← Quay lại trang sách

Chương 15 Iraq: Thời Hậu Chiến.

Với một chiến dịch quân sự mà phần lớn các luận điểm chính bị phản đối – do công chúng và giới truyền thông – thì vấn đề là ở chỗ này tiếp tục có một số luận điểm phải được chứng minh. Trừ phi họ có thể đứng vào vị thế trung gian và tiếp cận mâu thuẫn với mong muốn mạnh mẽ trong cả ý thức lẫn tiềm thức để chứng kiến nó thất bại. Tôi không nói với ý rằng coonh chúng mong muốn một thảm họa sẽ xảy đến với liên quân hay với người dân địa phương, nhưng họ đang quanh quẩn trong mâu thuẫn mà chưa được hòa giải. Họ cảm thấy, một cách mãnh liệt, rằng chiến dịch này hoàn toàn sai trái. Họ muốn nói rằng: chúng tôi đã nói với các ông rồi mà. Tuy nhiên, họ đã rất cố gắng để phản ứng lại – và trong trường hợp của Iraq, một vài người đã không cố gắng hết sức – họ nhìn nhận mỗi thất bại như những gáo nước lạnh dội vào những người ủng hộ hành động này. Điều này gây ra những hậu quả tất yếu cho các giai đoạn sau của cuộc chiến Iraq.

Ngay từ đầu, tôi đã rất muốn lùi cuộc tái điều quân dưới danh nghĩa LHQ càng nhanh càng tốt và nối lại mối liên minh liên Đại Tây Dương đang bị đứt đoạn. Nếu mọi việc khó khăn thì chúng tôi sẽ cần tới mối liên minh đó.

Việc hoạch định thiếu đúng đắn cho tình hình hậu chiến không rõ ràng tại Iraq đã được lưu trữ đầy đủ. Những bài học, được nêu lên trong bản báo cáo súc tính của trưởng phái đoàn Thanh tra của Mỹ vào năm 2009 và trong bản báo cáo Rand cùng năm đã được nghiên cứu, khảo sát và nhiều phần được học hỏi.

Chiến dịch quân sự để chinh phục là một thành công rực rỡ. Nhưng chiến dịch tái thiết cuộc sống cho người dân thì ngược lại. Nhưng việc thoát khỏi sai lầm lẽ ra có thể tránh được này, việc tránh né những thách thức khó lường, không thể đoán trước và những tác động mà nó có thể gây ra là một việc vô cùng khó khăn ngay cả trong thời điểm hiện tại. Nước Mỹ đã thừa nhận rằng kế hoạch tái thiết của họ rất yếu kém. Nước Anh có thể sẽ làm tốt hơn nhưng nói thẳng ra, với địa phận mà chúng ta kiểm soát, những kế hoạch được xây dựng khá là phù hợp và dù trong bất kỳ một sự kiện nào chúng cũng được xử lý nhanh chóng và khắc phục những sai sót còn tồn tại.

Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta đã có một kế hoạch cực kỳ tập trung và hoàn toàn phù hợp cho thời kỳ hậu chiến, thì điều này cũng có nghĩa là chúng ta cần phải tập trung nỗ lực hơn vào những thứ mà suy cho cùng không phải là nguyên nhân của đổ máu.

Những công đoạn chuẩn bị trước chiến tranh bao gồm ba vùng nguyên tắc có liên quan chính. Đầu tiên, chúng tôi lo ngại một thảm họa về nhân đạo khi một đất nước lệ thuộc vào những phiếu viện trợ thực phẩm và mất đi sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống phân phối của Chính phủ. Vấn đề này khiến chúng tôi cân nhắc khá nhiều và là chủ đề cho rất nhiều cuộc thảo luận trong nội bộ Chính phủ; giữa nước Mỹ và các đồng minh chính.

Thứ hai là về khả năng Saddam sử dụng vũ khí hóa học hoặc sinh học. Chúng tôi đã tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc cố gắng bảo vệ người dân khỏi nguy cơ đó. Trong cuộc chiến này, vì những lý do tất yếu mà điều đó đã không bao giờ xảy ra.

Cuối cùng, chúng tôi lo ngại rằng Saddam có thể “thả lửa” vào các mỏ dầu và tạo ra một thảm họa sinh thái nghiêm trọng. Điều này đã được ngăn chặn đúng lúc và được quân đội Anh can thiệp sớm trong chiến dịch.

Nếu chúng tôi không làm thế − chúng tôi phát hiện ra các dàn khoan dầu mọc lên và sắp bị thiêu rụi − hậu quả có thể xảy ra đó là toàn bộ khu vực phía Nam Iraq, các vùng đầm lầy, hệ sinh thái, động thực vật hoang dã và khu vực biển bao quanh sẽ bị ô nhiễm trầm trọng. Saddam đã đẩy cộng đồng người Marsh Arab, khoảng 100.000 hộ dân, ra khỏi khu vực đầm lầy mà họ sinh sống và bảo tồn, vì thế đã có những dấu hiệu cho thấy các khu vực đầm lầy đang dần biến mất. Nhưng một vụ dầu loang sẽ gây ra những hậu quả khủng khiếp hơn nữa cho khu vực này.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất với chúng tôi vẫn chính là chiến dịch quân sự. Hơn hết, về mặt lực lượng có vũ trang, chúng tôi lo ngại liệu quân đội của Saddam, với những cận vệ phe Cộng hòa đã nắm quyền kiểm soát đất nước với đặc quyền tối cao về sức mạnh, có chiến đấu đến cùng không. Thương vong trong tình huống đó sẽ rất lớn.

Vì thế chiến dịch bắt đầu. Trong một bản tuyên bố với Thượng viện vào ngày 20 tháng 3, sau đó Cộng đồng chung châu Âu vào ngày 21, 22 tháng 3, tôi đã vạch rõ những mục đích và các hành động sẽ được thực hiện đầu tiên.

Chúng tôi chỉ có bốn ngày để giải quyết mâu thuẫn này, vì thế cần phải tái khẳng định những mục tiêu cốt lõi của mình. Đó là hạ bệ Saddam Hussen, đảm bảo rằng đất nước Iraq được giải giáp mọi loại vũ khí từ hóa học, sinh học đến chương trình hạt nhân. Nhưng để đạt được những mục tiêu đó, chúng tôi cũng phải tính toán cả những yếu tố khác. Chúng tôi muốn thực hiện một chiến dịch có thể giảm thiểu tối đa những đau đớn mà người dân Iraq phải gánh chịu, đồng thời đưa cuộc chiến này về vị trí không phải là một cuộc xâm lược mà là giải phóng tự do. Vì lý do đó, chúng tôi đã không bắt đầu chiến dịch bằng một đòn phủ đầu với các cuộc ném bom, tiếp nối bởi một chiến dịch đổ bộ tiếp cận mặt đất. Thay vì thế, lực lượng mặt đất ngay lập tức hành động, bảo toàn các khu chế xuất dầu mỏ và duy trì các cơ sở vật chất chiến lược thay vì phá hủy chúng. Chiến dịch trên không được triển khai với các mục tiêu chính xác nên không thể tránh khỏi thương vong cho dân thường nhưng chúng tôi đã cố gắng hết sức để giảm thiểu con số đó. Nguồn nước và điện được sử dụng tiết kiệm. Các mục tiêu là các cơ sở hạ tầng, trung tâm chỉ huy của chính quyền Saddam chứ không phải dân thường. Chúng tôi đang nỗ lực hết sức để dọn đường cho nguồn cứu trợ nhân đạo mặc dù sự hiện diện của các mỏ dầu ít nhiều gây khó khăn cho chúng tôi.

Ngược lại, bản chất của chính quyền Saddam được bộc lộ rõ ràng qua hành động của họ. Kho dầu mỏ dồi dào bị khai thác tràn lan, thiếu hợp lý và khai thác đến cùng kiệt. Nếu chúng tôi không tấn công sớm, sự phồn thịnh của đất nước Iraq trong tương lai rất có thể chỉ còn là con số 0. Những tù nhân bị mang ra diễu trên các con phố bất chấp các cuộc họp quốc tế. Những người dám cất tiếng chỉ trích chính quyền sẽ bị hành quyết.

Ở phía Nam, mục tiêu của chúng tôi là đảm bảo an toàn cho các khu dầu mỏ tại bán đảo Al Faw, chiếm cảng Umm Quasr, cảng duy nhất của Iraq giao thương với thế giới bên ngoài và làm cho Basra - thành phố lớn thứ hai ở Iraq, trở thành một căn cứ quân sự kém hiệu quả của Saddam chống lại quân đội liên minh. Ở phía Tây, trên sa mạc, chúng tôi mong muốn ngăn chặn Saddam sử dụng khu vực này như một bàn đạp mở rộng gây hấn với bên ngoài. Ở phía Bắc, chúng tôi quyết tâm bảo vệ người dân ở khu tự trị người Kurd, các khu vực mỏ dầu và đảm bảo rằng khu vực miền Bắc không thể làm cơ sở cho sự kháng cự của Saddam. Sau đó, tất nhiên, mục tiêu quan trọng nhất là kiểm soát Baghdad càng sớm càng tốt, để nhanh chóng chấm dứt chế độ.

Tôi hy vọng Nghị viện sẽ hiểu rằng tôi không thể nói chi tiết về hoạt động của chúng tôi, đặc biệt là những người liên quan đến lực lượng đặc biệt, nhưng với thực tế lúc đó quân đội Mỹ và Anh chiếm được bán đảo Al Faw, thì điều dự đoán này đã được bảo đảm. Việc kiểm soát mỏ dầu ở phía Nam đã được phe liên minh khống chế. Cảng Umm Quasr, mặc dù liên tục bị ảnh hưởng bởi các nhóm đối kháng, vẫn nằm trong tầm kiểm soát của quân đồng minh, tuy nhiên, những tuyến đường thuỷ cần thiết cho các hoạt động viện trợ nhân đạo có thể bị chặn lại do mìn và việc này cần vài ngày để dọn sạch. Basra bị bao vây và không thể trở thành căn cứ Iraq, nhưng ở Basra, các lực lượng an ninh mạnh và trung thành nhất của Saddam vẫn đang lẩn khuất. Chúng đang bị kìm hãm, nhưng vẫn có thể gây thiệt hại cho quân đội của chúng tôi, vì vậy chúng tôi phải hành động thận trọng. Sân bay quốc tế Basra đã được đảm bảo an toàn. Sa mạc phía Tây cũng rất an toàn. Ở phía Bắc đã diễn ra các cuộc không kích vào các mục tiêu tại Móul, Kirkuk và Tikrit. Chúng tôi liên tục liên lạc với Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ và các cơ quan chính quyền người Kurd để trấn an họ.

Trong khi đó, lực lượng liên quân, dẫn đầu là Quân Đoàn số 5 của Mỹ đang trên đường tới Baghdad. Như chúng tôi đã nói, họ đang ở cách Baghdad khoảng 60 dặm về phía nam, gần Karbala. Họ đang tiến đến khu vực có thể sẽ chạm trán nhóm Medina của lực lượng Cảnh sát Cộng hòa, đang bảo vệ các tuyến đường tới Baghdad. Đó rõ ràng sẽ là một thời điểm rất quan trọng. Lực lượng liên quân tiến vào al-Kut, phía đông của Iraq. Hai cây cầu chính bắc qua sông Euphrates ở phía nam Baghdad được giữ nguyên vẹn. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng

Các chiến dịch không quân đều nhằm vào các căn cứ quân sự Iraq, trung tâm chỉ huy và kiểm soát của chế độ Saddam Hussein. Hơn 5.000 cuộc không kích đã diễn ra, hàng ngàn binh sĩ Iraq đã đầu hàng và nhiều binh sỹ rời khỏi trận địa, đơn vị của họ bị tan rã. Tuy nhiên, vẫn có những cận vệ gần gũi nhất với Saddam, những người đang kháng cự và sẽ kháng cự mạnh mẽ. Đó là những chiến binh cảm tử, những kẻ bị người dân địa phương căm ghét. Do đó, những ngày khó khăn đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước, nhưng chiến lược và lịch trình vẫn đang được tiến hành theo đúng kế hoạch.

Cộng đồng chung châu Âu bắt đầu bằng một thảm kịch. Tôi đã đến Brussels vào đêm khuya thứ Năm. Ngày 20 tháng 3, chúng tôi nghỉ đêm tại nhà Đại sứ Anh quốc, một ngôi nhà cổ xinh xắn kiểu Brussel thế kỷ XIX nằm ở khu thượng. Ở Brussels có nhiều khu rất đẹp (tiếc là không có bất kỳ tòa nhà nào của Liên minh châu Âu) và căn nhà này nằm ở một trong những khu như thế. Đó là một kiểu kiến trúc rất điển hình giữa thế kỷ XIX, với các phòng lớn, trần nhà cao và những cánh cửa đôi cao, thanh mảnh.

Tôi bị đánh thức dậy vào sáng sớm ngày thứ Sáu để nghe tin tám thủy quân lục chiến Anh và 4 binh sỹ Mỹ đã bị thiệt mạng trong một vụ va chạm máy bay trực thăng tại Kuwait. Đó là một dấu hiệu đáng ngại. Cho tới thời điểm đó, tại các căn cứ kết hợp ở Kosovo, Sierra Leone và Afghanistan, chúng tôi mới chỉ thiệt hại một số binh sĩ. Trong tôi dấy lên một cảm giác khủng khiếp rằng tình hình sẽ trở nên rất, rất khó khăn. Như mọi lần, tôi lại tưởng tượng cảnh các gia đình, những tiếng gõ cửa, các góa phụ đau buồn, trẻ em mồ côi cha, những bi kịch tột cùng đối với tất cả mọi người.

Cả Jacques Chirac và Gerhard Schroeder đến gặp tôi trước khi bắt đầu cuộc họp Hội đồng để bày tỏ lời chia buồn chân thành và cảm động. Tôi rất biết ơn họ về điều đó. Điều này cũng cho chúng tôi cơ hội được thảo luận về cách thức liên kết cộng đồng quốc tế lại với nhau.

Mục tiêu của tôi là thuyết phục Mỹ rằng ngay sau khi trận chiến kết thúc, toàn bộ tiến trình chính trị nên được đặt dưới quyền kiểm soát của LHQ. Sau đó, họ có thể giám sát các cuộc bầu cử. Họ sẽ có quyền ra quyết định chính thức, ngay cả khi rõ ràng sức mạnh thực tế thuộc về Mỹ. Sau đó chúng tôi có thể nói: Thôi được, chúng ta tất cả không đồng ý loại bỏ Saddam. Nhưng bây giờ ông ta đã chết, hãy đồng ý rằng tất cả chúng ta đều quan tâm đến một đất nước Iraq hòa bình, ổn định và thân thiện.

Về vấn đề này, phía Hội đồng đã đưa ra các ý kiến tốt hơn dự kiến. Hội đồng đã nhất trí nguồn lợi tức về dầu mỏ cần được uỷ thác cho LHQ gìn giữ cho người dân Iraq. Hội đồng đã thống nhất rằng LHQ cần phải có một sứ mệnh mạnh mẽ trong thời kỳ hậu xung đột và rằng Chính phủ lâm thời mới, lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ qua, nên đại diện cho tất cả các thành phần chính kiến của Iraq. Kể từ những năm 1960, người Shia (chiếm 60% dân số) và người Kurd (chiếm 20%) đã bị gạt ra khỏi quyền lực một cách triệt để thì bây giờ là cơ hội cho họ tham gia vào các hoạt động của đất nước mình.

Việc thuyết phục Mỹ khó khăn hơn. Colin Powell đã nhận được rất nhiều ủng hộ vì những lý do giống như tôi. Dick Cheney, Donald Rumsfeld và nhiều quan chức trong Chính phủ nghĩ rằng bộ máy hành chính cồng kềnh của LHQ sẽ chỉ làm mọi chuyện rắc rối thêm. Nhiệm vụ quan trọng hơn bao giờ hết là thuyết phục George. Chúng tôi có kế hoạch gặp gỡ nhau ngày 27 tháng 3. Tôi viết cho ông một bức thư chi tiết giải thích lý do tại sao LHQ phải tham gia vào vấn đề này. Tôi nhấn mạnh một lần nữa tầm quan trọng của tiến trình hòa bình Trung Đông. Khi gặp nhau tại trại David, chúng tôi đã thông qua từng dòng trong bức thư. Sau khi nghiên cứu bức thư một cách cẩn thận, ông đã xuống nước đồng ý đứng một bên LHQ. Điều này có vẻ tốt đẹp đơn giản, nhưng thực tế, đó là cả một cuộc đấu tranh để làm rõ bản chất của vấn đề.

Người Mỹ tin rằng LHQ đang làm kỳ đà cản mũi còn tôi tin rằng việc xây dựng một liên minh để giành chiến thắng là cần thiết và LHQ chính là xương sống của một liên minh như vậy. Đây không phải chỉ là vấn đề tiến hành một cuộc chiến tranh, cũng không phải là một cuộc chiến tranh thông thường mà là một cuộc chiến dịch du kích. Đã từng có rất nhiều các cuộc chiến tranh du kích trước đây nhưng bây giờ, với công nghệ, tin tức và phương tiện truyền thông hiện đại, thực tế của chiến tranh được hiển hiện hàng ngày hàng giờ, thậm chí trong phòng khách của mỗi gia đình trên khắp thế giới. Đó là mục tiêu của sự chú ý. Những gì mà khán giả nhìn thấy − và hơn hết, những lăng kính mà qua đó họ nhìn thấy, là một thành phần quan trọng quyết định người thắng, kẻ thua. Tất nhiên, dư luận luôn đóng một phần trong chiến tranh, nhưng giờ đây, truyền thông cũng nằm vùng với quân đội ở tuyến đầu. Mọi sự kiện đều có thể bình luận trực tiếp. Các cảnh quay không chỉ rộng hơn, mà còn có tính chất hoàn toàn khác so với những gì đã có trước đó. Đôi khi tôi tự hỏi liệu các cuộc chiến tranh trong quá khứ, bao gồm cả chiến tranh thế giới II, có thể diễn ra như vậy hay không nếu có các phương tiện truyền thông cùng với công nghệ của ngày hôm nay. Hãy nghĩ về những địa danh như Dresden hay Hiroshima.

Vấn đề là ở chỗ tác động trực quan của thực tế cuộc chiến hoàn toàn che khuất những phân tích, bối cảnh hoặc những lý giải. Nó trở thành một câu chuyện riêng của cuộc chiến bởi những hình ảnh quá gây sốc. Trong những hoàn cảnh đó, điều cốt yếu là câu chuyện lý giải tại sao chúng tôi làm điều đó, mục tiêu, mục đích là gì, lý lẽ đạo đức cũng như lý giải về chính trị địa lý, rất rõ ràng và được tương đối đồng ý và chấp nhận, miễn sao điều đó có thể áp đảo ảnh hưởng của truyền hình về cuộc chiến.

Điều này đúng với bất kỳ cam kết quân sự hiện đại nào. Đó là lý do tại sao việc xây dựng một liên minh nhằm lật đổ Saddam lại quan trọng và đó cũng là lý do tại sao, trên tất cả, việc tái hợp cộng đồng quốc tế hậu Saddam càng quan trọng hơn. Nếu vấn đề Iraq thời kỳ hậu Saddam có thể trở thành một nhiệm vụ chung cho tất cả chúng tôi, thì đúng là sẽ có những vấn đề phiền hà xoay quay bộ máy hành chính cồng kềnh của LHQ, nhưng bù lại sẽ có sự tham gia đáng kể của cộng đồng quốc tế. Hoặc, ít nhất, triển vọng về điều đó sẽ lớn hơn.

Rất khó có thể thuyết phục được George và thậm chí Dick còn khó khăn hơn nữa. Nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng có được sự đồng thuận “về nguyên tắc” rằng LHQ nên vào cuộc.

Tôi đã cố gắng gỡ dần hàng rào ngăn cách bằng việc từ trại David đi thẳng đến New York để gặp Kofi Annan. Tôi luôn tôn kính và có thiện cảm với Kofi. Tầm ảnh hưởng của ông trên khắp Iraq là điều không thể hình dung hết. Ông đã cố gắng hết sức để lèo lái cuộc chiến hợp lý. Tôi dám chắc, về cá nhân, ông phản đối hành động sử dụng vũ lực, nhưng ông đã hoàn toàn nhìn thấy ý nghĩa vai trò của việc LHQ trở lại và rất biết ơn tôi đã thực hiện các nỗ lực để gặp gỡ và tham khảo ý kiến ông.

Nhờ việc những lời chỉ trích thường xuyên đối với LHQ bị loại trừ và vì điều đó cung cấp cho bộ trưởng Phát triển quốc tế Clare Short một lý do mơ hồ về việc xin từ chức một vài tuần sau đó, thì cần chỉ ra rằng ngay từ đầu Kofi đã nói rõ là ông không tìm kiếm vai trò ‘dẫn đầu” của LHQ trong vấn đề này. Ông muốn LHQ ở trung tâm mọi việc, nhưng cũng nghĩ rằng không có cách nào khiến LHQ có thể đi đầu cho đến khi đất nước ổn định. Những gì ông muốn − vai trò “trung tâm” hay “vai trò quan trọng,” − là những gì ông nhận được.

Thời gian sau đó là những cuộc họp liên tục, cập nhật, đàm phán qua điện thoại và các bên đã đạt được những bước tiến ổn định về các lực lượng thực địa.

Tôi đã gặp gỡ nhóm nòng cốt bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng, những người đứng đầu cơ quan tình báo, Jack Straw và Geoff Hoon vào sáng sớm và sau đó họp Nội các Chiến tranh lúc 9 giờ. Các cuộc họp Nội các Chiến tranh được đánh dấu bằng việc Clare vẫn tiếp tục băn khoăn liệu bà ấy nên ở lại trong Chính phủ hay nên từ chức và từng vấn đề được thảo luận rất chi tiết. Tôi đã cố gắng hướng cuộc họp vào trọng tâm, nhưng thú thực điều này rất khó. Mặc dù vậy, tất cả mọi người đều bị lôi cuốn vào cuộc họp. Có một báo cáo nhận được sự ủng hộ của một số các nhân vật chủ chốt của các tổ chức dân sự mô tả rằng các sai lầm tại Iraq là do thiếu sự thảo luận thẳng thắn và đầy đủ ở nội các mở rộng. Điều này thực sự vô nghĩa. Tôi đã không có mặt trong chiến tranh thế giới II hoặc Falklands, nhưng nếu Winston Churchill, Margaret Thatcher đã từng làm mọi thứ thông qua các cuộc họp Nội các chính thức, thì tôi sẽ “đi đầu xuống đất”. Nó giống như bất kỳ bước đi nào của cuộc sống – bạn không thể quyết định dựa trên số đông. Bạn có thể tranh luận, thảo luận và tiếp thu quan điểm theo cách đó, nhưng bạn không thể tiến hành một cuộc chiến tranh, vận hành một tổ chức hoặc một công ty theo cách đó. Đơn giản là vì điều đó không áp dụng được, ít nhất, không phải theo kinh nghiệm của tôi. Nhưng cũng có thể đó là lỗi của tôi.

Các lực lượng Anh và Mỹ đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Thật vậy, từ ngày bắt đầu hành động 19 tháng 3 đến ngày Chính phủ của Saddam hoàn toàn bị vô hiệu hóa chỉ mất chưa đầy hai tháng. Thực tế, ngày 14 tháng Tư, trong một tuyên bố với Hạ nghị viện, tôi đã nói rằng mặc dù cuộc xung đột chưa kết thúc, nhưng về bản chất chế độ của Saddam đã sụp đổ. Đó là một chiến dịch được thực hiện bài bản và nhanh chóng chưa từng có. Tôi tóm tắt những gì đã đạt được cho tới thời điểm đó:

Nam Iraq hiện nay chủ yếu nằm dưới quyền kiểm soát của Anh. Khu vực phía tây an toàn và tại thị trấn chính Al Qaim tranh chấp đang giảm. Ở phía Bắc, lực lượng người Kurd đã rút khỏi Kirkuk và Mosul, để lại quyền kiểm soát cho Mỹ. Lực lượng Mỹ đang tập kết quanh Tikrit. Họ đang gặp phải một số kháng cự. Tuy nhiên, về bản chất, khắp đất nước Iraq, lực lượng của Saddam đã sụp đổ. Phần lớn những tranh chấp còn lại, đặc biệt là ở Baghdad, đang được các lực lượng nước ngoài không chính quy giải quyết. Ngay chính tại Baghdad, người Mỹ đã kiểm soát hầu hết các phố, nhưng chưa phải tất cả.

Rõ ràng, vấn đề bây giờ là tình hình hỗn loạn sau khi chế độ độc tài sụp đổ. Nói một cách thẳng thắn, sự rối loạn này là điều không thể tránh khỏi. Nó sẽ xảy ra trong bất kỳ tình huống nào khi hệ thống chính quyền và cảnh sát tàn bạo, trong suốt 30 năm đã khủng bố và kiểm soát dân chúng, bỗng nhiên bị lật đổ. Cướp bóc diễn ra cũng là nhằm vào các mục tiêu cụ thể của chế độ, bao gồm cả các bệnh viện được sử dụng cho mục đích riêng của hệ thống cai trị. Nhưng đó là một tình huống nghiêm trọng và chúng tôi cần phải khẩn trương kiểm soát tình hình.

Basra cho thấy các vấn đề ban đầu có thể được khắc phục. Tôi đặc biệt tự hào về vai trò mà các lực lượng Anh, dưới sự lãnh đạo của Thiếu tướng Robin, đóng góp ở Basra.

Các kỹ thuật viên và nhà quản lý Iraq đang tự “quảng bá” mình với các lực lượng Anh.Chúng tôi đang cùng nhau khôi phục lại các dịch vụ quan trọng. Hầu hết các phòng khám y tế công cộng đang hoạt động trở lại. Lực lượng quân đội Anh đã phục hồi lại Bệnh viện đa khoa Al Basra và cung cấp các hỗ trợ y tế khác ở những nơi mà họ có thể. Khoảng 200 cảnh sát đã được huy động cho việc này. Tuần tra chung bắt đầu vào ngày 13 tháng 4. Ở các thị trấn lân cận, tình trạng cướp bóc đã chấm dứt hoặc đang giảm dần, tuần tra địa phương đang được tái lập và việc phối hợp với các hội đồng thành phố tiến triển khá tốt.

Con số thương vong cho một chiến dịch quân sự như vậy về phía nước Anh là không lớn – gần 30 sĩ quan hy sinh, thực sự đáng buồn, nhưng số lượng thiệt hại như vậy là thấp so với sứ mạng có tầm vóc như thế này.

Khi quân đội di chuyển qua miền nam, vừa kiềm chế sự kháng cự của người dân Iraq khu vực này và truy quét bất kỳ thành phần ly khai nào, đồng thời họ đã sửa chữa hạ tầng cơ sở như cầu, hệ thống điện, nước nhờ sự xuất sắc của đơn vị kỹ thuật hỗ trợ. Kế hoạch chi tiết đã được xây dựng để phục vụ cho các hoạt động tái thiết và sửa chữa. Mặc dù thái độ của Clare đã cản trở những nỗ lực dân sự, nhưng cam kết của quân đội đã bù đắp rất nhiều cho điều đó và trong bất kỳ trường hợp nào, nói một cách thẳng thắn, mọi thiếu sót của Clare đều có thể khắc phục được một cách dễ dàng, với tình hình an ninh được duy trì rất khả quan.

Những nỗ lực của Mỹ, thông qua Văn phòng Tái thiết và Hỗ trợ nhân đạo (ORHA), là một mớ hỗn độn. Mặt khác, cho đến khi lực lượng quân đội của Mỹ vào Baghdad và thực sự chứng kiến cuộc sống nơi đây thì dường như những gì họ có thể làm cũng giảm đi đôi chút. Tôi sẽ phân tích những nỗ lực đó tiến triển như thế nào. Nhưng ngay từ đầu, chúng ta nên biết rằng nếu nói lý do cho những khó khăn chồng chất tiếp theo là do thất bại của việc lập kế hoạch, liên quan đến năng lực dân sự nhằm xây dựng lại Iraq thì quá đơn giản. Điều đó không đúng. Thực tế đó là với tiền bạc và nỗ lực cam kết, bất kỳ sai sót nào cũng sẽ được khắc phục, nếu vấn đề đó liên quan đến hành chính hoặc nạn quan liêu. Sai sót thuộc về bên an ninh. Một số quyết định dân sự dường như chẳng có tác dụng và tôi sẽ nói về điều này sau. Nhưng quan điểm cho rằng đó là gốc rễ của vấn đề là hoàn toàn sai sự thật và ảo tưởng. Tôi e rằng bởi vì để rút kinh nghiệm cho các cuộc xung đột sau này, chúng ta phải nhận thức được những hạn chế của phương pháp tiếp cận đó. Việc tái thiết một đất nước rất quan trọng và cần thiết. Nó không thể diễn ra trong một môi trường bạo lực. Tôi thấy điều đó ở Iraq và Afghanistan. Tôi cũng nhìn thấy nó ở Gaza và khu vực Bờ Tây.

Vấn đề là nếu công tác chuẩn bị tốt hơn thì tình hình an ninh ở đó có thể tốt hơn hay không. Nếu sự chuẩn bị đó kéo theo nhiều lực lượng quân đội khác nhau tập kết tại Baghdad và những vùng lân cận, thì điều đó có thể đúng. Nhưng ở miền Nam, nơi đang có sự hiện hữu của quân đội Anh và chẳng bao lâu nữa sẽ có sự tham gia của 20.000 quân từ các quốc gia khác, thì điều đó chưa rõ lắm. Năm 2003, tình hình miền Nam Iraq tương đối yên ổn.

Nhưng tôi nghi ngờ việc bất kỳ thay đổi nào có thể ngăn chặn được các phần tử al-Qaeda và Iran mới nổi; và chính những nhân tố này trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến 2007 đã suýt đẩy quốc gia này xuống vực thẳm.

Trong những tuần đầu tiên, mọi việc dường như diễn ra theo kế hoạch. Chế độ đã không có hỗ trợ cho số đông dân chúng. Nhiều thị trấn tự tuyên bố mở cửa cho các lực lượng liên minh. Các nhóm tàn quân vẫn tiếp tục chiến đấu, nhưng không có cơ sở địa phương hỗ trợ, nên nhanh chóng bị loại bỏ và phía Nam – Shia và những phần tử chống Saddam khét tiếng – đã nhanh chóng bị chinh phục. Thật vậy, trước ngày 12 tháng 4, các nhóm cảnh sát địa phương đã tiếp tục hoạt động trở lại ở Basra.

Các quan chức đảng Baath bị bắt hoặc đầu hàng lực lượng Hoa Kỳ. Khi nhà tù khét tiếng Abu Ghraib – khi đó đã rất nổi tiếng và sau này còn nổi hơn – bị chiếm, người ta thấy nhà tù trống trơn. Saddam đã thả tất cả các tù nhân, ít nhất là các thành phần tội phạm. Đáng lẽ thông tin tình báo rằng Saddam đã cho phép al-Qaeda thiết lập một cơ sở bên trong Iraq vào đầu năm 2003 phải cảnh báo chúng tôi rằng chiến thuật của ông ta không phải nhằm chống lại siêu lực lượng của chúng tôi mà là để đất nước bị xâm chiếm và sau đó cố khiến đất nước rơi vào tình trạng hỗn loạn. Tới cuối tháng 4, một triệu người hành hương Shia đã tới tham dự lễ hội chính của người Shia ở Karbala, đó là điều mà trong thời Saddam bị cấm.

Ngày 27 và 28 tháng 4, mọi chuyện tạm thời yên ắng ngay cả ở Baghdad, yên ắng đủ để Tướng Garner, người đứng đầu ORHA có thể tổ chức một cuộc họp chính trị và tái thiết đất nước với hơn 200 đại biểu Iraq và đại diện của các quốc gia lực lượng liên minh. Vào cuối tháng 6, hội đồng chính trị mới của thành phố Basra được thành lập.

Trước đó, tôi đã đến thăm Basra ngày 29 tháng 5. Quân đội Anh đã rất xuất sắc. Tôi thấy các lực lượng tại Phủ tổng thống và sau đó tại cảng Umm Qasr. Cảng đã từng bị đóng cửa và giờ đang chuẩn bị được mở lại. Tiềm năng của cảng này rất lớn và không hề được phát huy trong suốt thời gian cầm quyền của Saddam. Đáng lẽ khu vực cảng này phải là một trong những cảng lớn nhất thế giới (nó đã từng như vậy trong thời hoàng kim của Iraq cổ xưa). Thời điểm đó, ngay trước khi rời nhiệm kỳ năm 2007, tôi đã thực hiện một bài phát biểu tại Emirates và dự đoán rằng Basra trong tương lai có thể giống như Dubai hay Abu Dhabi, điều đó đã khiến tôi bị nhiều người chế giễu. Nhưng sự thật hoàn toàn có thể và hôm nay người ta dự kiến hiệu suất của cảng sẽ tăng gấp đôi trong ba năm tới, sau khi đã tăng đáng kể so với dưới thời của Saddam.

Tôi đến thăm một trường học mới được quân đội Anh nâng cấp. Basra yên tĩnh và thanh bình. Ngược lên Baghdad, bức tượng Saddam bị giật đổ khỏi bệ và phá vụn. Đó là một khoảnh khắc tuyệt vời. Thật ngớ ngẩn, tôi trả lời phỏng vấn tờ The Sun và để mình bị kéo vào một nhận xét khoe khoang về việc suýt nữa thì tôi bị “truất ngôi” trong cuộc chiến. (Bạn có thể nghĩ việc đó ít quan trọng hơn nhiều so với những người lính mất mạng hoặc mạo hiểm cuộc sống của họ). Nhưng rút cục, tại thời điểm đó, chiến dịch rất khó khăn và căng thẳng, nhưng đã thành công và trôi qua nhanh. Đến cuối tháng, khoảng 500 binh sĩ liên minh đã bị thiệt mạng, hơn 400 trong số đó là lính Mỹ và khoảng 8.000 lính Iraq đã bị thiệt mạng, một con số khá đáng kể trong tổng số lính đã tham chiến của họ.

Thảm họa nhân đạo đã không xảy ra. Các mỏ dầu đã được bảo vệ. Sự kháng cự của lực lượng theo Saddam bị sụp đổ. Những cảnh báo về định mệnh đã lạc hướng.

Chúng tôi nghĩ rằng mình đang ở giai đoạn cuối của chiến dịch quân sự quan trọng. Song trên thực tế, chúng tôi mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu của thứ mà sau đó đã chuyển biến thành một giai đoạn hoạt động khác hẳn, nhưng lần này rất khó khăn, đẫm máu, kéo dài và trong những năm tháng đó, có những chúng tôi chẳng dám chắc về tương lai, thậm chí ngay hiện tại cũng mong manh.

Trong giai đoạn này, việc thiếu vắng sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế trong quyết định ban đầu và quyền lợi đảm bảo bất di bất địch của nhiều người để chứng minh rằng việc đó là một sai lầm, đã cực lực chống lại chúng tôi. Tôi đã nếm trải điều này trong một chuyến thăm Nga vào cuối tháng 4. Vladimir Putin đã phát động một cuộc tấn công cay độc tại buổi họp báo, thực sự bằng cách sử dụng nước Anh như người đại diện cho Mỹ và rồi sau đó trong bữa tối, chúng tôi đã có một cuộc tranh luận căng thẳng gần như nảy lửa. Putin đã bị thuyết phục rằng nước Mỹ được xếp đặt trong một quá trình đơn phương, không phải vì mục đích thực tế tốt đẹp, mà là vấn đề về nguyên tắc. Ông nhắc đi nhắc lại rằng “Giả sử chúng tôi hành động chống lại Georgia, là cơ sở của chủ nghĩa khủng bố chống lại nước Nga – ngài sẽ nói gì nếu như chúng tôi loại trừ Georgia? Ấy thế mà người Mỹ nghĩ rằng họ có thể làm bất cứ điều gì với bất cứ ai mà họ muốn. Chechnya là một ví dụ khác, mặc dù như tôi đã chỉ ra, tôi đã thực sự ủng hộ việc đàn áp khủng bố ở đó.”

Sau đó tôi nhận ra ông ấy có cảm giác sâu sắc rằng Nga đã bị Mỹ qua mặt và quả quyết rằng rồi cuối cùng họ sẽ thấy đó là một sai lầm. Khó khăn là ở chỗ tôi không đồng tình lắm với ông ấy về chủ nghĩa đơn phương. Sự thật là tranh chấp giữa Ấn độ và Pakistan về vấn đề Kashmir đã nổ ra thành bạo lực không thường xuyên và có khủng bố ở Pakistan. Nhưng, dù cho các thành phần của các tổ chức Nhà nước có thể tham gia vào, thì cũng khó có thể nói rằng Chính phủ Pakistan là một Chính phủ khủng bố, hay Pakistan là một Nhà nước bất hảo. Vấn đề của Trung Quốc với Đài Loan là vấn để thống nhất nội bộ Trung Quốc. Đó là không thực sự là một mối đe dọa từ bên ngoài đối với bất kỳ ai. Chechnya cũng rơi vào tình trạng tương tự, nhưng nói một cách thẳng thắn nếu Mỹ hoặc Anh can thiệp vào vấn đề Iraq sâu sắc như Nga tại Chechnya, thì chắc chắn tình trạng hỗn loạn sẽ xảy ra.

Tôi tôn trọng Vladimir vì ông đã nói thẳng suy nghĩ của mình. Mặc dù chúng tôi bất đồng quan điểm nhưng vẫn giữ một thái độ cởi mở. Tuy nhiên, cơ hội để tiến tới một mối quan hệ đối tác Mỹ - Nga thực sự mạnh mẽ đã mất. Nếu tôi là Mỹ, tôi sẽ không cho phép điều tương tự xảy ra với Trung Quốc. Hãy ràng buộc họ lại và đối xử với họ một cách bình đẳng, không phải chỉ về hình thức mà là cả về bản chất.

Có một vấn đề cấp bách và đáng hổ thẹn hơn. Chúng tôi đã hành động tích cực để tìm kiếm các vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chúng tôi chắc chắn rằng mình sẽ tìm thấy chúng. Đấy là khoảnh khắc mà tôi chờ đợi. Khoảnh khắc đó sẽ đánh dấu một sự kiện lớn.

Khi quân đội tiến sâu hơn vào Iraq, chúng tôi nhận được báo cáo hàng ngày. Đôi khi, chúng tôi cố gắng kiểm tra các nhà máy hoặc các địa điểm và gặp trở ngại. Lần khác, chúng tôi nghĩ đã tìm thấy gì đó nhưng lại thất vọng. Tuần lại tuần trôi qua, tôi càng ngày càng trở nên sốt ruột. Vào trước chuyến thăm Basra cuối tháng 5, Donald Rumsfeld đã không nhiệt tình lắm và cho rằng chúng tôi sẽ không bao giờ có thể tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt, một dự đoán mà hóa ra là đúng nhưng cần phải được xử lý một cách thận trọng.

Khi ở Basra, tôi gặp Jerry Bremer, người vừa mới tiếp quản việc vận hành ORHA, sắp tới sẽ là Cơ quan Liên minh Tạm thời (CPA). Tôi nói với ông ta rằng không nên ngần ngại yêu cầu hỗ trợ từ chúng tôi và khuyên ông ta sử dụng chiến thuật tương tự với lãnh đạo của mình. “Đừng ngại,” tôi nói. “Nếu anh cần điều gì, anh phải nói. Tôi sẽ hỗ trợ anh và chắc rằng ngài chủ tịch của anh cũng vậy.” Không ngạc nhiên khi ông ta có vẻ hơi choáng, nhưng dường như ông ta là người rất chắc chắn và được việc.

Tuy nhiên, sau cuộc nói chuyện đó, tôi nỗ lực gấp đôi trong việc giúp đỡ, không chỉ trong lĩnh vực hoạt động ở Basra, mà còn ở tất cả các lĩnh vực khác mà chúng tôi có thể, nhằm hỗ trợ Mỹ với phần còn lại của đất nước. Điều này đã trở thành mối bận tâm chính của tôi trong những tháng sau đó.

Chuyến thăm đó thực sự là một cú đánh thức tỉnh. Mặc dù có thể thấy rất nhiều chương trình đang được thực hiện, chúng tôi có nguy cơ giành chiến thắng và sau đó sẽ mất đi sự bình yên. Mong đợi của người dân rất lớn. Sự phức tạp của cuộc sống bộ tộc và tôn giáo biểu hiện rõ. Đây là một thách thức rất lớn và không có bất cứ cứ lý do gì kể cả vì tự mãn để lẩn tránh.

Khi trở về, tôi đã triệu tập các bộ trưởng quan trọng và đã đưa ra một loạt chỉ đạo để chúng tôi giúp đỡ Mỹ tốt hơn. Chúng tôi đã nghĩ rằng họ sẽ đảm nhận khu vực miền trung Iraq và chúng tôi đảm nhận miền nam. Tôi nhận ra sau chuyến thăm rằng nếu họ không thành công, chúng tôi cũng sẽ thất bại. Tôi cử John Sawers, cựu cố vấn chính sách đối ngoại chủ chốt của tôi, tới Baghdad. Ông ấy cũng kết luận rằng chiến dịch của Mỹ cần sự thúc đẩy mạnh mẽ. Tôi cũng đã gửi một lưu ý mạnh mẽ tới George và sau đó chúng tôi nói chuyện qua điện thoại.

May mắn thay, ngày 22 tháng 5, LHQ đã nhất trí thông qua Nghị quyết 1483, nghị quyết đã mang đến cho LHQ một vai trò quan trọng trong tất cả các vấn đề liên quan đến sự phát triển của Iraq. Nó đưa chúng tôi trở lại con đường đa phương. Tôi đã đưa ra lý lẽ mạnh mẽ cho việc bổ nhiệm một đặc vụ hàng đầu của LHQ tới Baghdad. Sau khi cân nhắc, Kofi đã đồng ý. Theo sự đốc thúc của tôi, ông ấy đã chọn Sergio Vieira de Mello, ủy viên cao cấp về nhân quyền, một người giàu kinh nghiệm và những đóng góp hàng đầu.

Tuy nhiên, sự chú ý của tôi chẳng bao lâu chuyển hướng sang lĩnh vực khác. Ngày 29 tháng 5, chương trình Today (Hôm nay) của BBC tiết lộ câu chuyện được quan tâm hàng đầu từ phóng viên quốc phòng Andrew Gilligan. Trong câu chuyện, ông chú trọng đến tuyên bố 45 phút trong hồ sơ tháng Chín năm 2002. Như tôi đã nói, tuyên bố này nằm trong hồ sơ và ngày hôm sau, nó đã được một số báo nhấn mạnh dưới một hình thức mà đáng lẽ chúng ta khi nhìn lại, phải sửa chữa. Tuy nhiên, sau đó nó không còn được báo chí nhắc đến nữa.

Tuyên bố đó hoá ra là sai lầm. Ngoài ra, tôi hoặc ngài Ngoại trưởng và thực ra là cả JIC đều không biết đó là có một cuộc tranh luận nội bộ tại Bộ Quốc phòng về điều đó. Một trong những người tham gia trong cuộc tranh luận, mặc dù không trực tiếp chịu trách nhiệm về hồ sơ, là Tiến sĩ David Kelly, một chuyên gia tình báo Bộ Quốc phòng với 20 năm kinh nghiệm.

Đài BBC đã không tuyên bố rằng ngành tình báo sai lầm trong vụ tuyên bố 45 phút. Gilligan nói rằng:

Điều mà một trong các quan chức cao cấp phụ trách xây dựng hồ sơ đã nói với chúng tôi là thật ra Chính phủ có lẽ đã biết rằng con số 45 phút là sai ngay cả trước khi Chính phủ quyết định đưa ra. Theo nguồn tin của chúng tôi, một tuần trước khi công bố, Phố Downing đã ra lệnh đánh bóng, làm nó thú vị hơn và bổ sung thêm nhiều dữ kiện.

Khó có thể có một cáo buộc nào gay gắt hoặc nghiêm trọng hơn tuyên bố này. Tình báo nhầm lẫn là một chuyện. Tình báo biết là nhầm lẫn nhưng vẫn công bố nó như là một dữ liệu chính xác là một vấn đề hoàn toàn khác. Đó không phải là một sai lầm, mà đó là vô đạo đức. Nhất là lại cáo buộc trực tiếp Số 10 phố Downing.

Khi xem xét năm vấn đề tách bạch nhau và tốn nhiều giấy mực của báo giới thì việc phải quay lại từng dữ liệu, từng luận điểm và cả những ảnh hưởng mà việc đó gây ra cho mọi người là một việc thực sự rất khó khăn. Tiến sĩ Kelly, một người đàn ông tốt và đáng kính đã mất đi mạng sống của mình. Hai lãnh đạo cao nhất của đài BBC, Greg Dyke và Gavyn Davies, phải từ chức. Alastair và nhiều quan chức đã trải qua nhiều tháng ngày như địa ngục vì đã có những lời khẳng định không đúng sự thật. Có lẽ sự toàn vẹn của riêng tôi không bao giờ được phục hồi từ đó. Hậu quả thật lớn. Hậu quả đó cũng kéo theo một vấn đề khác: sự khác biệt ý kiến về chiến tranh không còn là những tranh chấp bất đồng, mà là một tranh chấp luẩn quẩn về sự trung thực của những người tham gia. Một tình huống khó khăn đã trở thành một tình huống xấu.

Tất nhiên, như tôi đã nói, sự thật không thể tránh được đó là mặc dù Saddam chắc chắn có vũ khí hủy diệt hàng loạt, kể từ khi hắn sử dụng những vũ khí này, chúng tôi chưa bao giờ tìm thấy chúng. Tình báo hóa ra đã sai lầm. Nhưng đây cũng là điểm mà các mối quan hệ giữa chính trị và các phương tiện truyền thông hiện đại đóng một vai trò xúc tác rất quan trọng.

Các thông tin tình báo đã sai. Chúng tôi thừa nhận điều đó. Chúng tôi xin lỗi về điều đó. Thậm chí chúng tôi đã giải thích điều đó. Nhưng giải thích trên các phương tiện truyền thông ngày nay chưa bao giờ là đủ vì đó là một sự nhầm lẫn. Một sự nhầm lẫn nghiêm trọng. Con người đã phạm lỗi. Và, với lịch sử của Saddam, đó là một lỗi có thể hiểu được. Nhưng điều đó dẫn đến một tiêu đề mà không đáp ứng sự thèm khát các vụ bê bối hiện nay của giới truyền thông. Một lỗi lầm dường như không đủ hấp dẫn cho lắm. Vì vậy, người ta tìm kiếm một lời nói dối, một sự lừa dối, một hành động không phải là lỗi nữa mà là hành động phi pháp. Và vấn đề là, nếu điều này không có thì người ta hoặc là làm giả hoặc bịa ra nó.

Tôi không nói rằng chúng tôi xử lý tốt các cáo buộc. Nhưng đó là một quả pháo toàn cầu châm ngòi cho toàn bộ các lý thuyết âm mưu. Vào đúng lúc chúng tôi đang cần đoàn kết mọi người thì nó lại làm chia rẽ họ một cách rõ nét nhất có thể. Trước thời điểm đó, chúng tôi có sai sót, sau thời điểm đó, chúng tôi là những kẻ nói dối.

Các dữ kiện cơ bản, trên thực tế, rất đơn giản. Khi từng vấn đề lần lượt được tìm ra, mỗi một điểm nêu ra trong lần phát sóng ban đầu đều sai. Tuyên bố 45 phút đã không được bất cứ ai ở Phố Downing, hay trong Chính phủ đưa vào hồ sơ, ngoại trừ JIC. Chúng tôi đã không thể “biết điều này là sai” và chẳng ai biết cả. Chúng tôi không bao giờ ra lệnh là hồ sơ cần phải được đánh bóng, cường điệu lên. Tiến sĩ Kelly không phải là một trong những quan chức tham gia vào việc đó.

Tệ hơn nữa, Gilligan sau đó tiếp tục, trong một bài báo trên tạp chí Mail số ra ngày Chủ nhật, cáo buộc rằng Alastair là tác giả của toàn bộ tuyên bố này, tức là Al đã bịa ra nó, một cáo buộc đẩy Alastair lên hàng đầu của tất cả các cuộc biểu tình chống chiến tranh và thật là một việc khó tin, trừ phi bạn thực sự chắc chắn đó là sự thật, nhưng tất nhiên điều này hoàn toàn sai trái và đến lúc đó chính chúng tôi và JIC phải đứng lên và phủ nhận điều đó.

Chúng ta không bao giờ biết rõ liệu có hay không việc Tiến sĩ Kelly, người đã phủ nhận cáo buộc mặc dù ông thừa nhận từng nói chuyện với Gilligan, có tóm tắt cho ông ta về những lý lẽ để biện minh cho câu chuyện này hay không.

Nhưng những gì diễn ra tiếp theo đã tạo một mối tương tác giữa chúng tôi và các phương tiện truyền thông trong những năm sau đó. Mối quan hệ giữa bản thân tôi và BBC chưa bao giờ thực sự được phục hồi và các phương tiện truyền thông sau chuyện đó không có giới hạn.

Vấn đề là hệ thống phân cấp của BBC không thấy rằng đó không phải là một cáo buộc mà chúng tôi có thể bỏ qua. Hãy nghĩ xem, nếu các nhà lãnh đạo chính trị cứ phải đuổi theo mỗi câu chuyện sai lầm hoặc bị bóp méo về động cơ của họ, thì họ sẽ trở thành những chuyên viên phụ trách chất lượng của các thông cáo báo chí toàn thời gian. Nhưng điều này khác nhau về bản chất. Người ta phải gắn bó cả đời với Iraq. Họ có thể tha thứ cho một lỗi. Họ không thể tha thứ cho một sự lừa dối. Ngoài ra, điều đó có nghĩa là tôi đã cố tình lừa dối Hạ viện, điều đó đồng nghĩa với việc từ chức và nhục nhã.

Ngay từ đầu, tôi đã cố gắng để Greg và Gavyn xem xét vấn đề. Đây là lúc mà tình bạn của tôi với cả hai là một trở ngại chứ không phải là một sự trợ giúp. Tạp chí Mail đã tiến hành một chiến dịch nhằm vào họ như những vai phụ. Họ muốn chứng minh sự độc lập của mình. Cá nhân Greg cũng phản đối chiến tranh và thực sự không thấy rằng với vai trò là Tổng giám đốc của BBC, ông phải duy trì quan điểm trung lập.

Tất cả những điều mà tôi cần là họ phải chấp nhận rằng câu chuyện hoàn toàn là bịa đặt. Họ có thể tấn công Chính phủ nếu muốn, nhưng những cáo buộc không chính xác nên được rút lại. Họ không làm như vậy. Gavyn nói đi nói lại rằng việc điều tra sự thật không phải là chức năng của các giám đốc BBC – một quan điểm kỳ lạ, vì đó chính xác là những gì mà họ đáng ra nên làm. Greg – người có thể trở nên rất bướng bỉnh – cố giữ quan điểm rằng việc phát sóng hoàn toàn đúng đắn bởi vì tuyên bố 45 phút là sai, đây là điều mà tôi vẫn thường nói là không phải vấn đề chính.

Dù sao, tôi có thể khiến các bạn chán ngấy lên bằng quan điểm của mình về vấn đề này và dĩ nhiên họ cũng có thể làm điều đó với tôi. Những gì xảy ra sau đó nghiêm trọng và bi thảm hơn nhiều.

Cáo buộc của Gilligan đã kéo đổ một loạt những người khác. Ủy ban Ngoại giao quyết định điều tra và chúng tôi phải bước vào một trận chiến sáu tháng vô cùng tốn thời gian, mệt mỏi, chán nản và mất nhiều công sức để lấy lại danh tiếng cho cả một tập thể.

Đầu tháng 7 mọi việc trở nên rõ ràng hơn rằng đâu là nguyên nhân cho câu chuyện của Gilligan. Tiến sĩ Kelly đã tự lên tiếng. Ông thừa nhận rằng mình cũng đã nói chuyện với Watts Susan của báo Newsnight, nhưng những bài báo của bà nhẹ hơn nhiều và không khích bác, dù những bài báo đó đã đưa ra một cáo buộc không đúng rằng có một cuộc tranh luận về tuyên bố 45 phút giữa tổ chức tình báo và phố Downing mà sự thực không phải như vậy. Chưa bao giờ có một cuộc thảo luận như thế về chủ đề này chúng tôi chỉ biết về điều đó khi JIC đưa nó vào hồ sơ.

Tôi sẽ không bao giờ biết chính xác điều gì đã khiến Tiến sĩ Kelly kết thúc cuộc sống của mình. Không ai có thể biết lý do đằng sau những điều này? Điều đó thật buồn, đáng tiếc và thật khủng khiếp. Ông đã trung thành và phục vụ đất nước tận tâm trong nhiều năm. Có lẽ, do không quen với sự căng thẳng do áp lực mà chương trình phát sóng của Gilligan tạo ra, ông cảm thấy bế tắc và có thể dễ bị tổn thương với kỷ luật nội bộ nếu vai trò của ông lộ ra. Tôi không biết và cũng chẳng nên suy đoán. Sau đó, tôi đã yêu cầu gặp gia đình ông tại Chequers, đó là những người rất đáng kính trọng và nhạy cảm. Sự trớ trêu kinh khủng là ở chỗ trong tất cả những tranh cãi đã xảy ra, chính tiến sĩ Kelly từ lâu đã là một trong những người ủng hộ việc loại bỏ Saddam.

Làm cách nào mà tên của tiến sĩ Kelly trở thành chủ đề một phần quan trọng trong điều tra của Hutton. Đó cũng là chủ đề của các cáo buộc độc địa của giới truyền thông, đặc biệt là đối đầu với Alastair. Báo chí đã gợi ý rằng ông đã vi phạm các hướng dẫn của Bộ Quốc phòng và làm rò rỉ thông tin. Ông không làm điều đó. Mọi việc chỉ đơn giản là khi chúng tôi biết đó là tiến sĩ Kelly và kể từ khi Uỷ ban Bộ Ngoại giao tham gia vào việc điều tra tuyên bố 45 phút và chương trình phát sóng, chúng tôi có nguy cơ bị cáo buộc tội che giấu, nếu biết nguồn rò rỉ thông tin và từ chối nói ra. Trên thực tế, toàn bộ sự việc được xử lý bởi những người quản lý liên ngành của tiến sĩ Kelly theo yêu cầu của tôi như thư ký thường trực Bộ Quốc phòng, Kevin Tebbit, Điều phối viên tình báo và an ninh David Omand của Văn phòng Nội các. Tên của ông được tung ra vào ngày 10 tháng 7 và không có gì ngạc nhiên, ngay lập tức, Ủy ban Ngoại giao cho biết họ sẽ chất vấn ông.

Ngày 15 tháng 7, ông được phỏng vấn. Ông phủ nhận việc mình có thể là nguồn gốc của câu chuyện Gilligan, bởi vì ông đã tranh cãi điều đó. Cụ thể, ông cho biết mình chưa bao giờ nghĩ hoặc nói rằng Alastair chịu trách nhiệm về việc bóp méo hồ sơ. Ủy ban Tình báo và An ninh (ISC) cũng tiến hành điều tra riêng. Ông cũng phải đưa ra bằng chứng cho họ và trong quá trình đó ông cho biết mình nghĩ rằng hồ sơ phản ánh công bằng tình trạng của tình báo, có thể sử dụng và được trình bày rất khôn ngoan và thực tế.

Tôi đã có một bài chất vấn Thủ tướng nháp trên mặt sau của nó ngày 16 tháng 7. Đài BBC đã từ chối nói tiến sĩ Kelly có phải là nguồn cung cấp thông tin của họ không. Ủy ban Ngoại giao đã quyết định rằng ông không phải là nguồn gốc thông tin và khiển trách Chính phủ. Tôi đã rất bực mình với lý lẽ của BBC. Họ có thể tổ chức tác nghiệp báo chí truyền thống mà không tiết lộ nguồn gốc cung cấp thông tin cho họ, nhưng rõ ràng đây là một trường hợp ngoại lệ. Trường hợp này, một người đang được mô tả nguồn đã cung cấp thông tin. Họ có thể xác nhận hoặc từ chối sự tham gia của mình. Họ không cần phải gọi tên đó là ai, nếu đó không phải là tiến sĩ Kelly. Chỉ cần nói rằng họ có một người khác. Nhưng, tất nhiên, họ đã không dám, vì nếu họ thừa nhận rằng chỉ có Tiến sĩ Kelly và vì ông đã từ chối nói những gì họ bị cáo buộc, họ sẽ phải ngừng phát sóng câu chuyện ban đầu và sẽ phải công khai xin lỗi nếu làm như vậy.

Tối hôm đó, tôi bay sang Mỹ. Ngày hôm sau tôi có bài phát biểu ở cả Hạ viện và Nghị viện. Đó là một thời khắc quan trọng. Tôi viết các bài phát biểu trên đường đi và buổi sáng hôm sau. Đó là một trong những bài phát biểu quan trọng nhất và thành công nhất mà tôi đã làm, theo đánh giá của cá nhân tôi.

... Đây là một trận chiến mà không thể chiến đấu hoặc chiến thắng bằng lực lượng vũ trang. Chúng ta sẽ mạnh hơn rất nhiều bằng tất cả các cách chiến đấu truyền thống, mạnh hơn những kẻ khủng bố, nhưng cho dù có mạnh hơn kẻ thù đi chăng nữa, chúng ta cũng phải học được khiêm tốn. Chắc chắn, chúng ta không thể chiến thắng các thế lực thù địch chỉ bằng sức mạnh quân sự. Vũ khí tối thượng của chúng ta không phải là súng, mà là niềm tin.

Người ta vẫn đồn đoán rằng, mặc dù chúng ta yêu tự do, nhưng những kẻ khác thì không; rằng sự gắn bó của chúng ta với tự do là sản phẩm của nền văn hóa của chúng ta; tự do, dân chủ, nhân quyền, thể chế pháp luật là những giá trị của Mỹ, hay các giá trị của phương Tây; phụ nữ Afgha chấp nhận cuộc sống hà khắc của Taliban, Saddam ít nhiều cũng được người dân của mình ưa thích, Milosevic là vị cứu tinh của Serbia.

Kính thưa các vị, những giá trị của chúng ta không phải là những giá trị phương Tây, đó là những giá trị phổ quát của tinh thần con người. Và ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào những người dân thường đều có cơ hội lựa chọn: tự do, chứ không phải chế độ độc tài; dân chủ chứ không độc đoán cực đoan, các thể chế pháp luật chứ không phải là các quy tắc của cảnh sát bí mật.

Sự lan truyền tự do là là đảm bảo tốt nhất cho những người dân tự do. Đây là lời cuối cùng của chúng ta về tự vệ và là lời đầu tiên của chúng ta về tấn công. Và cũng giống như khủng bố tìm cách phân chia nhân loại trong thù hận, chúng ta phải thống nhất nhân loại xung quanh một ý tưởng. Và ý tưởng đó là tự do. Chúng ta phải tìm ra sức mạnh chiến đấu cho ý tưởng này và lòng trắc ẩn để khiến nó phổ quát. Abraham Lincoln đã nói, “Những người từ chối mang lại tự do cho người khác không xứng đáng để có nó.” Và chính ý nghĩa của sự công bằng đó đã làm cho tình yêu tự do mang ý nghĩa đạo đức.

Trong một số trường hợp khi an ninh của chúng ta bị đe dọa trực tiếp, chúng ta sẽ phải viện đến quân đội. Còn nếu không, chúng ta sẽ dựa vào sức mạnh của lý lẽ. Nhưng dù là gì đi chăng nữa thì sự tự do mà chúng ta đang tìm kiếm không phải là cho một số người, mà là cho tất cả mọi người, bởi vì đó là con đường đúng đắn duy nhất dẫn đến chiến thắng trong cuộc đấu tranh này.

Và đây không phải là một cuộc chiến tranh của các nền văn minh, bởi vì mỗi một nền văn minh đều có một khía cạnh độc đáo riêng để làm phong phú thêm cho kho tàng di sản của con người. Chúng ta đang đấu tranh cho quyền bất khả xâm phạm của nhân loại − người da màu hay da trắng, người theo đạo Cơ đốc hay không, người theo cánh tả hay cánh hữu v.v… đều có quyền được tự do, tự do để nuôi gia đình trong tình yêu và hy vọng, tự do để kiếm sống và được hưởng thành quả nỗ lực của mình,tự do để không quỳ gối trong sợ hãi trước bất cứ người nào, tự do là bản thân mình chừng nào mà điều đó không làm phương hại đến tự do của người khác. Đó là những gì mà vì nó chúng ta đang chiến đấu. Và đó là một trận chiến đáng chiến đấu.

Và tôi biết rằng sẽ rất khó khăn cho nước Mỹ và ở góc nhỏ của đất nước rộng lớn này, ngoài Nevada hay Idaho hoặc những nơi mà tôi chưa bao giờ đặt chân tới, nhưng luôn muốn lên đường đến, tôi biết ở đó có một ai đó đang sống rất hạnh phúc, làm việcvà đang nói với các ngài, các chính trị gia của đất nước này, “Tại sao tôi? Tại sao chúng ta? Tại sao lại là nước Mỹ?”

Và câu trả lời duy nhất là, “Bởi vì định mệnh đã đưa bạn đến nơi này của lịch sử, trong khoảnh khắc này và đây là nhiệm vụ của bạn.”

Và công việc của chúng tôi, đất nước của tôi dõi theo sự phát triển của các bạn, dân tộc chúng tôi đang chiến đấu bên các bạn và bây giờ chiến đấu cùng các bạn và hành trang cần có là niềm tự hào to lớn trong liên minh cộng với tình cảm tuyệt vời của chúng ta, công việc của chúng tôi là có mặt ở đó cùng các bạn. Nước Mỹ sẽ không đơn độc. Chúng tôi sẽ ở bên các bạn trong cuộc đấu tranh vì tự do này. Và nếu tinh thần của chúng tôi là đúng đắn và lòng can đảm của chúng tôi là chắc chắn, thì thế giới sẽ đứng về phía chúng ta.

Lễ đón tiếp thật nồng nhiệt. Thính giả đứng dậy và vỗ tay, tổng cộng đến 35 lần và cũng làm vậy với các diễn giả của mình.

Thời gian sau đó, các dân biểu và thượng nghị sĩ thường xuyên đề cập điều đó với tôi. Có điều là: đã có một cuộc tranh luận về điều đó và mặc dù Đảng Cộng Hòa yêu thích các công cụ bảo mật nghiêm khắc, thì Đảng Dân Chủ lại có thể đồng tình về chương trình nghị sự lớn hơn trong bài phát biểu liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu, hòa bình Trung Đông, châu Phi và công bằng xã hội. Tuy nhiên, điều này phần nào đó cũng mô tả điểm yếu chính trị của tôi. Cánh hữu đồng ý một phần, cánh tả đồng ý một phần. Nhưng tổng thể thì chẳng được là bao!

Sau bài phát biểu, Cherie và tôi đã đi ăn tối với George và Laura, những người vô cùng lịch thiệp và hiếu khách. Tôi nghĩ rằng ông ấy thực sự ấn tượng với bài phát biểu và chúng tôi đã có một buổi tối thư giãn vui vẻ. Tại thời điểm đó, chúng tôi đã chiến thắng. Saddam đã bị loại trừ. Theo quan điểm của George, chế độ đã được thay đổi và tương đối dễ dàng. Theo tôi, LHQ đã được trở lại hợp tác và có triển vọng về sức mạnh đoàn kết của một cộng đồng quốc tế một lần nữa. Đó là buổi tối thoải mái cuối cùng dự tính về tình hình Iraq.

Chúng tôi ra về khá sớm. Alastair quay trở lại Anh. Tôi thì phải bay sang Nhật và Hàn Quốc để thăm 2 nước như đã hứa từ lâu. Cheire và tôi lái xe đến căn cứ không quân Andr