← Quay lại trang sách

Chương 13 Iraq: Đếm Ngược Tới Chiến Tranh.

Khi nghĩ cách trả lời câu hỏi đã đặt mình vào tận cùng của bằng chứng về cuộc Điều tra Chilcot cho cuộc Chiến tranh Iraq vào tháng 1 năm 2010, tôi phát ốm, một kết quả cộng hưởng giữa tức giận và đau đớn. ‘Ông có tiếc điều gì không?’ Đây không phải là câu hỏi được đặt ra hay trả lời trong sự chiêm nghiệm thầm lặng của tâm hồn; không phải một điều có thể cân đo đong đếm, xem xét hay giải thích bằng sự thâm thúy và sắc sảo hay thậm chí là sự thành thật dễ dãi.

Đó là một câu hỏi theo kiểu giật tít của báo. Nó phải cần phải có một câu trả lời chuẩn mực. Nếu trả lời ‘có’ tôi dễ dàng biết ngay kết quả: ‘Thủ tướng BLAIR XIN LỖI VÌ ĐÃ GÂY CHIẾN TRANH’, ‘CUỐI CÙNG ÔNG TA ĐÃ NÓI XIN LỖI’. Hãy chọn một biến thể. Ấn tượng tạo ra vẫn không đổi. Những người phản đối chiến tranh có thể sẽ vui mừng; những người ủng hộ có thể sẽ mất tinh thần, tưởng tượng rằng sự ủng hộ và trong một số trường hợp, sự hy sinh của họ đã trở nên vô ích. Trả lời ‘không’, bạn sẽ trở thành kẻ chai sạn, thờ ơ với nỗi thống khổ hay có thể tệ hơn, chống cự một cách ngoan cố, không phải vì sức mạnh mà bởi vì bạn biết không thể làm gì hơn.

Vì vậy tôi nhận trách nhiệm, thừa nhận rằng quyết định là của tôi và tránh một tít báo có thể phản bội mình. Tuy nhiên, đó là một câu trả lời không hoàn chỉnh.

Tôi cảm thấy phẫn nộ vì đã bị đặt vào một cuộc điều tra mà lẽ ra được dành để nói về những bài học rút ra, nhưng lại không tránh khỏi bị biến thành một phiên tòa xét xử, kiểm nghiệm đức tin; và trước một số gia đình của những người ngã xuống, những người tôi muốn ôm xiết, dù biết rằng nếu làm thế, vòng tay ôm đó sẽ ngay lập tức bị lạm dụng và hiểu lầm. Nhưng cơn phẫn nộ này là ích kỷ, nhỏ nhặt và nhất thời.

Nỗi đau vẫn còn đọng lại không phải vì ích kỷ. Liệu họ có thực sự nghĩ rằng tôi không quan tâm, không cảm thấy gì, không tiếc nuối gì khi sự mất mát của những người nằm xuống luôn hiển hiện trong tôi tới từng đường gân thớ thịt? Và không chỉ có những người lính Anh mà cả các nước khác, phần lớn là người Mỹ, nhưng cũng có người Nhật, Hà Lan, Đan Mạch, Estonia, Tây Ban Nha, Italia và tất cả những quốc gia khác trong liên minh của chúng tôi. Và chính những người Iraq, không chỉ những người đã thương vong trong chiến tranh, mà cả những người đã chết dưới tay những kẻ khác, những cái chết mà chúng tôi không thể ngăn cản. Các nhà ngoại giao, như Sergio Vieira de Mello tài giỏi, những người đã trao mạng sống của mình vì một lý do mà họ không bao giờ ủng hộ. Những thương vong ngẫu nhiên của những cá tính đỏng đảnh trong chiến tranh, như Ken Bigley và những lính hộ vệ riêng bị bắt làm con tin cùng với Peter Moore.

Thờ ơ trước những điều này là vô nhân tính, là thiểu năng về cảm xúc. Nhưng không phải lời buộc tội đó đã gây ra đau đớn cho tôi.

Sự đau đớn xuất phát từ một nỗi buồn vượt xa những miêu tả thông thường, là mũi dao đâm vào lòng trắc ẩn của bạn khi nghe thấy tin tức về thảm họa. Nước mắt, dù đã rơi rất nhiều, cũng không chứa đựng được hết những nỗi đau đó. Tôi cảm thấy tiếc thương đến tuyệt vọng cho họ, tiếc thương những cuộc đời yểu mệnh, tiếc thương những gia đình mà sự mất mát người thân còn trở nên tệ hơn bởi những lời thị phi về lý do khiến những người yêu thương đó phải nằm xuống, tiếc thương cho sự chọn lựa vô cùng bất công rằng mất mát nên thuộc về họ. Tại sao lại phải là con họ, chồng họ, gia quyến của họ vào lúc đó, ở nơi đó, trong hành trình, nhiệm vụ hay cuộc tập kết đó?

Lý do số phận đưa ra lựa chọn đó xuất phát từ quyết định của tôi. Nhưng lúc đó đã có hàng triệu những yếu tố ngẫu nhiên khác cùng kết hợp khiến họ phải bỏ mạng.

Nỗi đau xuất hiện từ tình trạng khẩn cấp phải hành động, phải giao phó. Không phải cảm nhận, mà phải thực hiện.

Lúc này tôi đã vượt qua những biểu hiện của tình cảm đơn thuần. Tôi cảm thấy những lời an ủi và thông cảm là hoàn toàn không phù hợp. Họ đã chết, còn tôi, người đưa ra quyết định dẫn tới cái chết của họ, vẫn đang sống.

Tôi đã cố ý dùng từ “trách nhiệm”, cho dù nó cũng chưa diễn tả được hết ý nghĩa mà tôi mong muốn.

Tôi không hối tiếc về quyết định đi đến chiến tranh vì một lý do. Tôi chưa bao giờ đoán được cơn ác mộng tiềm tàng sau đó và đấy cũng là một phần trách nhiệm. Nhưng khái niệm ‘trách nhiệm’ không thể hiện gánh nặng được trút bỏ mà là một gánh nặng còn tiếp diễn. “Tiếc nuối” có vẻ nặng về quá khứ. “Trách nhiệm” bao gồm cả hiện tại và tương lai.

Ngay cả khi rời nhiệm sở và hiện giờ đảm nhiệm một vai trò hoàn toàn khác, tôi vẫn tận tụy với cuộc chiến trước kia vốn đã gây ra những sự kiện dưới đây. Tôi luôn nghĩ về đất nước Iraq và Afghanistan với những hậu quả mà những nạn nhân của cuộc chiến đang gánh chịu từng ngày từng giờ trong cuộc sống của mình; nhưng hơn thế, tôi dùng sự chiêm nghiệm đó để tiếp tục cam kết một mục tiêu cho nhiệm vụ lớn hơn, một nhiệm vụ mà tôi vẫn chưa hoàn thành. Tôi không thể hồi sinh những người đã chết; nhưng có thể cống hiến phần đời còn lại cho cuộc chiến lớn hơn, cố gắng đem lại ý nghĩa, mục đích để quyết tâm đó của mình không suy chuyển dù bằng cách này hay cách khác. Tôi không thể diễn tả sự tiếc nuối bằng lời; mà chỉ có thể hy vọng chuộc lại lỗi lầm cho hành động của mình bằng cả phần đời còn lại.

Có thể khi đọc đến đây, nhiều người sẽ phản đối gay gắt quyết định của tôi. Nhưng chỉ trong một khoảnh khắc thôi, hãy để mỗi chúng ta quay lại thời điểm bắt đầu và tôi sẽ cố gắng giải thích rõ điều đã diễn ra trong tâm trí mình lúc đó.



Rắc rối trong tranh luận về vấn đề Iraq nằm ở chỗ mỗi người trong chúng ta đã không còn lắng nghe nhau. Có thể có nhiều những người “không ràng buộc” trong công chúng hơn chúng ta thường nghĩ. Theo kinh nghiệm của tôi, “mọi người” − đối lập với những người khác, người tham gia, người bình luận, những kẻ theo đóm ăn tàn, người cuồng nhiệt trong phạm vi ám ảnh chật hẹp của chính trị − luôn có một sự trân trọng bẩm sinh dành cho sự phức tạp của quá trình ra quyết định. Họ hướng tới một quan điểm nào đó theo bản năng. Họ được chuẩn bị để thay đổi nó theo thời gian. Họ hiểu rằng lãnh đạo là một nghề khó nhọc. Và họ có một quá trình suy luận khác với các chính trị gia, lúc nông cạn đến ngạc nhiên, có khi lại sâu sắc hơn rất nhiều. Giờ đây công chúng không còn quá bận tâm tới vấn đề Iraq, nhưng nếu có, họ sẽ vẫn khá dễ dàng bị thuyết phục.

Những người quan tâm sâu sắc đến chủ đề này thì không thế. Họ tự quyết định và sự thông thái − chắc chắn giữa những người tiến bộ − đã biến hầu hết thành đá hoa cương; và điều này khá tiêu cực: đó là một sai lầm. Trong số tất cả những quyết định tôi từng đưa ra, quyết định về vấn đề Iraq cũng là một quyết định mà ngay cả những người bạn thân nhất của tôi cũng không tán thành; thực ra, không chỉ đơn giản là không tán thành, mà còn thấy vô cùng khó hiểu. Chính trị gia Geoff Gallop, một trong những người bạn lớn tuổi nhất của tôi đã từng nói ông có quan điểm khác với tôi, nhưng: ‘Chỉ không hiểu sao anh lại làm thế, Tony.’ Nhiều người ủng hộ cho rằng tôi làm thế vì những động cơ đúng đắn, nhưng vẫn coi đó là một ‘vết nhơ’ trên một lý lịch đáng lẽ ra đã rất ấn tượng. Và tất nhiên những người không ủng hộ thì coi đó là bằng chứng cuối cùng của hành động xấu xa đáng ghê tởm.

Tôi hoàn toàn hiểu tại sao người ta lại có quan điểm này. Nguyên nhân sâu xa của mâu thuẫn này là hiệu lực hóa những nghị quyết của LHQ về WMD (vũ khí phá hủy hàng loạt) của Saddam và chúng tôi đã không tìm thấy WMD sau khi giành quyền kiểm soát đất nước. Chúng tôi đã cho là có chương trình vũ khí phá hủy hàng loạt đang hoạt động nhưng thực tế là không. Hậu quả, sau vụ hành quyết Saddam vào tháng 5 năm 2003, vô cùng đẫm máu, có sức tàn phá ghê gớm và gây nên tình trang hỗn loạn chưa từng có. Nếu chúng tôi tìm thấy WMD thực sự, quan điểm có thể sẽ khác đi; và nếu chúng tôi chấm dứt mâu thuẫn vào tháng 5 năm 2003 với hậu quả giống như ở Kosovo, cuộc tranh luận có thể sẽ trở nên kém sôi nổi và có tính hàn lâm. Nhưng cách thứ nhất có vẻ sẽ khiến động cơ tiến hành chiến tranh trở nên thiếu nhất quán; và cách thứ hai sẽ lưu giữ sự việc diễn ra cùng hậu quả của nó liên tục trong suy nghĩ của chúng tôi.

Vì vậy đó là một lý do và là một lý do hoàn toàn dễ hiểu, đối với một người bình thường. Nhưng còn một lý do khác nữa. Chính trị ngày nay vận hành bằng cách sử dụng những quan điểm được hình thành, tôi luyện nhanh chóng và sau đó trở nên gần như không thể thay đổi được. Người ta có ít thời gian để chiêm nghiệm và cân nhắc; các vụ việc được đánh giá nhanh chóng, người ta ít quan tâm tới những gì đang diễn ra ở các góc độ khác nhau và vì thế phán quyết được đưa ra với tốc độ và sự khốc liệt mà một quá trình xem xét tỉ mỉ hơn có thể tránh được. Một khi những phán quyết như thế được thực hiện, các câu chuyện được viết ra sẽ có xu hướng tái khẳng định những phán quyết này. Mặt khác bản thân những câu chuyện lại bị phớt lờ, cho đến khi việc thử thách phán quyết bị coi là hoang tưởng. Sự cân bằng là một khái niệm xa lạ trong thế giới ngày nay. Nó đòi hỏi những quan điểm chắc chắn và được xác định nhanh chóng.

Cho nên, vì những lý do này, nhiệm vụ của tôi thật khiêm tốn: không phải là thuyết phục người đọc về tính đúng đắn của nguyên nhân, mà đơn thuần là thuyết phục họ rằng có thể giải thích nguyên nhân đó. Phải mở rộng tư tưởng của bản thân. Tôi từng nghĩ lại xem mình có làm sai không.

Tin tình báo về Saddam và vũ khí hủy diệt hàng loạt hóa ra hoàn toàn sai lệch. Người ta – và chính tôi – cũng nói rằng nguyên nhân xảy ra cơ sự này vẫn là một điều bí ẩn. Tại sao Saddam lại phải ngăn cản các thanh tra viên lâu đến thế nếu ông ta không có gì phải giấu giếm? Thậm chí cả khi để họ vào Iraq, tại sao vẫn cản trở họ? Tại sao ông ta lại gây ra chiến tranh cho đất nước mình chỉ để bảo vệ một tin đồn? Liệu đó có phải là sự ngược đời? Xin dẫn lời cựu thanh tra vũ khí của LHQ, Charles Duelfer: ông ta nghĩ nước Mỹ cùng đồng minh đang khoác lác khi đe dọa sử dụng vũ lực, nhưng thực ra chúng tôi đã thành thực; còn chúng tôi nghĩ ông ta thực sự có vũ khí hủy diệt hàng loạt trong khi ông ta lại chỉ đang khoác lác mà thôi?

Khi nhìn lại tất cả các vụ việc để phục vụ cuộc Thanh tra Chilcot, tôi đã đọc lại bản hoàn chỉnh của Báo cáo Nhóm Khảo sát Iraq từ năm 2004 và có nhiều thời gian hơn để nhìn nhận lại mục đích của nó. Được tổng hợp bởi nhóm các chuyên gia Mỹ/Anh do tiến sĩ David Kay và sau đó là Charles Duelfer chủ trì để xác định sự thật về Saddam và WMD, bản báo cáo được công bố thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, khi David Kay lãnh đạo nhóm, đã kết luận rằng vào năm 2003, Saddam không hoạt động chương trình sản xuất WMD. Điều này là đề tài cho báo giới và không ngạc nhiên khi nó dẫn tới quan điểm rằng thông tin tình báo đã hoàn toàn sai lệch, rằng Saddam có chứng cứ về việc tuân thủ nghị quyết của LHQ và cuộc chiến này hoàn toàn phi nghĩa. Những thông báo do tiến sĩ Kay thêm vào hầu như đã bị bác bỏ, bao gồm cả tuyên bố cho rằng Saddam có thể còn là một mối đe dọa lớn hơn thực tế, một dấu hiệu mà ở thời điểm đó không thể giải thích được, dựa trên những kết quả thu được ban đầu.

Bản báo cáo thứ hai của Charles Duelfer không được công bố cho đến tháng 9 năm 2004. Nó nhận được ít sự chú ý hơn trước, nhưng đây vẫn là một bản phân tích hoàn chỉnh. Dưới áp lực của những thách thức trong giai đoạn ở Iraq, tôi đã không lĩnh hội được hết nó. Hơn nữa, chỉ vài năm sau đó Charles Duelfer đã xuất bản cuốn sách của mình, mô tả chi tiết việc biên soạn bản báo cáo đó. Vì mục đích của cuộc điều tra Chilcot, tôi đã nghiên cứu cả hai. Những điều không thể giải thích nổi đều đã được giải thích trong cuốn sách đó.

Đội ISG dưới sự lãnh đạo của Duelfer đã cố gắng tiến hành các cuộc phỏng vấn với những nhân sự chủ chốt của chế độ, những cộng sự hàng đầu của Saddam. Trong một quá trình đặc biệt kéo dài vài tháng, nhân viên FBI, George Piro, cũng tự mình bố trí phỏng vấn Saddam. Đội ngũ này đã khám phá ra những băng ghi âm các cuộc họp mà Saddam đã có với các nhân viên tiền nhiệm trong đó thảo luận chương trình sản xuất WMD. Câu chuyện thực sự lại nổi lên và tài liệu này rất đáng đọc.

Về bản chất, sau khi các lệnh cấm được ban hành, chế độ của Saddam bị ép buộc nghiêm trọng. Căng thẳng càng trở nên phức tạp hơn khi con rể của Saddam tiết lộ về mối quan tâm không ngừng của ông ta tới sự phát triển WMD. Tiết lộ này được phát sóng cho toàn thế giới vào năm 1996. (Về sau người này đã được dẫn dụ quay về Iraq và bị giết hại.)

Saddam đã có một quyết định rất khôn ngoan. Từ giữa những năm 1990 trở đi, chính sách của Saddam là phá bỏ các lệnh cấm này bằng mọi giá. Chương trình WMD đang hoạt động bị đóng cửa. Tài liệu chưa bị phá hủy bởi các thanh sát viên vào năm 1991 đã bị vứt bỏ. Ông ta biết rằng mình không thể mạo hiểm sản xuất WMD và cố gắng che giấu chúng nữa.

Tuy nhiên, ông ta vẫn duy trì niềm tin tuyệt đối vào tầm quan trọng chiến lược của WMD đối với chế độ của mình và sự sống còn của nó. Ông ta tin rằng việc sử dụng vũ khí hóa học là thiết yếu để đẩy lùi những người lính Iran, những người đầy ắp nhiệt huyết tôn giáo, đã ném mình vào những làn sóng chống lại vũ lực của Iraq trong chiến tranh Iraq – Iran.Ông ta nghĩ chỉ có sử dụng vũ khí hóa học mới có thể đối phó với số lượng đông đảo của quân đội Iran. Vụ tấn công bằng hơi độc đối với người Kurd đã thổi một luồng hơi nóng không chỉ bằng quân sự mà còn bằng tâm lý với hy vọng thách thức Saddam, vì vậy những vũ khí này đã đóng một vai trò nòng cốt trong việc đàn áp cuộc nội chiến. Saddam biết rằng Iran đang tăng cường tiềm năng chế tạo vũ khí hạt nhân và tin rằng Israel đã có sẵn khả năng rồi. Đối với ông ta, việc sở hữu năng lực hạt nhân như vậy có thể phục vụ mục tiêu cơ bản: trở thành lực lượng áp đảo trong thế giới Ả Rập.

Vì vậy ông ta quyết định che giấu hoặc loại bỏ bất cứ bằng chứng nào về một chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân, hóa học hay sinh học đang hoạt động. Tuy nhiên, những gì ISG phát hiện ra lại cho thấy đây chỉ đơn thuần là một quyết định khôn khéo để tạm treo chương trình, chứ không phải một quyết định mang tính chiến lược để hoàn toàn loại bỏ nó.

ISG kết luận:

Saddam muốn tái tạo năng lực sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq – về cơ bản đã bị phá hủy vào năm 1991 – sau khi các hiệp ước bị dỡ bỏ và nền kinh tế Iraq dần ổn định, nhưng có thể phải dựa dẫm vào hàng loạt các tiềm năng vốn có trước đó. Saddam khao khát được phát triển năng lực hạt nhân – theo xu hướng gia tăng, bất chấp áp lực từ dư luận quốc tế và những hiểm họa cho nền kinh tế – ông ta có ý định tập trung vào các tiềm lực chế tạo tên lửa đạn đạo và vũ khí sinh học chiến thuật (CW).

Kết luận về vũ khí hạt nhân đã được chứng thực bởi Báo Cáo Butler vào tháng 7 năm 2004, mặc dù nó được viết trước bản báo cáo đầy đủ của ISG vào tháng 9 năm 2004. Báo Cáo Butler kết luận:

Từ kết quả của bản Tổng duyệt của chúng tôi và xem xét những dẫn chứng đã được ISG tìm ra và thẩm vấn nhân viên người Iraq, chúng tôi đã đi đến kết luận rằng trước chiến tranh, các nhà cầm quyền Iraq đã có chiến lược nhằm khôi phục việc theo đuổi các chương trình vũ khí cấm, bao gồm chương trình vũ khí hạt nhân nếu có thể, khi LHQ tiến hành điều tra thì chúng đã được giải tán và các lệnh cấm đã dần mất hiệu lực hoặc bị tháo gỡ.

Khi theo đuổi chiến lược này, Saddam đã quy tụ những nhà khoa học và kỹ sư cần thiết để hoàn nguyên một chương trình như thế; ông ta đã vi phạm lệnh cấm bằng việc nhập khẩu hàng hóa có hai công dụng và duy trì các phòng thí nghiệm không được tiết lộ đối với LHQ mà vốn có thể được khởi động lại để phục vụ các mục đích về WMD. Những hoạt động này được tài trợ bởi sự thao túng bất hợp pháp của chương trình đổi dầu lấy lương thực trong đó cho phép một số hoạt động bán dầu để mua thức ăn và thuốc men.

Theo những nhân viên tiền nhiệm đã phỏng vấn, thì Cục Tình Báo Iraq (IIS) đã duy trì từ năm 1991 đến 2003 một hệ thống phòng thí nghiệm được giấu kín không công khai để nghiên cứu và kiểm nghiệm các loại hóa chất và thuốc độc khác nhau. Họ đi đến khẳng định:

ISG không có bằng chứng cho thấy các nhà khoa học thuộc Ban Giám Đốc của khoa Tội Phạm Học IIS (M16) đang sản xuất CW hay BW trong những phòng thí nghiệm này. Tuy nhiên, các nguồn tin cho thấy M16 đang có kế hoạch sản xuất một vài chất CW bao gồm hơi cay sulfur, hơi cay nitrogen và Sarin.

Sự tồn tại, chức năng và mục đích của các phòng thí nghiệm không bao giờ được tuyên bố trước LHQ.

Chương trình IIS bao gồm sử dụng con người cho các mục đích thí nghiệm.

Tất cả những điều này xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn do ISG tiến hành tất nhiên là điểm gắn kết trong các cuộc điều tra Hans Blix từ tháng 11 năm 2002 đến tháng 3 năm 2003. Đó không phải bằng chứng hỗ trợ tình báo về một chương trình WMD đang hoạt động mà chúng tôi theo đuổi vào. Vì vậy các yếu tố trên thực tế khác với những gì chúng tôi nghĩ là thật. Nhưng các yếu tố đó đã cung cấp nền tảng rõ ràng nhất có thể để đánh giá rằng hắn thực sự là một mối nguy hiểm và đặc biệt, lời cáo buộc hắn đang vi phạm hiến chương LHQ là hoàn toàn chính xác.

Nếu chúng tôi lui quân vào năm 2003, thì tình hình nguy hiểm vô cùng rõ ràng; các thanh sát viên LHQ do Blix dẫn dầu sẽ không bao giờ có những cuộc phỏng vấn đó; họ có thể sẽ kết luận (một cách sai lầm) rằng Saddam đã từ bỏ hy vọng về WMD; các lệnh cấm sẽ được bãi bỏ; và việc tái xác lập áp lực lên một chính quyền đã được ‘dọn quang’ gần như là bất khả thi. Saddam lúc đó có ý định; có sách lược; và với mức giá dầu tăng, ông ta sẽ có quyền lực kinh tế khổng lồ.

Giờ, bạn có thể tháo gỡ nhiều phần của luận đề này. Có thể ông ta đã quyết định là thực ra mình không cần đến vũ khí hủy diệt hàng loạt; nếu ông ta cố gắng phát triển chúng, có thể cộng đồng quốc tế sẽ hành động; trong bất kỳ trường hợp nào, việc đó có thể mất thời gian. Nhưng nếu bạn đọc Báo Cáo ISG, bức tranh một chính quyền có mối ràng buộc lớn nhất cũng là chính quyền bị áp chế từ bên ngoài. Bản chất của nó hoàn toàn đen tối. Ví dụ, một điểm nhỏ: những miêu tả của cuộc thử nghiệm được tiến hành trên người để nghiên cứu thuốc độc sinh học – thừa nhận phục vụ mục đích ám sát, không phải WMD.

Ý tôi ở đây không phải là thuyết phục rằng chúng tôi đã đúng khi trừ khử Saddam, mà chỉ nhằm mục đích kêu gọi những ai vốn tuân thủ sự thông thái của số đông ít nhất hãy dừng lại và suy nghĩ. Tôi không khẳng định luận đề này có thể được bác bỏ, rằng nếu chúng tôi không hành động vào năm 2003, Saddam đã có thể tái xuất mạnh mẽ hơn, cạnh tranh với Iran cả trên phương diện WMD và trên phương diện hỗ trợ chủ nghĩa khủng bố trong khu vực. Saddam rồi cũng sẽ già đi và không còn gây đe dọa nữa; và các con trai ông ta, được chuẩn bị để kế nghiệp, sẽ tiến hành cải cách.

Lập luận đạo đức chống lại những gì chúng tôi đã làm cũng tương tự, chúng liên quan đến những hỗn loạn và cái chết theo sau cuộc trừ khử Saddam. Không có đánh giá đạo đức nào có thể hoặc nên được dựa trên những thống kê toán học khô khan: đây là số những người bị Saddam giết; đây là số những người chết sau khi hắn bị lật đổ. Phép tính đó có thể gây ác cảm. Tuy nhiên, vì người ta nói quá nhiều về số người Iraq thiệt mạng sau tháng 3 năm 2003, thì một cuộc tranh luận về dẫn chứng tốt nhất chứ không phải tồi nhất nên được khởi xướng.

Với câu hỏi ‘liệu Iraq ngày nay có tốt hơn dưới thời Saddam không?’ câu trả lời khôn ngoan đó là: tất nhiên. Ước tính về những người chết dưới thời Saddam như sau:

• Chiến tranh Iran – Iraq, 1980-1988: 600.000 - 1,1 triệu người thương vong ở cả hai phía (Anthony Cordesman, The Lessons of Modern War (tạm dịch: Những bài học từ chiến tranh hiện đại, Tập II, trang 3);

• Chiến dịch Anfal chống lại người Kurd, 1988: gần 100.000 người chết phía Kurd; thêm nhiều người bị thương và mất tích (Human Rights Watch, ‘Genocide in Iraq’ – tạm dịch: Giám sát Nhân quyền, ‘Tội diệt chủng ở Iraq’, 2003);

• 1991 Cuộc xâm lược Kuwait / Chiến tranh vùng Vịnh: 75.000 người chết (Milton Leitenberg, ‘Deaths in Wars and Conflicts in the 20th Century’ – tạm dịch: Thương vong trong các cuộc Chiến tranh và Xung đột thế kỷ XX, trường Đại học Cornell, Chương trình nghiên cứu hòa bình);

• 1991 Chiến dịch/Sự trả đũa Shia: 50.000 người chết (Leitenberg).

• Các vụ giết hại vì mục đích chính trị trong các năm: 100.000 hoặc hơn (Human Rights Watch – tạm dịch: Giám sát Nhân quyền, ‘Công lý cần cho các tội ác của chính quyền Iraq’, tháng 12 năm 2002).

Nhưng điều này chỉ nói lên một phần của câu chuyện. Khi Saddam lên nắm quyền vào năm 1979, Iraq giàu có hơn cả Bồ Đào Nha và Malaysia. Đến năm 2003, 60% dân số sống phụ thuộc vào cứu trợ lương thực. Hàng triệu người bị suy dinh dưỡng, hàng triệu người khác bị lưu đày. Một thống kê toàn diện về cục diện xã hội Iraq dưới thời Saddam được tiến hành. Theo LHQ, đến năm 2002 số trẻ em dưới 5 tuổi bị chết là 130/1000 ca sinh, một con số khủng khiếp hơn cả Congo. Tới năm 2007, do tác động của liên minh và sau đó là việc chính quyền Iraq giới thiệu các chương trình miễn dịch và dinh dưỡng, con số này giảm xuống chỉ còn trên 40/1000 người. Sự khác biệt này tương đương gần 50.000 – 60.000 trẻ em được cứu sống hàng năm.

Trước khi ai đó nói “à, nhưng đó là lệnh cấm”, thì họ nên nhớ rằng Saddam được tự do mua thực phẩm và thuốc men theo ý muốn. Nhưng ông ta đã chọn cách không làm vậy, để có thể đổ vấy một cách sai lầm rằng chính phương Tây đã gây ra cái chết cho trẻ em Iraq. Tại khu vực của người Kurd, mặc dù các lệnh cấm được lan tỏa tại khu vực này, nhưng tỷ lệ tử vong ở trẻ em chỉ bằng một nửa so với miền trung và miền nam Iraq.

1/3 số trẻ em ở miền trung và miền nam Iraq phải chịu đựng nạn suy dinh dưỡng kinh niên trước năm 2003. Số người tử vong do bệnh tả và viêm đường hô hấp nghiêm trọng có thể được ngăn chặn dễ dàng. Ngay cả trong cuộc chiến tranh kéo theo sau đó, giữa năm 2005 và 2007, bệnh suy dinh dưỡng cũng giảm còn dưới 1/4 so với kỷ nguyên của Saddam.

Đó là những cái chết chúng ta không bao giờ nhìn thấy; sự tàn sát mà chúng ta không bao giờ chứng kiến; nỗi đau chưa bao giờ xuất hiện trên truyền hình. Nhưng chúng đều chân thực và sống động, như những mất mát bi kịch sau khi Saddam bị tiêu trừ.

Mất mát đó là gì? Một lần nữa, ‘sự thật’ được gói gọn và nhanh chóng trở nên không thể bác bỏ. Người ta công bố rằng có tới 500.000 hay 600.000 người chết trong khoảng từ năm 2003 đến năm 2009. Một khi được tuyên bố, các thông tin này bị cắt xén với bối cảnh chung rồi được nhắc đi nhắc lại.

Nguồn gốc của con số này được công bố trong tạp chí y khoa Lancet tháng 10 năm 2004 vốn là một bản phân tích khoa học số thương vong ở Iraq. Con số mà họ đưa ra – 600.000 người chết – dẫn đầu các bản tin và trở nên áp đảo, được khai thác lại như một sự thực hiển nhiên. Về sau, phương pháp luận mà tạp chí dùng làm căn cứ khảo sát đã bị nghi ngờ nghiêm trọng; những con số của nó bị cáo buộc là thiếu chính xác và gây hiểu lầm; và đánh giá đưa ra đã gặp phải nhiều nghi vấn. Số liệu này là ngụy tạo.

Hội Chữ thập đỏ Quốc tế, những người đã tiến hành một Cuộc điều tra chi tiết tất cả các dẫn chứng, kết luận rằng cơ quan Thống kê tử thi của Iraq, cùng với kho dữ liệu từ cuộc Khảo sát Điều kiện sống và Sức khỏe Gia đình Iraq, có thể đưa ra ước tính chính xác nhất. Viện Nghiên Cứu Brookings đã tự tổng hợp số liệu và đi đến quan điểm tương đồng với cơ quan Thống kê tử thi (một nhóm phản đối chiến tranh). Các con số cùng nằm trong khoảng giữa 100.000 và 112.000.

112.000 là một con số khá lớn nhưng vẫn khác một trời một vực với con số nửa triệu kia. Tuy nhiên, kết quả của họ cho thấy đa số – khoảng 70.000 người – đã không bị quân của liên minh giết hại mà chết trong các vụ thanh toán bè đảng trong khoảng những năm 2005-2007 do quân nổi dậy được al-Qaeda và Iran hậu thuẫn gây ra.

Hơn nữa, điều này được đưa ra không phải để chứng minh rằng việc loại bỏ Saddam đem lại điều gì tốt đẹp hơn cho Iraq, mà là cân bằng những gì Iraq đã thực sự trải qua dưới thời Saddam và những gì diễn ra sau khi ông ta bị loại trừ.

Như vậy đây không chỉ là một trường hợp “giá như trước đây chúng ta biết được điều mà bây giờ chúng ta mới biết”. Trên cơ sở thông tin hiện tại, tôi vẫn tin rằng để Saddam lãnh quyền sẽ là một mối nguy lớn hơn tới an ninh của chúng ta thay vì loại bỏ và rằng mặc dù hậu quả rất thảm khốc, nhưng thực tế việc để Saddam và các con trai lãnh đạo Iraq sẽ mang lại những tình huống khó khăn hơn rất nhiều. Không điều gì có thể làm giảm áp lực việc chỉ trích rằng chúng tôi đã không dự đoán được bản chất của những gì có thể xảy ra một khi Saddam không còn nữa. Việc lập kế hoạch cho các hậu quả là một vấn đề gây tranh luận gay gắt. Thực tế, chúng tôi đã không dự tính vai trò của al-Qaeda hay Iran. Chúng tôi có nên làm thế hay không lại là một vấn đề khác; và nếu dự tính, thì những gì chúng tôi có thể làm trong trường hợp đó, một lần nữa, cũng là cả một thách thức to lớn.

Vì những lý do này mà tôi không thể thỏa mãn mong muốn của những người đã ủng hộ mình, những người muốn tôi nói: đó là một sai lầm nhưng là sai lầm tạo ra từ thiện chí. Những người bạn phản đối chiến tranh nghĩ tôi đang tỏ ra ngoan cố; những người khác, ít thân thiện hơn, thì nghĩ tôi bị hoang tưởng. Tôi sẽ nói với cả hai rằng: Hãy giữ tư duy cởi mở.

Trong khi tôi phải chấp nhận thực tế của những gì đã xảy ra khi loại trừ Sadda, những người có quan điểm khác phải chấp nhận rằng lẽ ra đã xảy ra thực tế rằng Saddam và các con vẫn nắm quyền ở Iraq. Nhìn vào lịch sử 25 năm cầm quyền của ông ta, liệu họ có dám nói với tôi rằng 5, 10, 15 hay 25 tiếp theo, tương lai đất nước ấy có thể sẽ sáng sủa hơn.

Tuy nhiên, tôi đang nhảy cóc. Hãy quay lại thời gian những năm 2001-2003 và bắt đầu lại. Có hai cách mô tả những gì đã xảy ra: một là xem xét bản chất của việc đưa ra quyết định; hai là xem xét trình tự thời gian của các sự kiện. Tôi sẽ bắt đầu từ bản chất của quyết định.

Trước hết, có lẽ bằng một cuộc đàm phán sơ bộ, chúng ta không nên coi giả thuyết về sự thông đồng là một phần của câu chuyện. Không có “lời nói dối” vĩ đại nào về WMD. Bạn có thể thẩm tra thông tin tình báo mà tôi nhận được trên rất nhiều website của Chính phủ. Các bản báo cáo từ Ủy ban Tình báo chung (JIC) đã được mở rộng qua nhiều năm và tất cả đều đồn đoán về một chương trình vũ khí hóa học và sinh học đang hoạt động. Có những người trong cộng đồng tình báo quốc tế tranh luận về phạm vi của chương trình, nhưng không ai tranh luận một cách nghiêm túc rằng nó có tồn tại. Nghị quyết 1441 của LHQ ban hành tháng 11 năm 2002, đã được nhất trí thông qua, cũng chỉ nói thế.

Nguyên nhân của điều này rất đơn giản. Vào năm 1981, Israel đã ném bom cơ sở nghiên cứu vũ khí hạt nhân ở Tuwaitha gần Baghdad, dựa trên bằng chứng xác đáng rằng đây là một phần của chương trình đang hoạt động và gia tăng nhằm tạo dựng tiềm năng chế tạo vũ khí hạt nhân. Chương trình sinh học và hóa học được tiếp tục. Vào năm 1988, là một phần của chính sách Ả Rập hóa, trong đó có việc đưa người Kurd ra khỏi đất nước về phía bắc của Baghdad, đã có một vài vụ tấn công bằng vũ khí hóa học vào các làng người Kurd trong đó hơn 100.000 người đã bị giết, bao gồm cả một vụ tấn công vào Halabja khiến vài nghìn người bị tiêu diệt chỉ trong vòng một ngày.

Vào tháng 3 năm 1990, phóng viên Farzad Bazoft của tờ Observer bị treo cổ, nghi là do hoạt động gián điệp về các vụ lắp đặt quân sự. Là một phần của cuộc đình chiến sau Chiến tranh Vùng Vịnh theo sau cuộc xâm lược Kuwait của Iraq, các thanh sát viên vũ khí đã được cử đến Iraq để định vị và phá hủy kho đạn hóa sinh của họ. Phải nói rằng, người ta quan tâm đến việc sử dụng chúng đối với dân thường Iraq thì ít, mà phần lớn về tiềm năng sử dụng trong các tên lửa hỏa tiễn vốn từng được bắn vào Israel trong khoảng thời gian xung đột, dẫn đến nguy cơ sử dụng chúng trong các cuộc chiến rộng hơn trên quy mô khu vực.

Các thanh sát viên vũ khí đã liệt kê những vật liệu họ tìm thấy và cả những vật liệu họ không tìm thấy. Trong một báo cáo vào tháng 1 năm 1999, sau đó được trích dẫn rất nhiều, họ cho biết đã liệt kê một lượng lớn vật liệu WMD không được lý giải cặn kẽ.

Ngay từ đầu hành vi cản trở đã xảy ra. Vào tháng 3 năm 2003, khi xung đột bắt đầu, có ít nhất 17 lệnh cấm riêng biệt mà LHQ đã ban hành về việc Iraq từ chối hợp tác với các thanh sát viên. Năm 1998, đội điều tra đã bỏ đi để phản đối. Như tôi đã nói lúc đầu vào tháng 12 năm 1998 Tổng thống Clinton và tôi đã hợp thức hóa một cuộc không kích vào Baghdad với mục đích phá hủy các trang thiết bị. Việc làm này đã đạt được mục đích, nhưng không ai có thể dám chắc nó có hiệu quả. Những lời đồn đoán mạnh mẽ nổi lên, rằng chương trình này vẫn tiếp tục.

Tôi không biện minh cho xung đột năm 2003, mà nhớ lại một cảm giác giờ đây đã được găm sâu trong trí nhớ, về cảnh tượng Iraq dưới thời Saddam. Chính phủ của ông ta là một nguồn bạo lực và áp chế đáng kinh ngạc đối với đất nước; và là nguyên nhân gây ra tình trạng bất ổn và xung đột trong khu vực. Một chút dư âm của việc này có thể được tìm thấy trong các báo cáo từ năm 1999.

Tình trạng nhân quyền ở Iraq đang trở nên tệ hại hơn, sự đàn áp quyền công dân và quyền chính trị vẫn không hề suy giảm. Chế độ thịnh hành với những vi phạm nhân quyền mang tính hệ thống đi ngược lại nhiều ràng buộc quốc tế của Iraq và vẫn còn là mối đe dọa với hòa bình thế giới và an ninh khu vực. (Báo cáo Tạm thời của Max der Stoel, báo cáo viên LHQ về vấn đề Iraq từ 1991-1999, tại hội nghị lần thứ 54 của cuộc họp Đại Hội Đồng LHQ [UNGA], 14 tháng 10 năm 1999).

Những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng đang diễn ra một cách hệ thống ở Iraq trong khi chính quyền Iraq đã tận dụng mọi cơ hội để công khai nỗi thống khổ của dân chúng dưới thời ban hành các lệnh cấm. Chính quyền đó đã thực hiện một hành động bưng bít toàn diện những thông tin về hành động dã man mà lực lượng an ninh của nó đã và đang tiến hành. (Báo cáo Ân xá Quốc tế, 24 tháng 11 năm 1999).

Vấn đề là trong khi không một điều nào trong đây biện minh cho chiến tranh, thì nó lại thực sự ẩn chứa điều ngớ ngẩn của quan điểm cho rằng Bush đã đánh dấu hiệu quả một mốc mới trên bản đồ và quyết định, một cách khó giải thích, sẽ tiến tới Iraq. Đúng là những gì xảy ra trong cuộc chiến vùng Vịnh đầu tiên, khi quyết định không tiến tới Baghdad được đưa ra sau khi khai trừ Iraq khỏi Kuwait, đã ảnh hưởng tới lối suy nghĩ của Mỹ. Quyết định như thế vì một lý do chính đáng đến hoàn hảo: theo sau vụ ngừng bắn vào tháng 3 năm 1991, Saddam dấn sâu hơn vào một cuộc đàn áp đẫm máu dân thường khiến hàng ngàn người dân vô tội bị chết và sự kìm kẹp của chính quyền quân phiệt đối với đất nước ngày càng được xiết chặt.

Thông qua chương trình đổi dầu lấy lương thực, cộng đồng quốc tế đã cố gắng giảm nhẹ đau khổ cho người dân. Một chương trình như vậy rất cần thiết bởi vì những lệnh cấm vẫn còn hiệu lực, chính xác là vì WMD và những nghi ngại khác liên quan đến Saddam. Nhưng nó không bao giờ thực sự có hiệu quả; ngân sách liên tục bị Saddam cùng các con trai và cộng sự thay nhau bòn rút. Kết quả, thực phẩm và thuốc men thường không thể lọt vào được để đến tay người dân.

Vấn đề về dầu lửa làm dấy lên một luận điệu mới: rằng tất cả mọi xung đột chỉ là vì dầu lửa. Mặc dù lý giải này nghe thật phi lý, nhưng nó vẫn có sức nặng thuyết phục và đến nay vẫn còn nhiều người ủng hộ. Thực ra, nếu dầu là mối quan tâm của chúng tôi, chúng tôi đã có thể nhanh chóng sắp đặt một thỏa thuận với Saddam. Ông ta còn có thể sẵn sàng hỗ trợ nhiều hơn vì đã gỡ bỏ các lệnh cấm và tránh được mối đe dọa từ các cuộc kiểm tra. Sau xung đột năm 2003 và theo một quy định của hiến chương LHQ, chúng tôi đã thiết lập một khung hoạt động do LHQ quản lý để đảm bảo rằng tiền thu được từ sản xuất dầu sẽ đến được với người dân Iraq. Và ngày nay, lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ, khoản tiền đó đang được sử dụng để tái thiết cơ sở hạ tầng cho người Iraq, trường học và bệnh viện; và là một lý do khiến bình quân GDP trên đầu người ở Iraq vào năm 2010 tăng gấp ba so với Iraq năm 2003.

Có lẽ lúc này là thời điểm thích hợp để giải quyết những cáo buộc nghiêm trọng rằng các lệnh cấm có tác dụng ngăn cản Saddam và vẫn có thể tiếp tục làm thế, do đó loại bỏ được mối đe dọa do hắn tạo ra. Vì thế, người ta lập luận, chiến tranh là không cần thiết.

Sự thật là cho đến năm 2001, khung chương trình của các lệnh cấm đã không còn thống nhất. Chính vì điều này mà các cuộc thảo luận được bắt đầu ở UNSC vào giữa năm 2001, yêu cầu một chính sách về các lệnh cấm thay thế. Saddam đã thành công trong việc lừa phỉnh người dân tin rằng các lệnh cấm có liên quan đến hoàn cảnh thống khổ của họ. Các lệnh cấm đã bị vi phạm. Hắn đã rút ra hàng tỉ đô-la mờ ám từ các dự án bán dầu.

Cuộc thảo luận tập trung vào cái được gọi là “lệnh cấm thông minh”, điều sẽ trở thành mục tiêu lớn hơn nữa. Lập luận rằng những ‘lệnh cấm thông minh’ này có thể đã khống chế Saddam không đứng vững trước phân tích tỉ mỉ hơn. “Lệnh cấm thông minh”, như ban đầu được nhận định, phụ thuộc chủ yếu vào việc những quốc gia xung quanh Iraq thay đổi chính sách và ngăn chặn việc rò rỉ hàng hóa và dịch vụ trái phép, vốn là một yếu tố chủ chốt làm suy yếu khung chương trình ban đầu. Tới lúc này, dự thảo đầu tiên của chính sách “lệnh cấm thông minh” bao gồm việc nghiêm cấm những hình thức kinh doanh như vậy và các giới hạn then chốt đối với Saddam.

Tôi không nghĩ là những lệnh cấm này đã từng có hiệu quả, ngay cả với những lệnh thay thế. Nhưng nếu không sử dụng chúng thì sẽ không còn cách nào khác. Trong khi cuộc thảo luận diễn ra, một vài quốc gia phản đối những điều khoản hà khắc hơn và chúng đã được loại bỏ. Đặc biệt, những lệnh cấm với các quốc gia lân cận đã bị loại bỏ. Theo như Kenneth Pollack viết trong cuốn sách của ông ta về chủ đề này, (The threatening storm: The case for invaliding Iraq – tạm dịch: Cơn Bão đe dọa: Lý do xâm lược Iraq), điều này đã biến chính sách trở thành trung lập. Ông ta nói rằng có một vài tiền đề để các lệnh cấm có thể hoạt động và kết luận rằng không điều nào trong số đó có thể xảy ra.

Không, dù đúng hay sai, chúng tôi cũng đã làm thế vì những lý do đã nêu và vì tư tưởng đằng sau những lý do này. Vậy: chúng là gì?

Nếu không có sự kiện 11 tháng 9, cuộc chiến Iraq có thể đã không xảy ra. Đôi khi người ta nghĩ điều này hàm nghĩa tôi ám chỉ Iraq là một mối đe dọa giống như Afghanistan, nghĩa là có một mối liên hệ với al-Qaeda. Nhưng thực tế không phải vậy. Đúng là một vài cá nhân trong hệ thống Mỹ đã nghĩ có tồn tại một mối liên hệ như thế. Cũng có rất nhiều thông tin tình báo cho biết al-Qaeda đã được Saddam cho phép vào Iraq vào giữa năm 2002 (với những hậu quả nghiêm trọng về sau) và rằng ông ta chắc chắn có chuẩn bị ủng hộ khủng bố, như việc chấp nhận trả tiền cho gia đình của những kẻ đánh bom liều chết người Palestine. Nhưng việc đánh giá mối đe dọa không dựa trên sự tài trợ của Saddam đối với chủ nghĩa khủng bố hay các nhóm khủng bố.

(Có một thông tin bên lề rất thú vị về điều này. Về sau nổi lên tin đồn rằng al-Zarqawi, người được ủy quyền của bin Laden, đã đến Iraq vào tháng 5 năm 2002, dự các cuộc họp với những người Iraq tiền nhiệm và thiết lập một cơ quan đại diện ở đó vào tháng 10 năm 2002. Tin tình báo này đến nay vẫn chưa bị bác bỏ. Có thể lẽ ra chúng tôi nên chú ý nhiều hơn tới tầm quan trọng của nó, nhưng chúng tôi đã quá chú ý đến việc tránh phát ngôn sai lầm về al-Qaeda và Saddam đến mức thành ra đánh giá nó quá thấp, ít nhất là về phía nước Anh.)

Mối liên hệ với sự kiện 11 tháng 9 cũng xuất hiện theo cách này. Cơn sốc thật sự từ cuộc tấn công làm 3.000 người chết – vụ tấn công khủng bố đơn lẻ tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới – là ở chỗ nó thể hiện hệ tư tưởng của al-Qaeda về sự phá hủy không giới hạn, rằng lẽ ra con số đó có thể là 30.000 hoặc 300.000, như chúng mong muốn. Đây không phải cuộc tấn công khủng bố được xác định nhằm đạt được mục tiêu có thể định hình và trong tầm với; nó là lời tuyên bố cho một cuộc chiến mang mục đích tôn giáo một mất một còn. Vì thế nó thuộc về một trật tự khác với bất cứ trật tự nào mà thế giới đã đối mặt trước đó.

Cùng thời điểm đó, vụ việc về WMD cũng lớn mạnh dần. Một lần nữa, lịch sử được viết lại để áp đặt mẫu hình tệ nhất có thể lên hành động đã diễn ra, hầu như có vẻ toàn bộ sự việc về WMD đã trở thành hành động can thiệp thuận tiện để biện minh cho một quyết định vốn đã được đưa ra. Thực ra, vấn đề làm giàu – và không chỉ làm giàu hạt nhân mà cả các vũ khí hóa học và sinh học – chính là nguồn gây ra căng thẳng leo thang thậm chí trước cả sự kiện 11 tháng 9. Vô số hiệp định và hiệp ước được ban hành thiếu tính bắt buộc. Những hoạt động của A. Q. Khan, nhà khoa học Palestine - người đã đưa Pakistan vào tình trạng chạy đua sử dụng vũ khí hạt nhân, là chủ đề trong nhiều cuộc thảo luận, tranh cãi và quan ngại sau cánh gà của giới tình báo. Công nghệ của ông ta rao bán. Chúng tôi chắc chắn rằng một số quốc gia như Lybia có sở hữu các chương trình hóa học hoặc sinh học hoặc hạt nhân đang hoạt động.

Sau ngày 11 tháng 9, người ta suy nghĩ thế này: nếu những nhóm khủng bố có thể tăng cường tiềm lực WMD, liệu họ có sử dụng nó không? Dựa trên dẫn chứng về ngày 11 tháng 9, thì câu trả lời là có. Vậy làm sao chúng ta có thể đóng cửa các hoạt động này? Làm sao chúng ta có thể gửi một thông điệp rõ ràng và sống động tới những quốc gia đang phát triển hay có thể sẽ phát triển loại tiềm lực đó rằng họ nên dừng lại? Làm sao chúng ta có thể cho thấy việc coi thường ý chí của cộng đồng quốc tế sẽ không được nhân nhượng thêm nữa?

Xét về mặt này, có một sự khác biệt không hữu dụng mà cũng chẳng khôn ngoan đang ngày càng phát triển. Thông thường và trước hết đối với trường hợp của Iraq, người ta sẽ nói: bạn đang theo đuổi sự thay đổi thể chế, hay là vũ khí WMD? Câu trả lời thực sự là một mặt, đây là những câu hỏi riêng biệt, nhưng mặt khác, tất nhiên, hai câu đó lại có liên quan tới nhau. Nếu Iran là một quốc gia dân chủ được lãnh đạo tốt đang có quan hệ hòa hảo với thế giới và đang muốn tăng cường tiềm lực về chế tạo vũ khí hạt nhân, thái độ của chúng tôi sẽ rất khác. Chúng tôi sẽ vẫn quan tâm và vẫn phản đối, nhưng ngữ cảnh của nguy cơ và mối đe dọa có thể được thay đổi đáng kể. Và nếu là quốc gia dân chủ, họ có thể đã không tìm kiếm một tiềm lực như thế. Nói cách khác, sự dự đoán nguy hiểm được phần nào điều khiển bởi sự đánh giá đối với chế độ cầm quyền. Theo một nghĩa rất sâu sắc, người ta đã tìm ra và đánh giá những tham vọng với WMD và đánh giá được những nguy cơ của nó chính trong chế độ của Saddam.

Một ví dụ cho lối tư duy rối ren này có thể được tìm thấy ở việc liên tục thông báo rằng trong khi nước Mỹ có chính sách thay đổi chế độ, nước Anh lại có chính sách liên quan đến WMD. Vì thế, người ta nói rằng, chúng tôi đang ở hai mặt khác nhau của một lập luận và cuối cùng nước Anh đã được kéo dần về phía lập trường của nước Mỹ.

Việc tham khảo Đạo luật Giải phóng Iraq năm 1998 do Tổng thống Clinton thông qua sẽ có tác dụng cung cấp thêm thông tin. Vào lúc đó, chính sách của Mỹ trở thành vấn đề thay đổi chế độ, nhưng nếu vậy − như đã nói rõ trong Đạo luật – là do vấn đề WMD và sự vi phạm hiến chương LHQ của Saddam. Nó không liên quan tới tư tưởng đạo đức chống lại Saddam; chính xác là nó nhằm giải quyết mối đe dọa WMD và làm khơi dậy ý chí của cộng đồng quốc tế thông qua hành vi bất tuân của hắn.

Vì thế, trong lúc hậu quả của ngày 11 tháng 9 còn dữ dội trên thế giới và tôi, trong vai trò người lãnh đạo, đang dự tính những nguy cơ tiềm ẩn trong tương lai, khả năng những kẻ khủng bố phát triển được WMD luôn thường trực trong tâm trí tôi.

Đúng là, trên một số khía cạnh, bạn có thể nói rằng những nhóm như al-Qaeda và các chế độ như chế độ của Saddam không nằm trên hai mặt đối lập. Al-Qaeda nhằm vào các Chính phủ và thường là những Chính phủ trong thế giới Ả Rập. Các Chính phủ − và đặc biệt là những nền dân chủ độc tài − từ xưa đã không thích và không tin tưởng những kẻ hoạt động bên ngoài tầm ảnh hưởng của họ. Chủ nghĩa cuồng tín có hại cho hệ thống trị vì thông qua luật lệ được áp đặt bằng nắm tay sắt. Tất cả những điều này đã đúng và hiện vẫn đúng.

Nhưng tôi nghĩ rằng mình có thể nhìn sâu xa hơn, rằng ở một mức độ nhất định, dưới vẻ bề ngoài, vẫn có một liên minh được hình thành giữa những nước yếu thế và các nhóm khủng bố. Có một kẻ thù chung: phương Tây và các đồng minh của họ trong thế giới Ả Rập và đạo Hồi. Họ có chung một nỗi sợ hãi đối với văn hóa, thái độ và tư tưởng của người phương Tây. Điều này cũng có lý, vì sự dung nạp tư tưởng đó chính là mối đe dọa về vật chất đối với họ. Có một lý do khiến Saddam và tất cả các lãnh đạo Ả Rập đều khăng khăng chống lại bước đầu kiến thiết nền hòa bình cho người Saudi, được thiết lập bằng lòng dũng cảm của Thái tử Abdullah vào năm 2002. Hòa bình giữa Israel và Palestine là mối đe dọa với tất cả những người cực đoan, giống như ngày nay. Lẽ ra nó có thể mang ý nghĩa cùng tồn tại nhưng với những nhóm người như al-Qaeda, đây lại là một lời nguyền. Còn với những chế độ như của Saddam, đó là mối đe dọa. Một khu vực bình ổn, trên công cuộc cải cách, sẽ không phải là một khu vực dễ cai trị đáp ứng được ý nguyện của Saddam và các con trai mình.

Việc có chung một kẻ thù đã được củng cố bởi một loạt thái độ: sự thờ ơ đối với mạng sống con người; sự biện minh cho việc giết người hàng loạt để đạt được những mục đích đáng ghê tởm đối với hầu hết mọi người; và sự hào hứng viện dẫn tôn giáo và lịch sử của đạo Hồi để theo đuổi những mục đích như vậy.

Liệu một người như Saddam có muốn al-Qaeda trở nên lớn mạnh trong phạm vi Iraq? Chắc chắn là không. Liệu ông ta có chuẩn bị sử dụng họ bên ngoài Iraq? Rất có thể. Liệu có một nguy cơ thực sự của hành vi làm giàu vũ khí, không chỉ từ Iraq mà còn ở những chỗ khác, lọt vào các nhóm khủng bố vốn không hề chống đối việc sử dụng WMD? Chắc chắn, tôi đã nghĩ như vậy.

Thực ra, tôi vẫn nghĩ vậy. Đã bao lần tôi nghe thấy, xét về phía Chính phủ Iran, có người nói với tôi rằng người Shia sẽ không bao giờ hình thành liên minh với các nhóm người Sunni ở Trung Đông? Nhưng khi họ phát hiện ra rằng nó phục vụ một mục đích chiến lược, họ thực hiện – vì họ chia sẻ với những nhóm này niềm thích thú với tình hình bất ổn và sự căm ghét những giá trị ‘phương Tây’, điều mà họ xem như là một mối đe dọa lâu dài đối với sự khống chế quyền lực của mình.

Tôi cũng cảm thấy Trung Đông nên được xem như là một khu vực mà những vấn đề của nó liên quan mắt xích với nhau và gặp phải thách thức cơ bản: đất nước này đang cần cấp thiết một quá trình hiện đại hóa. Nó là sự hòa trộn đáng báo động của các thành phần gây nguy hiểm: một quan điểm lầm lạc về tương lai; một câu chuyện về đạo Hồi hiểu theo nghĩa tốt nhất là không đầy đủ và theo nghĩa xấu nhất là nguy hiểm; và được cai quản bởi những chính quyền lẽ ra có thể là đồng minh của phương Tây nhưng hóa ra lại nằm dưới áp lực nội bộ nặng nề. Các nhà lãnh đạo thường có động cơ tốt, nhưng lại cổ xúy những hệ thống bất ổn sâu sắc đến hiển nhiên. Vì thế các nhà lãnh đạo có thể rất cởi mở với phương Tây, nhưng xã hội của họ lại không thế. Cuộc đàm luận giữa những lãnh đạo trong thế giới đó và trong thế giới của chúng tôi có thể đi đến thống nhất về nhu cầu nhổ sạch tận gốc rễ chủ nghĩa cực đoan, nhưng cuộc chuyện phiếm trên đường phố của họ lại thường xuyên đại diện cho chủ nghĩa cực đoan đó.

Điều này được minh họa bằng thái độ với Israel. Các nhà lãnh đạo về cơ bản đều muốn hòa bình. Điều trước kia từng được dùng như một lời kêu gọi giờ đây lại trở thành khó chịu và hơn nữa trở thành một nguồn bất mãn nội bộ. Trong khi có lúc họ muốn tận dụng vụ việc, nhưng giờ chỉ muốn xử lý nó, “quét” nó khỏi đường đi, khỏi chương trình nghị sự. Và mặc dù tại thời điểm đó, Iran được xem là ít gây đe dọa hơn (một điểm họ sẽ đưa ra để chống lại cuộc chiến Iraq), thậm chí từ lúc đó đã có một sự lo lắng không ngừng về tầm ảnh hưởng và ý định của Iran. Họ có thể không thích Israel, nhưng không bao giờ lo sợ nó. Iran là một nỗi lo âu của tất cả những trật tự khác.

Nhưng, dù chỉ đọc lướt các tiêu đề báo chí địa phương ở Ả Rập cũng cho thấy, ở mức độ đường phố và giữa những bài bình luận của giới tri thức, Israel bị căm ghét. Nó trở thành một phương tiện để truyền dẫn nhu cầu thay đổi chủ quan, bằng cách tập trung năng lượng và cam kết chính trị vào một mục đích khách quan, một sự bất công không chỉ với người Palestine mà cả với đạo Hồi ở bất cứ đâu, một bằng chứng quan trọng và bền bỉ cho thấy phương Tây không thân thiện với lợi ích của người theo đạo Hồi và với chính đạo Hồi.

Như tôi đã lập luận trên đây, sự kết hợp dễ gây kích động nhất mà giới chính trị biết đến là một dân tộc phải đối mặt với lựa chọn giữa Chính phủ không dân chủ nhưng có tư tưởng đúng và phong trào phổ biến có tư tưởng sai. Sự lựa chọn đó luôn luôn xuất hiện trong và ngoài phạm vi khu vực. Trong trường hợp của Saddam, điều này gần như đảo lộn, có nghĩa là tầm ảnh hưởng của hắn trong khu vực vừa tiêu cực vừa phản tiến bộ với những người muốn đưa người dân của họ vào cuộc hành trình tới tương lai như nhiều nước vùng Vịnh.

Tôi nhìn vào tình hình khu vực và cảm thấy các cơ hội cho một cuộc thay da đổi thịt chắc chắn là không cao, thậm chí còn tệ hơn nếu Saddam vẫn còn quyền lực. Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu thuật ngữ ‘neocon’ nghĩa là gì. Trước sự sửng sốt của tôi, người ta giải thích rằng: Nó có nghĩa là sự áp đặt nền dân chủ và tự do, điều mà tôi cho là kỳ cục vì nó giống như bản chất đặc trưng của sự “bảo thủ’’. Nhưng qua phân tích, nó thực sự là một quan điểm cho rằng sự đổi mới toàn bộ là bất khả thi, rằng khu vực cần được tái sắp xếp một cách cơ bản.

Thông điệp liên bang của George Bush vào tháng 1 năm 2002 nổi tiếng với nhận định về ‘‘trục ma quỷ’’, nối Iran, Iraq, Syria và Bắc Triều Tiên với nhau. Nó cho thấy nước Mỹ đã quyết tâm thay đổi thế giới, chứ không chỉ lãnh đạo nó; và, như trường hợp Afghanistan đã minh chứng, có thể huy động vũ lực nếu cần.

Từ phương diện của tôi, có hai điểm bất lợi đối với cách thể hiện luận đề của những người ủng hộ thông điệp này. Thứ nhất, bằng cách gói nó trong ngôn ngữ đảng phái – ‘‘neocon’’ – nó sẽ gây ra những vấn đề hiển nhiên cho những người đến từ phe tiến bộ trong giới chính trị, như tôi chẳng hạn. Thứ hai, như đã nói trong bài diễn thuyết tại hội nghị tháng 9 năm 2001, tôi tin rằng hiến chương về vấn đề của người Palestine có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt để giải quyết cuộc chiến ở quy mô rộng này. Nó không châm ngòi cho chủ nghĩa cực đoan, nhưng việc giải quyết nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cục diện của trận chiến loại bỏ nó.

Tuy nhiên, khi đặt các vấn đề này sang một bên, tôi đã đi đến cùng một kết luận từ lập trường tiến bộ, giống với George từ lập trường bảo thủ, rằng khu vực này cần một sự thay đổi cơ bản và sự thay đổi này phải mang một tính chất mới. Vào những năm 1980, chúng tôi đã trang bị vũ khí cho Saddam vì chúng tôi có những kẻ nổi loạn ở Afghanistan, để có thể ngăn chặn Iran và Liên Bang Xô Viết. Đây là một bước tiến khôn ngoan nhưng lại là một sai lầm trong chiến thuật. Nhưng lần này, chúng tôi sẽ mang lại dân chủ và tự do, trao lại quyền lực cho người dân, giúp họ xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng tôi sẽ không đem đến những chủ nhân mới, mà đem đến cơ hội để họ trở thành chủ nhân, cũng giống như nhân dân của chúng tôi là chủ nhân của chúng tôi vậy.

Và chẳng phải chúng tôi đã chứng minh lý tưởng đó thực tế có thể đạt được hay sao? Ở Afghanistan người ta đang chuẩn bị cuộc bầu cử đầu tiên và Taliban ở thời điểm đó dường như đã bị trục xuất hoàn toàn. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của tôi, chúng tôi đã lật đổ Milosevic và thay đổi bộ mặt của Balkans. Ở Sierra Leone, chúng tôi đã cứu và sau đó giúp bình ổn nền cộng hòa sau những thiệt hại từ các cuộc chiến tranh kim cương. Chúng tôi có sức mạnh quân đội của nước Mỹ, chưa kể đến Anh và các nước khác. Saddam không có đường nào để chống trả: hắn chỉ có thể chịu thua, hoặc ra đi một cách tự nguyện, hắn nên biết rằng lựa chọn còn lại là sự tiêu trừ không tình nguyện.

Vì vậy, nếu có một thông điệp cần gửi về sự phản đối của cộng đồng quốc tế, nó nên được gửi cho Iraq. Nếu có một chính quyền có bản chất đáng lên án và thiên hướng gây xung đột quá rõ ràng, đó sẽ là chính quyền của Saddam. Nếu có một dân tộc đang cần được giải phóng, chắc chắn đó là Iraq.

Chuyện hóa ra không diễn ra theo cách đó. Chính xác là vì gốc rễ của cuộc chiến trên quy mô rộng hơn này bắt nguồn rất sâu, chính xác vì nó là một cuộc chiến bản năng sống còn giữa những người theo thuyết hiện đại hóa và những kẻ phản động, chín