì mục đích gì và với thành công như thế nào.

Tất cả điều này là một lời nguyền đối với các nhóm lợi ích vốn quyết tâm duy trì nguyên hiện trạng nhưng lại chi nhiều tiền hơn; dù vậy, tôi vẫn biết rằng bất cứ người quan sát khôn ngoan và khách quan nào cũng muốn biết chúng tôi cởi mở với những ý tưởng mới, cho dù truyền thống của đảng phái nào đang chi phối đi chăng nữa.

Vì vậy, buổi ra mắt ngày 16 tháng Năm là một giờ phút trọng đại hơn vẻ ngoài của nó. Có đủ các loại chuyện sau cánh gà xoay quanh việc ai nói về vấn đề gì và vào lúc nào, có khá nhiều người khá bực tức vì tôi đã kiên quyết đòi khống chế vấn đề này, nhưng tôi chỉ muốn đảm bảo rằng mong muốn giữ ổn định sự ủy trị cấp tiến ở nhiệm kỳ thứ hai rất đơn giản và thuận theo tự nhiên. Một vài bộ trưởng, như David Blunkett và Patricia Hewitt, đã hòa chung vào tinh thần đó một cách trọn vẹn, cũng như tôi, họ cảm nhận rằng nhiệm kỳ thứ hai là vô dụng trừ phi nó đem lại bước đột phá và rằng điều này đồng nghĩa với việc chấp nhận những nguy cơ sâu xa hơn.

Nhưng, theo thường lệ, với mong ước sắp xếp vấn đề này một cách quy củ và vận hành suôn sẻ, chúng tôi vẫn còn cảm thấy nực cười về chính mình, các bộ trưởng có hai phút xuất hiện – nếu không toàn bộ sự kiện sẽ dài quá – và sau đó lui vào cánh gà. Tuy nhiên, sự kiện cũng thành công mà không có trục trặc nhiều vượt xa mong đợi của chúng tôi ngày hôm ấy.

Theo lịch trình, tôi phải đi thăm Bệnh viện Nữ hoàng Elizabeth ở Birmingham, nơi chúng tôi sẽ cắt băng khánh thành trung tâm tim mạch được dự định sẽ trở thành (và ngày nay nó đã là) một trong những trung tâm hàng đầu và tân tiến nhất ở châu Âu. Tôi đã gặp Gisela Stuart, vị Ủy viên Quốc hội địa phương xuất chúng, ở lối ra vào. Gisela là một nhân vật không bình thường ở chỗ bà là người Đức, với giọng đặc trưng của người Đức và giành được một ghế trong cơ quan địa phương ở miền Trung nước Anh – điều đã cho thấy mọi người không có nhiều định kiến như bạn vẫn nghĩ. Bà rất thông minh và có khí chất của Đảng Lao động mới. Khi chúng tôi bước vào bệnh viện, một người phụ nữ tên là Sharron Storer, người đã trở nên khá nổi tiếng sau cuộc gặp này, đã đi về phía tôi và bắt đầu “diễn thuyết” về sự đối xử mà bạn của cô ấy, một bệnh nhân ung thư, đã nhận được tại bệnh viện. Tất nhiên, việc làm này kéo theo một loạt các tranh cãi về việc anh ta có bị đối xử tồi tệ hay không, trong khi đội ngũ nhân viên bệnh viện kịch liệt phản đối, nhưng sự phản đối của họ đã bị dập tắt vì Thủ tướng đã nhận được một cú bạt tai từ một ai đó đã “nói ra sự thật” về NHS và sự kinh khủng của nó.

Đối với giới truyền thông vốn đang chán ốm với một chiến dịch mà kết quả rành rành, thì sự việc này quả là lợi lộc trời cho. Trong chớp mắt, cô ta trở thành một ngôi sao. Người ta mừng vui tột độ vì cuối cùng cỗ máy trơn tru của Đảng Lao động cũng gặp phải một người “thực”. Có một chủ đề xuyên suốt – tờ Mail thể hiện quan điểm khá gay gắt – rằng chúng tôi không những gặp những người “thực”, mà mọi thứ đã được sắp đặt như trên sân khấu. Thực ra, tôi chưa bao giờ gặp một chiến dịch nào trong một cuộc bầu cử mà không được sắp đặt như trên sân khấu (việc đó được làm tốt hay dở lại là chuyện khác). Và tất nhiên, chúng tôi đã gặp rất nhiều người.

Đây chính là vấn đề: Một người không phải là một người “thực” trừ phi họ đang la mắng một chính trị gia; trừ phi có một cảnh tượng dàn xếp; trừ phi có sự giận dữ và thái độ thô lỗ. Chỉ có một cảnh lộn xộn mới mang lại cho mẩu tin một ấn tượng tốt. Sự thật là hầu hết những người “thực” – ý tôi là những người “thực” thực sự – không cư xử theo cách đó. Hầu hết người Anh đều lịch sự. Họ lắng nghe. Họ có thể không đồng ý, nhưng thể hiện sự không đồng tình một cách lịch sự. Bạn gặp rất nhiều người như họ, nhưng họ không “thực” bởi vì họ không dễ bị kích động.

Một hiện tượng kỳ lạ nhưng rất quan trọng đang diễn ra: Ăn mừng cuộc phản đối. Ví dụ, một chính trị gia đi dự một cuộc họp mà ở đó có khoảng 1 nghìn người tham dự và một người trong số họ hét lên điều gì đó. 999 người còn lại có thể hùa theo, hay ít nhất tỏ thái độ phản đối, nhưng hầu hết mọi người không thích làm to chuyện, vì thế theo định nghĩa thì người phản đối duy nhất không điển hình.

Tôi nhớ lại chuyến thăm tới Hebron ở Palestine sau khi rời nhiệm sở, để tới Nhà thờ Hồi giáo Ibrahimi nơi người định cư Do Thái gốc New York Baruch Goldstein đã giết hại những tín đồ đạo Hồi năm 1994. Có một giọng phản đối duy nhất hét về phía tôi, người đó hóa ra là một thành viên của Hizb ut-Tahrir, một nhóm Hồi giáo bị cấm ở một số quốc gia và hoàn toàn không đại diện cho ý kiến của hầu hết người Palestine. Ngày hôm sau nó trở thành mẩu tin duy nhất về toàn bộ chuyến viếng thăm. Người phản đối đã được phỏng vấn và ý kiến của anh ta được đưa ra tranh luận và phân tích. Tất cả những lời lẽ của những người khác đều không chính thống. Không ai khác được chú ý.

Đó là sự phát triển cơ bản trong việc thông tin về chính trị hiện đại và người ta càng nhận ra nó, họ càng quyết tâm can thiệp vào nó. Hiện nay nó đã thực sự trở thành một hệ hình mà từ đó tin tức được tạo ra. Ném một thứ gì đó, truy vấn, đối mặt, gây sóng gió trên diễn đàn hoặc các phương tiện thông tin, bạn sẽ dẫn đầu trong các bản tin, do đó quan điểm của bạn trở thành chính thống. Chính trị gia kinh ngạc, tức giận, không thể trả miếng và vì thế chỉ có một người chiến thắng. Đó là lý do tại sao ngày càng có nhiều người làm việc này. Bất kỳ luận điểm nào được đưa ra trong giai đoạn căng thẳng đều có thể là một cuộc tranh luận quan điểm, không phải sự trao đổi quan điểm. Tuy nhiên đó chỉ là tin tức!

Dù sao, điều này, chứ không phải bản tuyên ngôn, rõ ràng đã chiếm ưu thế. Tôi lảo đảo đi xung quanh trung tâm tim mạch và nhận ra rằng ngày tuyên bố trọng đại đã bị xóa sổ.

Nhưng mọi thứ mới chỉ đang được hâm nóng. Sau màn giới thiệu nhanh chóng, tôi nghe tin Jack Straw vừa nhận sự ủng hộ rời rạc ở Hội nghị Liên đoàn Cảnh sát. Sau đó anh ta kể với tôi rằng đáng buồn cười ở chỗ là phản ứng của khán giả hoàn toàn tách biệt khỏi nội dung bài phát biểu của anh ta. Không một chút khinh suất, Jack đã quyết định sẽ trình bày một bài diễn thuyết khá quy củ và dứt khoát về an ninh trật tự ở giữa chiến dịch tranh cử; nhưng chẳng ai hiểu gì về nó. Anh ta rất có thể bị họ phản ứng gay gắt gấp đôi và chắc chắn sẽ la ó đuổi anh ta xuống.

Vì thế đến cuối ngày, bạn có thể nghĩ cả nước đang chống lại Chính phủ mà họ sắp bỏ phiếu với một chiến thắng thuyết phục nữa. Một phần của vấn đề khi phe đối lập trở nên vô dụng đó là công chúng cảm thấy mình bị tước đi quyền công dân. Đây chính là điều mà nhiều thành viên ở Đảng Lao động cảm thấy trong những năm tháng dưới quyền Thatcher. Đó là lý do tại sao từ sau năm 1992, Đảng Lao động bắt đầu xem xét cải cách bầu cử. Chúng tôi đã thua liền bốn kỳ bỏ phiếu. Hệ thống chắc chắn phải có vấn đề gì đó, đúng không? Tất nhiên, chúng tôi đã có lỗi. Cho nên cảm giác xa lánh này, thực ra, không được đúng mức cho lắm. Thực ra, nó còn tồi tệ hơn thế; nó không hề phi dân chủ từ trong gốc rễ. Đó không phải là cảm giác thua cuộc mà nó nên có và cố gắng phát động quá trình tái tranh cử, hay thay đổi trong các quy định.

Đây là điểm một Nhà nước tiến bộ thường được đối xử khác với một chính quyền Bảo Thủ: Phe Bảo Thủ nghĩ rằng đảng của họ thực sự nên nắm quyền, còn nếu không thì có ai đó đang gian lận. Khi Đảng Lao động không được cầm quyền trong 18 năm liền, các nỗ lực của một số nhóm (như những phần của Đảng Lao động có tổ chức trong cuộc đình công của các thợ mỏ) nhằm lật đổ kết quả của phe dân chủ đã được cho là sai trái, cho dù người ta có thông cảm thế nào với cá nhân những người thợ mỏ. Nhưng ở thời đại của chúng tôi, khi phe bên kia đang thắng thế, sự phản đối như vậy thường xuyên được phác họa hoàn toàn có căn cứ bởi những người tước quyền công dân một cách khó giải thích.

Vì vậy có sự ly gián kỳ quặc giữa ý kiến dư luận được thể hiện trong các cuộc bỏ phiếu thăm dò và ý kiến dư luận đang vật lộn dưới sự khống chế của một Chính phủ, mà để chống lại Chính phủ đó, hàng loạt các hành động gay gắt đã được áp dụng bởi vì không còn lựa chọn nào khác, bởi vì hệ thống dân chủ vì một lý do nào đó đã không làm đúng phận sự của mình. Vào những ngày cuối khi tôi còn tại chức, điều này có nghĩa là những người làm dò rỉ tài liệu của Chính phủ chẳng hạn, được đối xử như những người hùng của nhân dân thay vì bị kết tội vì đã vi phạm quyền bảo mật.

Vào ngày hôm ấy, sự tương tác giữa bên “thống trị” và bên “bị trị” đã được thể hiện một cách kỳ lạ, sống động và ấn tượng, vượt xa cả những “mơ ước” lớn lao nhất của giới truyền thông. John Prescott đang tiến hành một cuộc họp trong chiến dịch tranh cử ở Rhyl, miền Bắc xứ Wales thì có một đám đông hỗn độn những người biểu tình ở phía ngoài giễu cợt anh ta trên đường vào. Khi anh ta bước xuống giữa hai hàng người ken chặt, một gã cao lớn, với kiểu tóc mullet từ những năm 70, đã ném một quả trứng vào anh ta; John quay người lại và thụi cho hắn một cú móc trái hiểm hóc, làm gã này ngã lăn bò. Sau đó, chà, chuyện gì xảy ra thì bạn biết rồi đấy.

Tôi đang làm một chương trình truyền hình với các cử tri, khách tham dự là Jonathan Dimbleby. Alastair đã giấu tôi vụ việc xảy ra với John trước chương trình, nhưng nó lại được ghi hình ngay sau khi xảy ra và trước khi bị nêu ra trong buổi chất vấn. Sau khi tôi vào xe, mừng vì ra khỏi phòng thu mà không có vấn đề gì thực sự, Alastair nói một cách vui vẻ: Ừm, có thêm một vài tin nữa. John Prescott vừa đấm ngã một cử tri”.

Tôi đã nghe nhầm nên hỏi lại. “Ai đó đã đánh John á?” tôi hỏi. “Thật kinh khủng!”

“Không,” anh ta nói, “John mới là người đánh. Ông ta vừa đo ván một tên đô con.”

Tôi há hốc miệng kinh ngạc.

Sau đó, bắt đầu thời kỳ chiêm nghiệm, phân tích, tự kiểm điểm, hồi cố rất căng thẳng và sự hốt hoảng bao trùm lên chúng tôi khi nghĩ về những việc phải làm. Chúng tôi còn 12 giờ trước cuộc họp báo vào sáng hôm sau và lúc đó, đương nhiên chúng tôi phải có đôi lời trước những người quan tâm. Quyền Thủ tướng hạ nhục một thành viên của công chúng, cho dù là một người đã ném trứng vào anh ta, nhưng ở một mức độ nào đó, việc ấy khác thường và khá nghiêm trọng. Ở một mức độ khác, nó khác thường và hài hước.

Khi nhìn lại, tôi thấy chuyện này hài hước hơn là nghiêm trọng, nhưng tôi có thể đảm bảo với bạn là lúc đó mọi chuyện không rõ ràng như hiện tại, Nhìn nhận vấn đề dưới góc độ hài hước đem lại một góc nhìn thú vị về tầm quan trọng của bản năng trong chính trị; và cả một chút về sự cân xứng nữa, ngay cả khi tất cả sự cân xứng xung quanh bạn bị ném xuống biển hết.

Cá nhân tôi cảm thấy chuyện này thật buồn cười. Quả trứng thật buồn cười. Bộ tóc mullet thật buồn cười. Cú móc trái thật buồn cười. Những nét biểu cảm trên mặt cả hai người bọn họ thật buồn cười. Nhưng cũng không thể tránh khỏi những ý kiến trái chiều khác và một số phụ nữ đã khá lớn tiếng: Anh không thể để một quyền Thủ tướng làm một việc như thế, như thế là không đường hoàng, không xứng làm đại trượng phu. Người ta ai chả có lúc bị khó chịu, hoảng sợ, xấu hổ, vv…

Những phụ nữ miền Nam kịch liệt bảo vệ quan điểm này. Anji, ngạc nhiên làm sao, cũng nghĩ vậy, nhưng sau đó tôi tự hỏi liệu đó có phải vì Adam Boulton của tờ Sky News (người mà sau đó cô ấy kết hôn). Có thể cô ấy đã thảo luận vấn đề này với anh ta, đã giữ lập trường bảo vệ đó và được anh ta tôn lên rất cao. Bản năng của Anji thường rất tuyệt vời. Ngay cả Sally bình thường vốn chắc chắc mà còn không chắc chắn. Alastair cũng vậy, dù có thể đó là do ảnh hưởng của Fiona. Nhưng hầu hết mọi người trong các nhân viên của Đảng Lao động, phụ nữ hay nam giới, đều ủng hộ John hết mình.

Tôi quyết định ít nhất phải có một lời xin lỗi để “nhổ được cái vòi độc” ra khỏi việc này, nhún mình trước những người miền Nam nhỏ nhẹ. Vì vậy tôi gọi cho John. Tôi dịu giọng mở đầu thể hiện thái độ hối tiếc về chuyện đã xảy ra. Anh ta thật đáng sợ khi làm như vậy. Hẳn là anh phải rất sốc. Ngay lúc nước sôi lửa bỏng như thế, hành động của anh ta cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Sau khoảng năm phút để tôi nêu ra quan điểm của mình về chuyện này, John ngắt lời: “Tôi biết anh rồi,” ông ta nói, “Tôi biết anh đang suy tính thế nào. Anh muốn tôi xin lỗi.”

“Chà “ tôi bắt đầu nói.

“Này, tôi thà chết cũng không làm. Nên hãy quên việc ấy đi.”

Tôi nghiêm khắc hơn và bắt đầu kiên quyết; khi biết tôi thực sự nghiêm túc, ông ta sẵn sàng thỏa hiệp. Vì thế chúng tôi thỏa thuận vài câu cần nói và kết thúc cuộc nói chuyện.

Trên đường về nhà, tôi vẫn cảm thấy không thoải mái. Tin tức truyền thông hỗn loạn, những người theo Đảng Bảo thủ nhảy lên vui sướng trong khi Đảng Tự Do thì có lối rất “tự do”, rất cải lương. Nhưng tôi vẫn không thể buộc mình cảm thấy cần phải kết tội việc làm đó.

Tôi bước vào nhà khi Cherie vẫn ngồi chờ. “Một ngày thật dài!” tôi nói. “Trời ạ, John đã nghĩ không biết? Mọi người cho rằng như thế thật khủng khiếp,” tôi nói, dò xét thái độ của cô ấy. Cherie cố vấn của Nữ Hoàng, có qua điểm tự do và đang sống ở London.

“Ồ, đừng có lố bịch như thế,” cô ấy đáp lại. “Sao ông ta lại không được đánh hắn chứ? Người kia đã phản ứng trước mà.” Bạn thấy đấy, cô ấy cũng là một cô gái Liverpool. “Thế nếu là anh thì anh đã làm thế nào?” Cherie hỏi. “Đeo lên mặt một nụ cười và bảo anh ta đừng có làm thế nữa chắc? Anh ta đã nhận được những gì xứng đáng. John đúng là một đấng nam nhi.”

Tôi gọi cho John Burton. Anh ta và các chàng trai của mình cũng có cùng quan điểm. “Tôi nghĩ vụ ấy thật tuyệt,” John nói. Tôi đánh giá ý kiến của John rất cao. Tôi biết nhiều lãnh đạo thế giới không có phán đoán nhạy bén như John. Hơn nữa, anh ta bảo tôi rằng mấy người phụ nữ đó chỉ hùa theo tư tưởng cận Bắc. Khi tin tức đến câu lạc bộ Đảng Lao động Trimdon, tất cả mọi người đều hò reo khi nghe JP đánh anh chàng kia.

Vậy là câu chuyện đã được an bài. Tuy nhiên, câu hỏi về cách giải quyết tại cuộc họp báo thì vẫn còn đó, khi mà giới truyền thông chắc chắn đang bất bình về việc này. Tôi quyết định một điều cốt yếu cuối cùng: Không xin lỗi thêm nữa, không từ chức, không gì cả. Một vài người trong nhóm vẫn lên tiếng quan ngại, nhưng tới lúc đó thì tôi cũng đã chịu đủ rồi. Vấn đề là, bạn thực sự không thể biện hộ cho việc một quyền Thủ tướng đánh một cử tri. Mặt khác, giờ đây chúng tôi đã quyết định không kết tội hành động đó.

Chúng tôi suy nghĩ về vụ việc này rất nhiều trong lúc ngồi ở phòng chuẩn bị trước buổi họp báo. David Blunkett cũng ở đó và nhiệt liệt ủng hộ tư tưởng của John Burton.

“Vấn đề là,” cuối cùng tôi cất lời, sau khoảng một phút im lặng, “John đích thị là John. Chẳng có gì để bàn cãi cả.” Đây là chiến lược tiếp cận kiểu Eric Cantona: Bạn nói điều gì đó bí ẩn đến nỗi người ta chỉ có thể lúng túng. Vậy đó là những gì tôi đã nói.

“Ý ngài là gì khi nói: John đích thị là John?” họ hỏi.

Tôi nhún vai một cách biểu cảm: “Ý tôi John là John.”

Vậy là vụ bê bối vĩ đại đã chìm dần xuống. Quan điểm của Cherie/ John Burton cũng bắt đầu chiếm ưu thế rõ rệt. Người dân – hay ít nhất là rất nhiều người – ủng hộ quan điểm này. Một chính trị gia hành xử như người thường – chà! Sau 48 tiếng đồng hồ, khi quay về Sedgefield tôi thường xuyên được cử tri bắt chuyện, trong đó có cả những phụ nữ lớn tuổi, những người này cũng đặt câu hỏi giống hệt như Cherie. “Chà, nếu là ngài thì lúc ấy ngài đã làm gì?”. “Ngài hẳn đã không đánh anh ta đúng không?” – và họ không hề coi đó là một lời khen ngợi.

Và thế là cuộc tiến hành bỏ phiếu bắt đầu với một tuyên ngôn thừa những phác thảo nghiêm túc về chính sách cho tương lai của cả dân tộc, lại kết thúc với một “kiểu tóc mullet, một quả trứng và một cú đấm” đã nhấn chìm chính sách nghiêm túc xuống đáy của đại dương chính trị.



John Prescott thường xuyên đem đến những điều độc nhất vô nhị cho Đảng Lao động và Chính phủ. Ông ta có thể làm người khác phát điên; có thể nguy hiểm; có thể kỳ cục; và có thể tuyệt vời. Nhưng nhàm chán, tĩnh lặng, không nổi bật và mờ nhạt là những từ không bao giờ có thể được dùng để mô tả về ông ta.

Neil Kinnock một lần đã miêu tả ông ta như một người có rất nhiều mặc cảm về bản thân, điều này đúng, dù tôi thường xuyên nghĩ rằng họ bù trừ cho nhau; trong khi chỉ một mặc cảm duy nhất của Neil cũng đã phức tạp hơn rồi.

John đã mang lại điều gì cho đảng? Rất nhiều, thực sự là như vậy. Khi John Smith qua đời và một câu hỏi được đặt ra về quyền Thủ tướng mới – lúc đó việc tôi sắp thắng cử khá rõ ràng – đáp án an toàn nhất là Margaret Beckett. Bà ấy đã từng là thành viên của nhóm kinh tế trước năm 1992; bà rất có năng lực và không còn nghi ngờ gì nữa, là một đôi tay đáng tin cậy. John có thể không thể được miêu tả như vậy, nhưng ông ta mang đến một sự xác thực, một ấn tượng mạnh đối với cánh truyền thống của đảng, đặc biệt là trong phong trào của công đoàn và ở ông có một điều khác nữa mà tôi hết sức coi trọng: Trong tình huống ngặt nghèo, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể tin tưởng ông ta. Bạn không nhất thiết có thể tin tưởng ông ta trên phương diện chính sách cá nhân, hay nhìn chung là trên phương diện Đảng Lao động mới, nhưng, ví dụ, trên cơ sở về một cuộc săn hổ (liệu bạn có dám đi vào rừng sâu cùng với người này không?), thì chắc chắn ông ta sẽ vượt qua vòng loại. Tôi không chắc về Margaret. Tôi quý và tôn trọng bà ấy, nhưng nếu mọi chuyện trở nên thực sự tồi tệ, tôi không chắc liệu bà ấy có bước lên và dựng một rào thép gai bảo vệ tôi không; trong khi John, tôi nghĩ, ông ta sẽ làm thế. Tôi không bao giờ có vị trí trong một cuộc bầu cử quyền Thủ tướng. Một trong số những người thân tín nhất của tôi bỏ phiếu cho Margaret, nhưng sự thật từ việc tôi không nhường đường cho bà ta đã gửi đi một tín hiệu rằng mình có thể sống với John. Trong bất cứ sự kiện nào, ông ấy đều là lựa chọn được ưa chuộng của đảng. Họ muốn một chút âm-dương và nếu tôi thiên về “âm” thì ông ta chắc chắn là “dương”.

Giữa hai chúng tôi có một sự đối lập vô cùng lớn. Tôi là một luật sư học trường tư, được đào tạo ở Havard. Ông ta từng là một người bồi bàn trên tàu, một vị lão thành của phong trào công đoàn và rất tự hào về xuất xứ giai cấp lao động của mình. Ông ta là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất từng có vị trí rất cao trong nhiệm sở. Ngày nay, tất nhiên, John có thể không còn là John. Về mặt đó, ông ta rất giống với Dennis Skinner. Dennis là một anh chàng thực sự rất thông minh – tư duy nhanh nhạy, có khả năng nắm bắt tâm lý con người – nhưng lại được nuôi dạy trong thời đại mà những người thông minh xuất chúng thường xuyên bị hệ thống giáo dục đánh trượt, hay rơi qua những khe hở của chất lượng trường học tồi tệ và những quan điểm hẹp hòi của bố mẹ hay cộng đồng. Nhưng ơn trời theo một cách nào đó, những điều này đã dần biến mất. John trượt kỳ thi lên trung học, điều này hẳn đã có một tác động khủng khiếp lên ông và là một trong những nỗi mặc cảm lớn nhất của ông ấy. Nhưng ông thông minh một cách tự nhiên và chăm chỉ đến khó tin. Đó là lý do vì sao, cuối cùng, việc lấy một bài thi đầu vào như thế để làm căn cứ cho hệ thống các trường trung học là điều không hề khôn ngoan.

Tuy nhiên, tất cả những ngày đó đã qua và giờ John rất có thể đã có một công việc trong ngành công nghiệp hay ngành kinh tế Nhà nước trong vai trò quản lý và có thể không bao giờ đến gần một hiệp hội thương mại. Thay vào đó, ông ta là điểm nối cơ bản với một phần của gốc rễ Đảng Lao động có thể đang dần bị tiêu hủy, nhưng vẫn có tầm với và chiều sâu trong những phần chủ chốt của một ngôi rừng chính trị.

Dù trượt kỳ thi lên trung học nhưng ông vẫn thi vào trường Đại học Ruskin ở Oxford (cũng như Dennis Skinner), rất ham học và có năng lực nhiều hơn những gì ông thể hiện. Phần câu chuyện về cuộc đời ông về sau cũng làm tôi thích thú. Ông có thể bắt đầu từ một lập trường thù địch tự nhiên với bất cứ chính sách nào của Đảng Lao động mới, nhưng nếu vấn đề được tranh luận hợp lý, ông rất sẵn sàng lắng nghe; và cuối cùng, nếu nhận ra giá trị của bản đề án, ông sẽ sẵn sàng để bị thuyết phục. Điều này không có nghĩa là ông luôn luôn tán đồng với bất cứ điều gì, thường thì không và cũng khá công bằng khi nói rằng một số người xung quanh tôi bắt đầu coi ông như một cơ hội bởi vì ông là nơi tập hợp lòng người của phe đối lập trong nhu cầu đề ra cải cách.

Sau này, ông có quan hệ với Gordon và đây là một điều đáng tiếc. Gordon đã từng ủng hộ Margaret rất nhiệt tình và để bộ máy của mình làm việc cho bà ta, vì thế mối quan hệ ban đầu giữa ông và John không được suôn sẻ lắm, nhưng dần dần tôi thúc giục Gordon hòa hảo với John. “Đừng đánh giá thấp ông ta,” tôi từng nói, “và nếu anh muốn làm lãnh đạo, đừng coi ông ta là kẻ thù. Ông ta không nhất thiết có thể biến ai đó thành lãnh đạo; nhưng hoàn toàn có thể ngăn cản việc đó xảy ra.”

Gordon đã lắng nghe lời khuyên và theo tôi thì có vẻ ông ta đã theo răm rắp. Không phải bản thân John không trung thành – nhưng Gordon đã đẩy cao vị trí của chính ông ta trong công cuộc cải cách theo một cách rõ ràng là thông cảm hơn với vị trí của John; vì thế nó thay đổi chòm sao các thế lực xung quanh tôi.

John cũng có quan điểm rằng Gordon và tôi có thể thay đổi vai trò lãnh đạo cho nhau, trong đó vị trí của Gordon hơi chếch về phía trái tôi, nhưng không vì thế mà kém hấp dẫn (có thể vì thế mà còn hấp dẫn hơn). Ông ta vì thế chấp nhận ý tưởng rằng việc chuyển giao quyền lực là công bằng và đúng đắn, vì Gordon rốt cuộc cũng chỉ là một phiên bản không khác nhiều của Đảng Lao động mới. Đặc biệt, ông ta ủng hộ quan điểm rằng về vấn đề dịch vụ công và phúc lợi, chúng tôi đã tiến đủ xa trong các cải cách “thị trường”, trong khi tôi kịch liệt nghĩ rằng chúng tôi đi chưa đủ xa.

Có hai hệ quả diễn ra theo hướng này. Hệ quả thứ nhất là tôi không thể dựa vào sự ủng hộ của quyền Thủ tướng hay Đại Pháp Quan về vấn đề các học viện thành phố, việc giới thiệu những nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe mới và về điều kiện tốt hơn trong vấn đề phúc lợi xã hội. Mặc dù, cuối cùng John cũng bị thuyết phục – ông ta vẫn phủ một bài hùng biện về những thất bại của hệ thống trường phổ thông hỗn hợp truyền thống của Nhà nước ở Hull, khu vực bầu cử của ông ta – đó là một cuộc chiến và nó ngốn hàng giờ liền họp hành, thảo luận và tranh luận gay gắt.

Hệ quả thứ hai là tới cuối cùng vào năm 2006, John liên tục kích động để tôi ra đi, một phần là do những vấn đề của cá nhân ông với giới truyền thông không được suôn sẻ và một phần là vì ông thực sự không nghĩ có vấn đề gì với việc bầu cử nếu tôi rời đi và thay vào đó là Gordon. Tới lúc đó, tôi đã quyết định dù gì cũng sẽ ra đi; nhưng, không chắc liệu mình có nên chân thành và cùng hưởng lời đồn đoán chung là không ai lại tự nguyện từ bỏ căn nhà Số 10, thì ông đã nói với tôi vào mùa xuân năm 2007 rằng mình sẽ từ chức quyền Thủ tướng nếu tôi không đi. Ông không có ý cho rằng đó là cách thể hiện sự không trung thành và thật tức cười, tôi không nghĩ theo hướng đó; ông ta chỉ thành thực tin tưởng rằng Gordon trở thành lãnh đạo là vì lợi ích chung của toàn đảng.

Đã nhiều lần trong nhiều năm khi tôi cần sự hỗ trợ, ông vẫn giúp đỡ tôi với tất cả lòng nhiệt thành của mình. Ông biết rằng mình ở đó như một phanh hãm cho Đảng Lao động mới. Vì thế, ông biết rằng độ tín nhiệm của mình phụ thuộc vào khả năng thay đổi tôi và mỗi lần đi cùng tôi, ông lại hy sinh một chút tín nhiệm đó. Nhưng ông vẫn làm thế.

Về Điều khoản IV, ông đi từ chỗ nghi ngờ đến ủng hộ tích cực, bởi cuối cùng ông ấy tin rằng nó hoàn toàn đúng đắn. Một khi đã tin, ông ấy trở thành người đề xướng thay đổi kiên định nhất. Sau ngày 11 tháng Chín – thực ra là trong bất cứ giờ phút khủng hoảng nào trong chính sách đối ngoại – ông cũng luôn sát cánh với tôi, đưa ra những hỗ trợ thiết yếu vào những giờ phút mà bất kỳ sự chia rẽ nhỏ nhất nào giữa chúng tôi cũng có thể để lại những hậu quả sâu sắc.

Vậy nên nhìn tổng thể và xét đến cường độ căng thẳng và mệt mỏi khủng khiếp đè nặng lên bất cứ mối quan hệ nào về vấn đề chính trị, tôi phải nói rằng mình thật may mắn vì đã có một người ủy quyền như ông.

Là một bộ trưởng, đôi khi ông ta có thể quá nhiệt tình về quyền lực của Chính phủ, sẵn sàng can thiệp, hòa trộn quá nhiều sự quan liêu vào chính sách; nhưng ông ta cũng có rất nhiều sáng kiến và trí tưởng tượng phong phú. Ông đã đem ngành công nghiệp đường thủy quay lại với nước Anh bằng cách thuyết phục Bộ Tài chính thay đổi những luật lệ về cờ để thuận tiện hơn. Ông dẫn đầu các cuộc đàm phán ở Kyoto và giúp Anh trở thành nước duy nhất trên thế giới đáp ứng được mục đích của nghị định thư Kyoto. Ông đóng một vai trò quan trọng trong chính sách nhà ở, đã chủ trì ủy ban chính sách nhà ở để xúc tiến các dự án Giấy Trắng (White Paper) nhằm cải thiện hệ thống hoạch định chính sách. Trong 10 năm tại nhiệm của ông ta, Chính phủ đã ổn định được nhà ở bình dân cho thêm hai triệu người. Ông cũng đại diện cho nước Anh trong các chuyến công du quốc tế và chủ trì lực lượng Biệt phái Trung Quốc, dẫn đầu các hiệp ước liên ngành về thương mại và đầu tư cũng như các lĩnh vực khác. Các công chức dưới quyền ông, một khi đã quen với tính cách và nhìn thấy vẻ đẹp tiềm ẩn dưới vẻ ngoài thô ráp, đều rất quý và tôn trọng ông.

Nhược điểm của ông ta thường nằm ở điểm tận cùng rất đáng yêu của thái cực – mặc dù, một vài phụ nữ tôi biết kịch liệt bất đồng với nhận định này. Ông cực kỳ cổ hủ, không giỏi giao thiệp với kiểu phụ nữ trung lưu điển hình và dù rất thấu đáo chính sách về quyền lợi dành cho người đồng giới nhưng ông ta đã được dẫn đường bằng khối óc chứ không phải con tim. Ông ta cũng hoàn toàn “hoang tưởng” về những trí thức thông minh, trẻ và hoạt ngôn. Với những người này, ông ta như một chú lợn với một cây nấm khuy. Ông có thể cảm nhận được sự hạ mình chiếu cố, một kẻ cả hay hợm hĩnh từ cách xa hàng nghìn bước; và một khi đã phát hiện ra, ông ta sẽ tấn công với một sự ruồng bỏ đáng ngạc nhiên. Những cố vấn trẻ tuổi giống như những vạt cỏ mới xén, đã quen với lớp đất ngầm của cuộc tranh luận kiểu sinh viên và kiểu trao đổi quan điểm ôn hòa, sẽ bị theo đuổi với sự hăng hái rất thất thường cho đến khi bị buộc rời bỏ nơi ẩn náu và bị cắt thành từng mảnh. Việc này trở nên đáng báo động hơn đối với họ bởi một thực tế là họ thường xuyên hoàn toàn mù tịt chẳng hiểu tại sao mình đã gây ra sự xúc phạm lớn như thế.

Tôi thú nhận là mình thấy điều này rất khôi hài, mặc dù thực sự tôi không nên như vậy. Quay lại những năm cuối thập kỷ 1980 khi lần đầu tôi trở nên xuất chúng và được bầu cử vào Nội các Ma, John cũng thể hiện thái độ như vậy với tôi. Peter và tôi là một phần của thứ mà ông ta gọi là “bộ sưu tập người đẹp” và đó là lời xúc phạm lớn nhất mà ông ta có thể chiếu cố ban phát.

Tôi đoán điều làm cho việc đó có thể chịu đựng được, thậm chí chấp nhận được, ít nhất là với tôi, là ở chỗ mọi việc đều rất minh bạch. Dù John có thể cực kỳ xảo quyệt, nhưng việc nói ông ta “ruột để ngoài da” là một lời giảm nhẹ nghiêm trọng. Trong Nội các, ông thường xuyên ngồi như một ngọn núi nửa đang sôi sùng sục, sẵn sàng phun trào bất cứ lúc nào. Nguyên nhân có thể chấp nhận nhất của sự phun trào thường có thể là việc một trong những người phụ nữ chen ngang. Patricia Hewitt chắc chắn có thể làm ông ta thay đổi. Cô ấy, trên thực tế, là một bộ trưởng rất tài năng và tỏ ra xuất sắc ở Bộ Y tế, đưa ra những quyết định thực sự khó khăn với một quyết tâm khổng lồ, nhưng trong Nội các, cô lại thường thể hiện góc nhìn của một phụ nữ. John có thể đưa ra một nhận xét khá cộc cằn nếu đang ở trong tâm trạng không tốt. Lúc đó tôi sẽ cho gọi cô ấy quay lại, chỉ vì một chút tiêu khiển khi được chứng kiến ông ta nổ tung. Cô ấy sẽ tỏ ra kẻ cả theo lối thiếu nhạy cảm nhất có thể: “John, ông vừa đưa ra một điểm rất, rất hay và thật bõ công khi nghe ông nói.”

Ông ta đơn giản là làm tôi bật cười. Khá giống với chương trình “How do you solve a problem like Maria?” (tạm dịch: Làm cách nào mà bạn giải quyết được vấn đề như Maria) trong chương trình âm nhạc, dù sự tương đồng giữa John Prescott và Julie Andrews cũng chỉ dừng lại ở đó. Cười nhạo ông ta hay cười cùng với ông cũng như nhau. Tôi từng thường xuyên nói với ông rằng những ông phải sử dụng tiếng Anh là một phần ấn tượng về ông, nhưng ông lo lắng, cảm thấy xấu hổ về điều đó và khi nói đến những việc như bảo vệ chất vấn của các ủy viên Quốc hội, ông cảm thấy cực kỳ sợ hãi. Việc đe dọa sẽ có một cuộc họp ở nước ngoài vào ngày thứ Tư nào đó là cách duy nhất mà tôi biết để khủng bố ông; ông có thể run lên vì lo sợ điều sắp tới, nhưng lại đứng dậy và làm việc đó. Trường hợp duy nhất khiến vấn đề trở thành một rắc rối thực sự đó là khi ông đang họp với những khách nước ngoài và yêu cầu phiên dịch, ở đó cung cách phát biểu của ông làm thui chột tài năng của hầu hết các phiên dịch viên, những người có lẽ cần trị liệu và tư vấn tâm lý tổng thể sau một trong những phiên họp như thế.

Ông cũng hiểu tôi rất rõ và đặc biệt biết khi nào tôi đang cố dẫn dụ ông vào một điều gì đó, lảng tránh ông hay khi tôi đang thoái lui. Ông cực kỳ nhạy cảm khi cảm thấy vai trò của mình chưa thực sự được đề cao. Một cuộc họp có thể được triệu tập, ông sẽ bước vào, tức điên và bắt đầu phàn nàn đầy phẫn nộ. Tôi đã đưa ra một hệ thống riêng để giải quyết những tình huống như thế: Vấn đề là phải để ông nói và không được ngắt lời hay lật lại; mà phải lắng nghe và chờ cho cơn giận tự nhiên nguôi xuống.

Có lẽ đặc điểm đáng báo động nhất ở ông là thói quen bắt đầu một cuộc nói chuyện không đầu cuối, không có ngữ cảnh, không giải thích vấn đề là gì. Tôi nhớ một lần khi có vẻ như tôi đang sắp sửa đưa những thành viên Dân chủ Tự do vào Nội các – báo chí đầy ắp thông tin về việc này – và JP đã vô cùng hoảng hốt. Vài ngày kể từ khi vụ việc bắt đầu đã trôi qua, vì vậy tôi không còn để ý đến nó nữa. Nhưng ông ấy thì có.

Tôi đang làm việc ở phòng họp của Nội các và đang suy nghĩ về một bài toán chính sách nào đó. John chợt xông vào phòng: “Menzies chết tiệt đâu rồi?” ông bắt đầu. Có vẻ không phải một khởi đầu hứa hẹn. Sau ?