V - X
Mới đầu, chỉ dăm ba người trông thấy. Nhưng thoáng sau, nhiều người đang còn mê mải gặm xương cũng hay và đều quay nhìn về phía trại ngủ. Họ sững sờ rồi lộ vẻ kinh ngạc. Đằng xa, một hình người gầy ốm tong teo, loạng choạng từng bước, dường như muốn kiếm đường lên nhà tiểu công nghệ nhưng chưa nhớ ra lối nên vừa bước vừa nhớn nhác tìm kiếm. Người đó gầy lắm, chỉ có bề cao chứ không có bề ngang, bước chập chững như đứa trẻ tập đi, nhiều lúc xiêu vẹo tưởng té xấp té ngửa đến nơi mà vẫn gượng đứng vững được. Rồi lại tiếp tục bước. Con người dị hình đó mặc quần sà lỏn rách bươm, hai cẳng chân khẳng khiu như hai cây sậy đã chết khô, trên dưới bằng nhau chỉ có khúc đầu gối là lớn nhất. Trên mình đeo nham nhở nhiều mầu: Màu trắng cháo lòng, màu nâu bạc và mầu đen, mỗi màu là một áo và mỗi áo là hai ba màu
Một dải khăn trùm kín đầu quấn quanh cổ buộc múi dưới cằm cũng rách tơi tả.
Trời rét căm căm, gió thổi lật tung dải áo phía trước khiến người đó phải lấy tay chặn ngang bụng. Khi không, hắn ngồi thụp xuống, có lẽ chóng mặt nên thấy đưa tay lên ôm trán. Ánh nắng ngày đầu Xuân chiếu rõ vào mặt. Hai mắt hắn trũng sâu như lỗ đáo và nhắm nghiền.
Sự xuất hiện bất ngờ, và lạ lùng trên gây ra những tiếng than khe khẽ trong đám tù:
- Trời ơi! Trời ơi! 325 lần mò đi đâu thế kia?
- Tội quá, hắn tỉnh dậy hồi nào không ai biết!
- May ra thì sống được đấy!
Một người sốt sắn, nêu ý kiến:
- Đề nghị ông trưởng toán vào bếp xin cho hắn phần cơm hay cháo. Đầu năm, anh em ai cũng được hưởng bữa cỗ mà đồng cảnh 325 chẳng được miếng nào! Tội nghiệp!
Dăm, bẩy người động lòng trắc ẩn, rời mâm bước ra hiên, đứng ngó hình người quái gỡ nọ với vẻ thương xót pha lẫn tò mò. Thật ra, họ không ngờ giữa lúc mọi người cùng trại tin chắc tù nhân số 325 phải ‘’ngoẻo’’ trước khi mùa Xuân tới thì y sống lại và chập choạng bước đi dưới nắng Xuân như quỷ hiện hồn. Sức chịu đựng của người tù thật phi thường.
Tù nhân xì xào bàn tán về trường hợp quái đảm nọ...
Ngoài sân, bộ xương người lại run rẩy đứng lên, tiếp tục bước tới nhà tiểu công nghệ. Hình như từ bộ xương ấy có phát ra tiếng rền rỉ vì có người nghe loáng thoáng trong gió lạnh:
- Các...ông ơi! Cho tôi xin một miếng! Đói quá! Đói...quá!
Toàn rợn người trước người trước hình ảnh ghê rợn và tiếng rền rỉ như tiếng mèo gào đêm giữa buổi sáng mồng 1 Tết. Rồi thốt nhiên anh thấy thương xót lạ lùng.
Lúc đó, anh đã xong bữa. Hai mẩu xương thuộc phần của anh đã bỏ xuống mâm sau khi kỹ càng mút đi, mút lại cả chục lần. Đưa mắt nhìn bao quát một lượt trong trại. Toàn thấy vẫn còn người chưa xong bữa tiệc...xương. Phía sau lưng anh, mấy người cũng đã ăn xong nhưng vẫn cầm khư khư mẩu xương trong tay. Họ quay nhìn ra sân, nơi có hình người rách gầy ốm đang chận choạng bước.
Không ai biết rõ 325 bị tội gì, chỉ biết anh ta bị giam tại Trại Đầm Đùn đã hơn năm nay và ba tháng gần đây, ngay từ đầu mùa Đông anh ta mang bệnh, nằm liệt giường liệt chiếu. Nhờ có hạnh kiểm tốt, tính tình hiền lành, hay làm ít nói, xung phong hăng nhất, nhiều thiện chí học tập nên mặc dầu ốm đau không sản xuất cho trại, anh ta vẫn được bỏ mặc cho sống lay lất. Bất cứ người tù nào mang bệnh như anh là cầm chắc cái chết rồi. Vì ban quản trị trại giam chỉ ra lệnh cho nhà bếp một tiếng là người tù bệnh cứ nằm chịu trận đói lả trên giường cho đến lúc hấp hối, thở hắt ra mà vẫn còn cố đợi một miếng cơm, một chén cháo loãng hay một chén nước cơm chắt không bao giờ mang tới. Ngoài đời sống tự do, những thức ăn kể trên tầm thường không đáng kể, nhưng trong trại giam cộng sản, những thức đó có ảnh hưởng trực tiếp đến hơi thở, mạch đập của người tù. Cả những thức không ăn bằng miệng được cũng rất quý báu. Có người tù may mắn lượm được khúc xương sống cá dài hơn ngón tay -khúc chót đuôi- vứt sau nhà bếp. Anh ta run rẩy vì sung sướng, gói khúc xương đó trong một mảnh giấy cất trong túi áo. Bữa ăn, để tăng thêm khẩu vị, người tù kín đáo lấy khúc xương cá ra, đặt vào giữa hai bàn tay khum khum, đưa lên gần mũi hít mạnh mấy hơi lấy hương vị cá rồi thè lưỡi liếm một cái. Trên thực tế, liếm một đốt xương khô còn có gì nữa, nhưng trên phương diện tâm lý, bữa ăn đó người tù trại giam cộng sản mơ màng đến cá và nhớ lại những bữa cơm ăn với cá trong dĩ vãng. Và bữa cơm anh ta thấy dễ nuốt hơn dù chỉ ‘’ăn’’ cá bằng mắt, bằng mũi và bằng tưởng tượng.
Ít lâu sau, sơ ý đánh mất cái xương cá, người tù băn khoăn, bứt rứt, khổ sở và mất tinh thần đến nửa tháng trời mới tìm lại được sự bình tĩnh.
Câu chuyện ‘’cái xương cá’’, nhiều tù nhân biết, nhất là Toàn vì người tù ăn cá bằng tưởng tượng cùng toán với anh. Mỗi bữa cơm, cứ đến chén thứ hai và là chén chót. Toàn thấy người nọ ngó chừng giám thị rồi lấy vẻ tự nhiên, kín đáo giở gói xương cá thường xuyên mang theo. Nhưng lúc người nọ quay lại phía sau, đưa cái xương ra ngửi ngửi trước khi thè lưỡi liếm một cái thật lẹ thì Toàn quay nhìn chỗ khác, để che dấu sự buồn tủi chính trong lòng anh. Nhưng riết rồi Toàn cũng không chú ý đến hành vi của người bạn tù nữa.
Trường hợp tù nhân 325 mới thật lạ lùng. Từ đầu tháng Chạp ta, anh lâm bệnh nặng luôn luôn mê man đến nỗi buổi sáng anh em đặt anh ta nằm theo chiều nào, buổi trưa anh em trở về trại vẫn thấy anh nằm nghiêng chiều đó, không nhúc nhích. Rận, chấy trong người 325 như xung, bò lổm ngổm từng đám trên mấy manh áo rách. Thỉnh thoảng, tiện dịp, một người bạn tù tự động đem chiếc áo ra sân rũ thật mạnh mươi cái cho rận rớt bớt rồi đem vào đắp lên mình bệnh nhân như cũ. Nhưng vì nằm riết lại không tắm rửa, một tai bệnh nhân bị lở loét. Một buổi sáng, người tù nằm trõng bên bỗng giật mình vì phát giác từ bên trong tai bệnh nhân có những vật gì bò ra. Nhìn kỹ là ‘’ròi’’. Ròi cắn tai bệnh nhân loét hết, làm chẩy máu đỏ lòm mà bệnh nhân không biết, hoặc giả có biết nhưng không còn đủ sức để phản ứng. Anh em thương hại năn nỉ với giám thị xin cho phép lau rửa vết thương giúp và xin bệnh xá cho thuốc bôi vào vết thương. Nhưng ròi không sợ thuốc của bệnh xá và tai cứ lở loét thêm.
Chừng như ròi trong trại giam cộng sản cũng đói như tù nên đến gần Tết, chúng gặm gần hết, một tai tù nhân.
Thỉnh thoảng, có đồng cảnh thương hại làm phước đem cái gối đầu bằng mây đan của 325 ra sân đập xuống đất một chặp khiến ròi và rệp trong gối văng ra bò lổm ngổm. Toàn trông thấy phát nổi da gà, lợm giọng, không biết làm cách gì cho khỏi buồn nôn, phải bỏ một trái ớt vào miệng nhai để thay dầu gió. (Lúc nào Toàn cũng có ớt rừng tươi hay khô dắt trong người, như các tù nhân khác trong trại. Anh cũng tin ăn nhiều ớt tránh được bệnh ngã nước).
Đến gần ngày cuối năm, bỗng nhiên tù nhân 325 có vẻ tỉnh táo lại, ngồi lên được một mình và chìa tay xin ăn. Anh ta đã biết đói. Nhân dịp gần Tết, nhiều tù nhân được nhà tiếp tế, động lòng thương hại, chia sẻ cho vài mẫu bánh, dăm cái kẹo, một hai trái chuối. Xin được đến đâu, 325 ăn hết đến đó một cách ngon lành...Rồi đến bữa cơm, anh ta xin ăn và nhờ anh em đem phần cơm vào tận giường nằm. Mấy ngày sau, anh ta bắt đầu tỉnh người lại, khi đó mới biết mất nửa tai lúc nào không hay nhưng cũng không tỏ ra vui hay buồn. Anh em chỉ thấy 325 thường đưa tay đặt vào nơi trước kia là vành tai mà rờ rờ rồi lặng người đi, suy nghĩ...
Giữa đêm giao thừa, anh ta lên một cơn sốt nóng li bì. Sáng mồng 1 Tết tỉnh dậy, trong trại vắng tanh nhìn lên nhà tiểu công nghệ thấy mọi người đương ngồi ăn cơm, cơn đói bỗng nổi lên dữ dội, 325 ngồi nán lại trên giường dăm phút cho tỉnh hẳn rồi bước đại xuống đất, chập chững lần lên nhà tiểu công nghệ để kiếm bữa...
Tay chân còn yếu và đầu óc còn bàng hoàng chưa tỉnh hẳn, quãng đường không xa quá một trăm thước, 325 phải đi một lúc lâu. Khi tới bực thềm nhà tiểu công nghệ, 325 không làm sao bước lên nếu không được Toàn và một người nữa ra dìu vào đặt ngồi bên một mâm cơm đã sạch trơn.
Toàn nhìn vị trí của vành tai bị ròi ‘’nhắm’’ cụt gần nửa vừa buồn cười, vừa thương hại. Anh ngửi một mùi hôi từ người 325 bốc ra nên ngồi lùi ra xa một chút. Trong khi đó, 325 nhìn lần lượt những người ngồi quanh như những người xa lạ chưa gặp bao giờ, rồi lạnh lùng nhìn xuống mặt đất, tìm kiếm. Mãi mãi mới thấy 325 nhặt được mấy hạt cơm vãi còn dính đất đưa lên miệng mấp máy nhai. Sau cùng, 325 nhặt cục xương trâu bỏ trên mâm đưa lên miệng gặm lại rồi mút lấy mút để. Một tay 325 giữ mẫu xương đưa vào miệng gặm, tay kia lượm 4, 5 mẩu xương khác cầm chặt trong tay như sợ người ta đem đi mất.
Một tháng sau, Toàn vẫn thấy 325 giữ đủ 5 cục xương. Lúc rảnh rang và tỉnh táo, ngồi chồm hổm trên trõng, anh tù nọ lại đưa cục xương lên miệng mút chơi như ta ngậm và mút hột khi ăn trái nhãn. Sau này, Toàn có dịp nhìn kỹ, nhận thấy những mẩu xương đó đã nhẵn thín, những cạnh gồ ghề do vết dao chặt trở nên trơn tru, thì ra những cục xương trâu đó mòn đi thật!
Mãi khi 325 khỏi hẳn bệnh, phải đi lao tác cùng với anh em, phần khác sợ mút xương là vi phạm quan điểm của nhân dân, lúc đó 325 mới chịu liệng bỏ những cục xương trâu quý báu một cách ngập ngừng tiếc rẻ. Anh thú thật, nhờ có mấy cục xương đó, anh đã dằn được nhiều cơn đói. Phải chi hàm răng đủ mạnh, anh cũng dám nhai nát mà nuốt từ lâu.
Chiều mồng 3 Tết, lại xảy ra một vụ lộn xộn trong bữa ăn.
Bữa ‘’tiệc vây’’ sáng ngày mồng 1 Tết chỉ còn là một kỷ niệm trong ký ức tù nhân. Ân huệ đặc biệt của đảng và chánh phủ không dài quá một bữa cơm. Vì vậy, từ bữa cơm sáng mồng 2 Tết lại là những bữa cơm thường lệ, ăn theo khẩu phần. Thực đơn bữa cơm chiều mồng 3 Tết (cho một mâm 4 người ăn) gồm bốn món như sau:
- Một dĩa nhỏ rau muống luộc (đếm được 20 cọng rau).
- Một chút mắm tép.
- Một tô nước rau luộc.
- Một dúm muối hột.
Tù nhân sớt muối làm hai phần, múc một thìa nước rau luộc pha vào muối làm nước chấm thay nước mắm. Đã lâu lắm, tù nhân không được ăn nước mắm dù đó chỉ là muối hột ướp với cua đồng (thay cá), cua ngấu thành thứ nước đen thui. Đó là nước mắm thượng hạng của tù, mỗi tháng được ăn nhiều nhất bốn lần.
Bữa cơm này là bữa cơm cuối trong ba ngày Tết. Đáng lẽ ra, ngày mai tù nhân bắt đầu lao tác nhưng vì nhằm Chủ Nhật nên tù nhân được nghỉ thêm một ngày, làm công tác vệ sinh chung trong trại rồi ngày mốt mới đi làm, toán xay lúa lại xay lúa, toán cuốc đất lại vác cuốc đi làm, toán đi rừng làm củi lại vào rừng v.v...Chỉ còn toán làm than là năm nay ăn Tết luôn trong rừng bên những lò than, gắn liền đời sống của họ vào kết quả của từng lứa than ra lò.
Trước Tết, có mấy tù nhân gánh than về trại, Toàn hỏi thăm sức khỏe của Mạnh, Thanh và Tuyên, được biết họ vẫn bình yên. Không khí ở Trại Than tương đối được tự do khiến Toàn càng ao ước được đi làm than với các bạn. Còn tại Trại Đầm Đùn, não cân lúc nào cũng căng thẳng, tù nhân luôn luôn hốt hoảng trong một tình trạng lo lắng, hồi hộp, khiếp sợ thường xuyên.
Toàn vừa ăn vừa nghĩ cách vận động xin vào rừng làm than cùng mấy người bạn. Dường như các tù nhân đều nghĩ rằng hết bữa nay là hết Tết, hết nghỉ ngơi, ngày mai cuộc đời vất vả, nhọc nhằn lại tiếp tục nên ai cũng chán nản, buồn bã nhọc nhằn lại tiếp tục nên ai cũng chán nản, buồn bã ít nói, bữa cơm càng mau rồi.
Cả bốn người trong toán đã buông đũa, đặt bốn chén sát bên nhau để chia phần nước rau luộc trong tô. Thói quen của bọn bốn người này là uống nước rau muống luộc sau bữa. Đó cũng là một cách súc miệng nhưng thay vì nhổ ra, họ lại nuốt để những thứ cơm, rau, mắm v.v...còn dính vào miệng trôi hết xuống dạ dày mà có người ví như ‘’thùng nước vo gạo’’ kẻo phí của trời. Ăn còn chẳng đủ, làm gì có của đổ đi!
Vả lại, như trên đã nói qua, trong Trại Giam Đầm Đùn, cái gì cũng cần thiết, từ cái kim, sợi chỉ, mảnh vải rách nát, nước điếu thuốc lào, cục xương trâu đã ăn rồi, nghĩa là bất cứ cái gì cũng cần thiết đối với tù nhân. Các thực phẩm còn cần thiết hơn một bậc nữa.
Mấy thìa nước rau muống luộc trong bữa ăn cũng quan trọng không kém mấy thìa cơm, một miếng cháy, vì không có một miếng nước, rau luộc tức là cơ thể thiếu chất ‘’rau’’. Mà thiếu chất rau, tù nhân ‘’phù thũng’’ mấy hồi? Trong Trại Đầm Đùn, bị phù thũng thì cầm chắc sắp được mặc ‘’sơ mi cói’’. (Tù nhân đáp ‘’chuyến tàu suốt’’ cũng không được mặc ‘’sơ mi...cây’’).
Bốn chén được đặt gần nhau, một người nhấc tô nước rau lên lần lượt sớt vào bốn chén còn lại nước rau trong tô, y lại sớt thêm lần nữa, gia giảm cho phần nào phần nấy bằng nhau như có cân lượng hẳn hòi, không thể hơn kém nhau dù nửa thìa, theo đúng khẩu hiệu: Một giọt nước rau luộc là một giọt máu của tù.
Trưởng toán ngồi yên, ‘’án binh bất động’’, quan sát việc chia nước rau luộc. Toàn còn chần chờ đợi cho cặn lắng xuống đáy chén, hai người kia đã nhấc chén của mình định đưa lên miệng. Trưởng toán nhanh nhẹn như cắt, thoắt nắm chặt tay một người tù trong toán, dằn xuống và quắc mắt giận dữ nói:
- Hồi nãy, anh có ăn sang phần mắm tép của tôi một miếng. Vậy, phải bớt phần nước rau của anh một nửa. Cũng như sáng hôm kia, tôi đã phải bù một phần canh thịt của tôi.
Vừa nói, trưởng toán cầm chén của người nọ, dợn sớt nước rau qua chén mình thì người tù nọ dằng lại để phản đối, không dè lỡ tay làm đổ nước rau xuống đất. Thoáng cái, mặt đất hút hết, chỉ còn để lại, một vết xẫm loang trên nền nhà. Trưởng toán tái mặt vì tức, bàn tay cầm chén run run như người đang lên cơn rét, lặng người nhìn kẻ tranh chấp quyền lợi với mình, chưa kịp có thái độ thích ứng thì người kia đã như người mất trí, cuống quýt nhấc một chén khác còn đầy nguyên đưa vào miệng.
Không khí bữa ăn đột nhiên trở thành nghiêm trọng. Toàn đoán ngay sẽ có sự không hay nên vội cầm chén của mình ngồi lùi ra, rồi nói để giải hòa hai bên:
- Tôi xin các anh bớt nóng để giữ hòa khí với nhau. Anh nào cần, tôi xin nhường một nửa...
Không ai lưu ý đến lời hòa giải của Toàn. Trong khi người kia ngậm vành chén vào miệng, trưởng toán vội nắm chặt vành chén dằng ra. Dằng không được, trưởng toán nổi giận thêm, thốt ấn mạnh chén vào đối phương khiến người tù mất thăng bằng ngã về đằng sau. Lúc anh ta lổm nhổm ngồi lên, miệng đã đỏ lòm. Vành chén đã bị mẻ một miếng, cứa vào môi anh ta. Một tay cầm chén mẻ, tay kia đưa lên xoa miệng, chìa tay ra coi thấy đỏ lòm những máu, người nọ nổi khùng, lạnh lùng ‘’hừ’’ một tiếng căm giận rồi xuất kỳ bất ý đập thật mạnh vào giữa mặt trưởng toán bằng chiếc chén vỡ trong tay. Mọi người chỉ kịp nghe chén bể vụn, nhìn lại thấy mặt trưởng toán đã đỏ lòm, máu phun ra có vòi. Trưởng toán kêu ‘’ối’’ một tiếng đưa tay lên bịt chặt mặt, thoáng cái, hai bàn tay bê bết chan hòa những máu rồi máu chảy qua các khe ngón tay, nhỏ giọt xuống đất.
Nhìn những giọt máu tóe ra như những ngôi sao trên mặt đất, Toàn thấy chóng mặt. Anh vốn yếu tim, không dám lại gần can gián đôi bên nữa.
Không khí trong trại căng thẳng thêm khi tù thấy máu đổ. Có người nói:
- Trình giám thị ngay và xin phép đưa người bị thương lên bệnh xá.
Rồi có người chạy nhốn nháo và tiếng quát:
- Yêu cầu giữ trật tự. Cấm đi lại nháo nhác. Ngồi hết cả xuống...
Tiếng quy-lát súng kéo xành xạch khiến nhiều người tái mặt. Giám thị xách súng chạy tới, mũi súng lăm lăm chỉa vào đám tù nhân gây...rối.
Theo lệnh của giám thị, tù nhân răm rắp ngồi xuống bên mâm cơm, không nhúc nhích. Giám thị đã có nhiều kinh nghiệm về các vụ xung đột của tù nên tiến thẳng đến bên mâm cơm lưu huyết. Y nhìn bộ mặt be bét những máu, dõng dạc hỏi:
- Đầu đuôi ra sao? Vì lý do gì làm mất trật tự?
Người tù rách môi vừa cất tiếng phân trần đã nghe quát:
- Im mồm! Chưa tới anh.
Trưởng toán vuốt máu chan hòa trên mặt, nhắm mắt và nói:
- Trại viên 125 đã đập chén vào giữa mặt tôi. Hắn đã ăn sang phần mắm tép của tôi lại cướp nước rau luộc để uống hết, làm đổ hết phần nước rau của anh em trong toán...
Người tù rách môi định phân trần, giám thị đã chỉa súng vào ngực y và quát hỏi dữ tợn:
- Anh có đả thương trưởng toán không?
- Dạ...thưa ông giám thị, trưởng toán không cho tôi uống phần nước rau của tôi...Anh ta lại...
Giám thị cắt ngang:
- Im! Trả lời câu hỏi: Anh có đả thương người này không?
- Dạ...Dạ...có! Tôi chót nóng vì...
- Câm miệng!
Một chiếc còng khóa liền tay hai thủ phạm phá rối trật tự. Giám thị ra lệnh:
- Lên văn phòng khai.
Hai tù nhân cùng một toán, cùng cảnh tù tội, lúc bình thường đôi khi còn thương vay cho nay, nay vì một sự thèm ăn thèm uống nhất thời mà thành đối thủ sắp phải buộc tội lẫn nhau để dành phần phải về mình. Họ lo sợ khi nhớ ra rằng ở trong tù ‘’cái sẩy nẩy ra cái ung’’, chỉ vì một miếng nước rau, một miếng mắm tép mà hết sống bởi không chịu nổi những hình phạt của trại giam.
Tối hôm đó, nghe điểm danh trước khi tù nhân ngủ. Toàn không nghe tiếng hô số của hai người bị còng tay dẫn lên văn phòng hồi chiều. Không ai dám hỏi, chỉ đưa mắt ra hiệu cho nhau giữa những người cùng toán.
Một lần không khí nặng nề bao phủ khắp trại và hình ảnh máu me, trừng phạt khủng khiếp theo dõi người tù cả trong những giấc ngủ. Đêm khuya, những người khó ngủ thường nghe những tiếng ú ớ nói mê của đồng cảnh. Hôm nay, tù nhân được chứng kiến một cảnh tượng khó quên khiến nhiều người dị đoan cho rằng: Năm nay, tù nhân phải chịu nhiều cảnh đau đớn, khổ não khác thường. Vận nước càng điêu linh bao nhiêu, nạn nhân của chế độ càng phải chịu nhục nhã, khổ ải bấy nhiêu.
Sáng Chủ Nhật, theo thường lệ có lễ chào ‘’quốc kỳ’’.
Những tù nhân có kinh nghiệm và tinh ý đều nhận ra ở giữa sân, trước cột cờ, có đóng bốn cái cọc thấp lè tè như cọc dùng để cột trâu ngoài bãi cỏ. Họ giựt mình sợ hãi nhưng không dám hỏi han bàn tán. Nhiều người bỗng trở nên rụt rè, khép nép, bất giác kiểm điểm lại quần áo coi có gì lạ cần sửa anh nào cũng quấn một manh áo một mảnh. Họa hoằn lắm, có anh mặc chiếc áo mới, quần lại tơi tả, rách bươm như sơ mướp. Tình cảnh đã bi đát, thê thảm đến như thế mà có người còn bông lơn một cách vô duyên:
- Ối dào! Cho nó...thoáng!
Không ai cười ai hết vì không có can đảm và thì giờ cười người khác. Bất cứ một sự chẳng may nào cũng có thể khiến người tù ‘’được’’ mặc quần không đũng!
Một tên lính cảnh vệ bận đồ ka-ki nội hóa, đội nón lá, lăm lăm khẩu súng trường hách dịch nhìn bẩy tám trăm tù nhân một cách giận dữ. Theo lệnh của giám thị, tù nhân răm rắp xắp hàng chuẩn bị làm lễ chào cờ.
Trại bên kia tù nhân Pháp cũng đang chuẩn bị hàng ngũ để làm lễ chào ‘’quốc kỳ’’ của những người cầm tù họ.
Lá cờ đỏ rực một cách tàn bạo, lúc nào cũng như vừa ăn gan uống máu nạn nhân của chế độ, từ từ tuồn lên ngọn cột trong khi sáu bảy trăm cái miệng hết hơi vì đói vì bệnh, cố gào lên những lời thù hận của bài quốc ca. Tiếng hát chào cờ vọng vào tận những lùm cây xa xa dưới chân núi.
Thủ tục chào cờ xong, trái với lệ thường, tù nhân không được giải tán để về trại ăn cơm sáng mà còn phải đứng lại nghe một tin làm tái mặt nhiều người. Đó là tin một tù nhân bị trừng trị vì phạm tội phá rối trật tự trong trại. Y đã đả thương trưởng toán sau khi ‘’vi phạm quan điểm của nhân dân’’: Ăn lấn sang khẩu phần của người khác, làm hư hao thức ăn và làm hư hại ‘’nghiêm trọng’’ đồ dùng của trại giam (Toàn đoán ra là bị can đã làm bể một chén sành bới cơm cho tù). Ngoài hư hao về vật chất, thương tích trên cơ thể, thiệt hại về năng xuất, bị can còn nêu một gương xấu có phương hại cho kỷ niệm chung của trại.
Viên giám thị nhìn mặt các tù nhân để nhận định tầm mức ảnh hưởng gây ra bởi những lời tuyên bố đanh thép của y rồi trịnh trọng dằn từng tiếng:
- Hình phạt cho kẻ phạm lỗi lần đầu: 50 roi.
Có những tù nhân nuốt nước miếng ừng ực. Có những anh mặt tái đi vì sợ tuy biết chắc mình vô can trong vụ này.
Sau khi tuyên bố lý do áp dụng luật lệ, giám thị ra lệnh giải tán hàng ngũ. Nhưng giải tán để đứng vây quanh kẻ phạm lỗi đặng chứng kiến sự trừng phạt mà cảnh giác.
Cả một đám đông sáu, bảy trăm người mà không nghe một tiếng xì xào. Chỉ thỉnh thoảng nghe những tiếng ho sù sụ không giữ nổi trong lồng ngực. Tù nhân khép nép trong trật tự, đứng bao quanh một khoảng đất trống giữa bãi chào cờ, lấy bốn cái cọc tre đóng trên bãi làm trung tâm điểm.
Bỗng mọi người nháo nhác quay nhìn về một phía. Rồi không ai bảo ai, các tù nhân tự động đứng dãn ra, để hở lối đi cho một tội nhân khấp khễnh bước vào với sợi xiềng lòng thòng giữa hai cẳng. Toàn chỉ quan sát sơ qua là biết tội nhân trước lúc đó đã bị xiềng thượng khẩn, nghĩa là đã bị ban quản trị quy cho một tội nặng. Vì không có vải rách hoặc lá chuối khô quấn vào cạnh khoen sắt, cổ chân tội nhân đã tóe máu.
Hình như y không lưu ý đến cổ chân chảy máu, chỉ lộ vẻ ngơ ngác đần độn có lẽ vì quá sợ hình phạt sắp phải chịu. Mới từ chiều hôm qua là lúc xẩy ra vụ đánh lộn với trưởng toán vì mấy thìa nước rau luộc, đến sáng hôm nay, mặt y già xọm và hốc hác trông thấy.
Vào bên trong hàng rào người, y thẫn thờ nhìn viên giám thị rồi đứng lặng người, khoanh tay ngó khoảng đất giữa 4 chiếc cọc. Thốt nhiên tội nhân chẩy nước mắt ròng ròng.
Y chưa khóc được bao lâu thì ngoảnh cổ ngó một người đang bước tới. Thốt nhiên lại yên lặng như tờ. Cả đến những tù nhân mắc bệnh ho kinh niên, ho sù sự luôn miệng, lúc đó cũng...tịt cả ho. Chỉ vì họ thất đảm trước sự xuất hiện của một nhân vật tuy giữ địa vị tầm thường mà có ‘’quyền hành’’ ghê gớm. Mấy trăm người có mặt đều thì thầm trong trí hai tiếng khủng khiếp: Đầu Trâu.
Phải! Đầu Trâu đã tới làm nhiệm vụ. Y cầm lắt lẻo trong tay một khúc roi dài chừng hơn thước tây. Đó là một khúc ‘’roi mây mật’’, khi đánh, roi quất vào thịt cứ ‘’ngọt lịm’’ đi như mật.
Vài tù nhân lúc rảnh rỗi bàn phiếm về tác dụng ghê gớm của cây roi mây mật đã giải thích một cách hài hước như vậy. Nhưng khi trông thấy Đầu Trâu xách roi, hồn vía họ bay tuốt lên mây.
Bỗng Đầu Trâu nhìn sững kẻ sắp là vật hy sinh dưới ngọn roi của y rồi ra lệnh:
- Nằm xuống!
Tội nhân lắp bắp trong miệng hai tiếng ‘’vâng ạ’’ lúng túng cởi áo. Trời rét ngọt, gió bấc vùng núi thổi đều từng ngọn như mũi dao lách vào da thịt. Thoáng cái, tội nhân chỉ còn đeo trên mình có chiếc xà lỏn rách. Đầu Trâu đưa mắt một cái, tội nhân rụt rè mấy giây rồi cởi quần ra, liệng xuống đất. Y run lên cầm cập, lấm lét nhìn Đầu Trâu. Có lẽ y nghiến hai hàm răng vào nhau cho bớt sợ nên Toàn thấy xương quai hàm của y giây lát lại nổi lên rõ mồn một.
Lệ đánh đòn của Trại Giam Đầm Đùn là như vậy. Khi chịu đòn, tội nhân phải trần truồng không mảnh vải trên người. Nếu mặc quần áo thì đó là quần áo chứ không phải tội nhân chịu đòn. Tội nhân lạnh lùng nằm sấp xuống đất, dang hai tay và hai chân. Một người đã chờ sẵn theo lệnh của giám thị với vật dụng cần thiết: Đó là bốn sợi dây luộc, nhỏ bằng ngón tay. Người nọ buộc hai cổ tay, hai cổ chân tội nhân bằng bốn sợi dây, còn bốn đầu dây buộc vào bốn cây cọc, siết thật chặt.
Bốn sợi dây căng thẳng nằm lơ lửng cách mặt đất chừng ngón tay khiến thân thể người tù nằm đó có vẻ dài thêm ra. Hắn nằm nghiêng một bên má, ngó về phái Đầu Trâu như an đành với số phận, hai hàng nước mắt bỗng lại ròng ròng. Toàn thấy cảnh tượng như vậy cũng muốn ứa nước mắt. Đây là lần đầu tiên được chứng kiến nên anh vừa hồi hộp vừa thương tâm. Nhưng cảm giác rõ rệt nhất trong lòng anh là sự sợ hãi kinh khủng. Nhất là cái khung cảnh đã làm cho anh mất vía, bàng hoàng như đang sống trong một cảnh tra tấn của quỷ dữ dưới âm ty địa ngục vẫn tả trong các kinh sách Nhà Phật.
VII.Nằm nghiêng một bên má, ngó chừng Đầu Trâu, tội nhân 125 đang nghĩ ngợi, tính toán để ‘’hóa giải’’ bớt hiệu lực của những ngọn roi song mật. Mặt anh ta lại thộn ra một cách kỳ cục. Đầu Trâu liếc nhìn và mỉm cười, ra vẻ đã khám khá được mưu kế của nạn nhân. Y cười mà không phải cười, nghĩa là y nhếch mép để lộ mấy cái răng cửa đen thui khập khểnh, nom tàn nhẫn một cách khiếp đảm.
Chung quanh vẫn yên lặng như tờ. Không khí nặng nề như sáu, bảy trăm người có mặt đang coi xử tử hình một người trong khi chờ đợi đến lượt mình, chứ không phải một vụ đánh đòn trừng phạt tầm thường.
Đầu Trâu cầm ngọn roi mây nằm ngang trong tay, đắn đo từng bước trên bãi đất, đi vòng quanh người nằm đấy, kiểm soát lại bằng mắt những mối dây buộc vào cọc. Đó là một việc làm gần như vô ích vì từ khi Đầu Trâu nhận lãnh công việc đánh người, chưa bao giờ xảy ra vụ sút dây trói.
- Úp mặt xuống đất! Thằng kia!
Phạm nhân lập tức gục trán chống xuống đất, đưa miệng và mũi hơi cao hơn mặt đất để thở. Anh ta chỉ kịp thoáng nghĩ ‘’Thôi, thế là chết’’, rồi nhăn rút mặt lại, chuẩn bị một sự chịu đựng phi thường. Nhưng Đầu Trâu vẫn chưa múa roi. Y còn vờn chung quanh phạm nhân với những mục đích khác nhau.
Thứ nhất, về phương diện tâm lý. Nếu y đánh ngay, thần kinh hệ phạm nhân đỡ bị căng thẳng và cả những người chứng kiến cũng bớt khiếp hãi, hồi hộp. Mối nguy hiểm sắp sửa tới ta kinh sợ, nhưng khi tới rồi, sự sợ hãi giảm đi và ta sẵn sàng chịu đựng.
Thứ hai, y nghiên cứu đặt những ngọn roi vào vị trí nào trên cơ thể, đánh làm sao cho ‘’đẹp’’ và phạm nhân thấm đòn!
Đột nhiên mấy tiếng ‘’vút vút’’ rít lên trong làm gió lạnh khiến mọi người rùng mình, vài tù nhân quá nhát sợ nhắm cả mắt lại như chính mình đang bị đòn. Người nằm dưới đất hơi quằn quại, một vài thớ thịt trên lưng, trên mông nổi lên lặn xuống. Toàn đã được những tù nhân có kinh nghiệm truyền cho một bí quyết chịu đòn. Khi bị đòn, phải cố gắng bắt tâm trí nghĩ đến những chuyện vui sướng đã qua, dồn hết tâm trí vào những chuyện đó, mặc cho xác thân bị hành hạ. Như thế, hiệu lực của ngọn roi sẽ giảm đi rất nhiều. 125 cũng biết ‘’bí truyền’’ ấy, vậy mà khi chưa một ngọn roi nào chạm vào da, bắp thịt anh đã chuyển động gồng lên như đang chịu đòn. Cho hay từ lý thuyết đến thực hành biết bao khó khăn công sức, khác chỉ đang ăn theo khẩu phần C làm thế nào để được cải sang khẩu phần B vậy.
Nhìn người bạn tù cùng toán nằm trên mặt đất không mảnh vải trên người, tứ chi bị trói vào cọc ở bốn góc mường tượng như con chó sắp bị đưa ra làm thịt, anh cảm thấy nhục nhã vô cùng, tưởng đang sống dưới thời phong kiến mấy trăm năm về trước. Không biết vì xấu hổ hay thương xót cho số phận con người dưới chế độ phi nhân, anh lại ứa nước mắt, phải cúi mặt xuống đưa tay quệt thật nhanh. Vì ứa nước mắt như thế là không tiến bộ là vi phạm quan điểm của nhân dân, là đồng lõa với kẻ phạm lỗi.
May quá, không có ai thấy trước khi mắt anh đã ráo hoảnh.
- Đét..! Đét..! Đét..! Đét!!
Bốn năm đường roi mây quật tới tấp lên mình tội phạm giữa lúc bất ngờ nhất. Cây roi siết vào không khí lạnh bật ra những tiếng veo véo, tức thì thân thể phạm nhân nẩy lên như nằm trên tấm nệm lò xo. Rồi những tiếng ‘’đen đét’’ như mưa rào tháng Tư vụt xuống khoảng bên dưới thắt lưng và trên hai mông đít.
Người nằm dưới đất bật lên khóc ai oán:
- Trời đất ơi! Cha mẹ ơi!
Đầu Trâu ngừng tay roi thốt giận dữ như một ông tướng bị lính xúc phạm đến danh dự:
- Câm mồm! Trừ năm roi!
‘’Trừ năm roi’’, có nghĩa là năm roi vừa đánh không tính, phải đánh lại. Khi đó Đầu Trâu đã đánh được 15 roi rồi, nhưng chỉ kể 10 roi. Còn 40 roi nữa.
Phạm nhân úp mặt xuống đất, nức nở như muốn than van với đất nỗi đau đớn đang phải chịu. Nhưng đất dầy quá lại không có tai không nghe. Đầu Trâu chú ý nhìn những vết roi đang thành hình trên mông phạm nhân.
Vừa rồi, vết roi mới bầm, lúc này đã xẫm lại vì máu đã rớm ra.
Đã đến lúc Đầu Trâu vào bài, vì y đánh có bài bàn. Y lùi lại một bước, nhắc tay roi lên và vụt xuống. Nhưng y tính sao cho khoảng roi chạm vào da thịt không dài quá 15 phân để bao nhiêu sức mạnh của bắp thịt cánh tay chỉ dồn vào một diện tích tối thiểu. Như thế, sự đau đớn gây ra cho kẻ bị đánh sẽ gấp bội.
Nhưng chưa phải có thế mà thôi. Đúng lúc đầu roi song mật vừa quất vào da thịt phạm nhân thì y ‘’vặn’’ cổ tay cầm roi một cái, đồng thời giựt mạnh theo chiều dài của ngọn roi với một kỹ thuật lạ lùng. Tức thì làn da của phạm nhân bị bứt lên từng mảnh hoặc bị xé như cứa bằng dao.
Đến roi thứ 30, máu ở hai bên mông đít đã chan hòa. Trên cơ thể của phạm nhân, hai mông đít là bộ phận nhiều thịt nhất đã bị tơi tả rách nát. Phạm nhân chỉ còn rên hừ hừ, ngay cả lúc Đầu Trâu ngừng tay roi. Đám tù vây quanh thấy phạm nhân thở rất gấp, bụng y phồng lên xẹp xuống rất mạnh. Nhưng ít người rõ được thâm ý ác độc của Đầu Trâu, hậu quả của vụ trừng phạt này còn tác động lâu dài rất nguy hiểm đến đời sống của phạm nhân sau này.
Lúc bị đánh đau quá, khí lực trong người vận dụng lên hết để chịu đựng rồi thoát ra bên ngoài theo hơi thở, theo lỗ chân lông. Đến lúc hít vào thì hít phải hơi ‘’đất’’ có chất ‘’hàn’’. Chất ‘’hàn’’ đó liếm vào trong cơ thể, vào lục phủ ngũ tạng rồi gây nên nhiều ác chứng về sau. Hơn thế nữa, luôn luôn tù nhân bị đòn vì phạm lỗi nặng phải giam trong xà lim, cùm hai chân. Đít và lưng bị rách nát, tù nhân đau không thể nằm ngửa nằm nghiêng mà phải nằm sấp trong lúc cơ thể suy nhược. Hơi đất liếm vào phủ tạng nên tù nhân bị ‘’chướng’’, mất mạng như bỡn!
Cây roi trong tay Đầu Trâu lại vun vút trong gió lạnh liền một hơi đến chục lần. Phạm nhân luôn miệng ‘’hứ! hứ!’’ như đang bị bào thịt rách da rồi nằm ngay đơ...hệt người ngủ say. Mặt anh ta nghiêng về một bên. Một số tù nhân thấy hai đường máu đỏ quạch từ hai lỗ mũi nạn nhân bò ra và bên mép sát đất cũng rỉ máu tươi. Đầu Trâu đánh cách nào mà tuy chỉ đánh trên lưng và mông đít, máu phạm nhân lại ứa ra đằng miệng, đằng mũi! Những người chưa thấy lần nào run lên cầm cập, một số toát mồ hôi đầm mình còn một số dấu mặt bật lên khóc nức nở như con nít. Họ không thể giữ sự thương tâm ở trong lòng lâu hơn nữa.
- Lấy một gáo nước lạnh!
Tội nhân đã chết giấc, phải dùng nước lạnh làm cho tỉnh lại đặng còn chịu đòn tiếp. Đánh một người đã chết giấc khác gì đánh vào thây ma. Mà thây ma còn biết gì là đau đớn! Nếu tiếp tục, đòn phạt sẽ vô tình trung trở nên vô dụng, phí công!
Đầu Trâu thong thả nghiêng gáo nước lạnh cho chảy thành một giòng nước nhỏ vào giữa mặt tội nhân rồi đưa lần xuống phía dưới cho chẩy trên lưng và mông đít. Gặp gió lạnh, máu đã đông lại từng mảng trên mông, giờ gặp nước bong ra và trôi xuống đất, để lộ những khoảng thịt bầy nhầy nát bấy! Bấy giờ, mọi người mới thấy rõ Đầu Trâu đã luyện khoa đánh đòn đến mức tinh vi tuyệt đỉnh: Ngọn roi sau đè lên ngọn roi trước không sai mảy may khiến da thịt rách tung như thế. Có tù nhân quá khiếp sợ đòn của Đầu Trâu phê bình rằng: Đầu Trâu quen tay quen bài đến mức có thể nhắm mắt cũng không trật một ngọn roi ra ngoài vết roi trước, nếu hắn muốn.
Tội nhân chợt tỉnh, bỡ ngỡ nhìn lên trời cao vòi vọi và đỉnh núi xanh xanh phía xa xa, rồi lại não nề nhắm mắt. Sau đó vài giây, anh ta bàng hoàng mở mắt rồi chừng như tỉnh hẳn, nhận thức được việc đang xảy ra, anh ta gào lên một tiếng trong cổ họng. Tiếng gào đó dù không có âm thanh rõ rệt nhưng chắc chắn có ý nghĩa như một lời uất hận, một lời than thân, một lời nguyền rủa độc địa khiến những người nghe thấy đều rùng mình khiếp hãi. Đầu Trâu quắc mắt, nhe răng định quát...lại thôi.
Ngọn roi song mật lại veo véo trong gió lạnh. Còn hai chục roi, Đầu Trâu nhắm đánh vào khoảng giữa hai mông đít, trên ba đốt xương sống cuối cùng. Chỉ thấy tội nhân nhổm đít lên thật cao rồi rơi phịch xuống, quằn quại như con rắn bị đánh dập đầu. Cuối cùng, tội nhân nằm ngay đơ để chịu đựng mấy roi kết thúc.
Đấu Trâu hạ ngọn roi, bước lại trước mặt giám thị, lễ phép nói:
- Thưa đồng chí giám thị, đã đủ năm mươi roi!
Giám thị không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào từ đầu đến cuối, lạnh lùng gật đầu:
- Được rồi!
Rồi quay lại bảo đám đông:
- Cởi trói ra, cho về xà-lim.
Cùng với mọi người, Toàn sán lại gần tội nhân và thấy đốt xương sống đã bị đánh bật xương lòi tủy ra ngoài. Trong khi mỗi người cởi một đầu dây, Toàn khẽ vỗ vai người nằm đó, ra hiệu ngồi lên. Nhưng anh ta vẫn nằm nguyên vị khiến một người khác vừa đắp chiếc áo rách lên mình anh cho bớt lạnh vừa nắm tóc mai giật cho tỉnh lại. Cũng vô hiệu.
Lúc đó, Toàn mới thấy mồm anh ta đầy máu. Vài ba người hốt hoảng xúm lại nhấc lên, nhận ra thân thể anh đã mềm một cách khác thường, không phải cái mềm của thân người còn sống.
Một người rờ vào tim tội nhân, tim đã hết đập! Một người vạch mồm để coi máu ở đâu chảy ra nhiều như vậy. Khi đó, mọi người mới hiểu tại sao tim anh ta hết đập.
Thì ra anh ta đã nhai nát lưỡi để tự tử.
Cách đó 3 ngày, một buổi sáng, Toàn xung phong theo đoàn tù đi chặt củi ở rừng. Kể từ ngày ông già tóc bạc treo cổ tự tử trong rừng bằng giây luộc, anh còn xung phong nhiều lần nữa. Mỗi lần đi làm củi, anh lại nhớ mấy người bạn đi làm lò than.
Hình ảnh vụ Đầu Trâu đánh đòn bữa trước lại hiện ra trong óc Toàn, rõ ràng và đẫm máu. Nhất là cái kết cục, thật bất ngờ đáng sợ. Anh biết chắc suốt đời không thể quên nổi. Tuy đa số tù nhân tội nghiệp cho 125, nhưng mừng thầm anh ta đã được giải thoát khỏi cảnh ô nhục.
Bữa nay, số người vào rừng làm củi có tới 60 tức là 12 toán 5 người, do trưởng ngành củi trong tổ sản xuất hướng dẫn và chỉ huy. Về phía ban quản trị có một giám thị và hai cảnh vệ võ trang, theo vào khu rừng xa khoảng 15 cây số, một khu rừng vẫn được khai thác lấy gỗ, củi lâu nay.
Từ hôm xẩy ra vụ xung đột vì thấy thìa nước rau luộc đưa đến kết quả một người bị đòn trừng phạt khiến phải tự tử ngay trước mặt sáu bảy trăm đồng cảnh và một người nằm bệnh xã điều trị trước khi phải thọ hình phạt chưa biết như thế nào, toán của Toàn chỉ còn hai mống. Hôm sau, có gần trăm tù nhân từ các nơi đưa đến, theo lệnh của ban quản trị bọn này được chia ra nhiều toán. Toàn được chỉ định làm trưởng toán, coi 4 người khác trong phạm vi toán của anh. Toàn mừng thầm không phải vì trưởng toán có quyền lợi gì hơn các toán viên nhưng ít ra đã được công nhận có hạnh kiểm tốt, tư tưởng đúng đường lối nhà nước ấn định, có thiện chí xung phong trong mọi công tác v.v...
Nhận xét tổng quát, các tù nhân mới nhập Trại Giam Đầm Đùn tang thương không kém những người đã bị giam lâu ngày tại đây. Người nào, người nấy đều bị mòn mỏi, tinh thần hoảng hốt, ghẻ lở, quần áo tả tơi, mặt mày hốc hác một vẻ đặc biệt ‘’ốm đói’’ như bất cứ tù nhân nào của trại giam cộng sản thời đó. Trong một lúc vắng vẻ, Toàn kín đáo và thân mật hỏi một trong hai người mới nhập toán, được biết họ từ một trại giam gần Thái Nguyên bị đưa về. Họ phải lẽo đẽo đi hơn 4 tuần lễ mới về đến Đầm Đùn sau khi đã rơi rớt quá nửa ở dọc đường, một số lớn chết gục trên đường thiên lý, một số bị bắn chết vì mưu toan trốn và một số rất ít còn đủ sức chạy thì trốn thoát nhờ chạy đại được vào giữa mặt trận, nơi hai bên đang rình rập nhau mà chưa được lịnh khai hỏa. Do đó, lính cảnh vệ không dám nổ súng vì sợ quân viễn chinh Pháp phát giác cuộc di chuyển tù nhân. Cũng do người này, Toàn được biết thêm tình hình chiến sự vùng Trung Châu Bắc Việt đang cực kỳ gay go, nghiêm trọng nên chính quyền cộng sản phải cho di chuyển tù nhân các nơi vào các vùng xa xôi, núi non hiểm trở trong vùng Chí Nê và Tây Bắc Thanh Hóa v.v...
Hai người tù mới nhập toán mang số 982 và 983, một người có vẻ thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản, một người thuộc thành phần thợ thuyền lao động như thợ máy, và có bàn tay bốn ngón. Khi Toàn hỏi thăm người này thảm nhiên kể lại trường hợp hy hữu nhờ nhanh trí và gan dạ anh ta đã thoát chết. Một bữa nọ ở Việt Bắc sau khi phạt cây, anh ta xúc đất đổ nền lấy chỗ dựng lều tạm trú trong rừng cho đoàn tù đang bới đất chợt thấy buốt đánh nhói nơi đầu ngón tay trỏ bàn tay trái như bị rắn độc cắn, anh ta vội nắm chặt ngón tay bị thương hãn cho máu độc khỏi chạy về tim và thấy một con bò cạp đen thui đang chui và lỗ nức dưới đất. Biết bị bò cạp chích, anh ta vội giằng lấy con dao trong tay người bạn, kê ngay ngón tay bị chích lên hòn đá, chặt một nhát. Chẳng may khi đó, mắt đã bắt đầu hoa, anh ta chỉ chặt được có một đốt, liền ngay bên vết cắn, nên cái cảm giác buốt nhói vẫn còn. Anh ta phải chặt lại nhát thứ hai, cụt luôn hai đốt còn lại, rồi loạng choạng ngã xuống đất, miệng la rầm rĩ, tay vẫn bịt chắt vết thương cho khỏi mất nhiều máu. Mấy người bạn tù xúm vào nhấc anh lên và kiếm lá dịt vết thương cho cầm máu. Ấy vậy mà cũng phải gần hai tháng vết thương mới lên da non.
Nọc bò cạp đến nỗi chỉ một lúc sau, đốt tay vị chặt đen thui lại, đến quá trưa hôm sau bắt đầu thối. Anh ta đào một lỗ nhỏ chôn mấy đốt ngón tay, khi đó anh ta buồn bã một cách kỳ cục và có cảm tưởng như đang đào huyệt để tự chôn mình.
Theo thể lệ mới, công tác làm củi nặng nề hơn trước nhiều. Ngoài hai bó củi tù nhân phải gánh về, còn phải chặt thêm hai gánh củi nữa (4 bó) xếp ngay ngắn bên những đống của người khác, để tù nhân khác sẽ đến gánh về trại. Như thế luôn luôn có một số lượng củi đã làm sẵn xếp trong rừng. Cho thi hành công tác làm củi theo tiêu chuẩn mới ấn định lại, nhà cầm quyền cộng sản nhằm hai mục đích:
- Sử dụng hết mức sức lao động của tù nhân.
- Đầy đọa tù nhân cho mau chết đặng loại bớt một số phần tử không có lợi, hoặc có hại cho xã hội chủ nghĩa.
Vì tiêu chuẩn đặt ra cao hơn trước nhiều nên khi vào tới rừng rồi, người nào người nấy hăm hở bắt tay vào việc ngay, chỉ sợ không đủ làm kịp số lượng bắt buộc. Toàn cùng ba người đồng toán chung sức làm một cây như mọi lần.
Trời tuy rất lạnh, nhưng làm củi chừng tiếng đồng hồ, người nào người nấy lột bỏ áo, buộc hai tay áo trước cổ, thân áo để lòa xòa trên lưng ướt đẫm mồ hôi. Riêng Toàn vì yếu phổi và chớm bị bệnh hen nên vẫn mặc áo trong lúc làm cây tuy anh cho đó là một sự phí phạm tai hại.
Chợt nhớ đến tù nhân 125 chết mấy hôm trước, Toàn ngừng tay dao hỏi người bạn cùng toán:
- Này, không biết xác của 125 ra bãi lúc nào nhỉ?
- Sau bữa cơm một tiếng đồng hồ. Khi ban quản trị đã xóa tên, cho ‘’chạy giấy’’ xuống đem chôn ngoài bãi.
- Tội nghiệp! Lúc chôn 125 có được mặc quần áo không?
- Nghe đâu chỉ có các quần đùi rách, còn các áo thì...tuy cũng rách nhưng bị ai lột từ bao giờ.
Toàn hiểu ý câu nói của người bạn. Anh hỏi qua mục khác:
- Thế có được quấn manh chiếu không?
Người bạn lắc đầu:
- Lúc này chiếu khan lắm! Trong trại thiếu nhiều chiếu nên ban quản trị cho bó qua loa bằng bao cói cũ rồi cho khiêng xác 125 ra bãi chôn.
Ngừng lại, nhìn trước nhìn sau, người tù nọ hạ thấp giọng:
- Nghe nói lúc bỏ xác xuống hố, miệng 125 bỗng ứa ra nhiều máu tươi. Không biết anh ta còn uất ức điều chi vậy? Thấy Đầu Trâu múa roi mà tôi mất vía vì sợ, 125 uất ức Đầu Trâu chớ còn uất ức ai nữa! Anh em có tranh giành nhau chẳng qua vì đói, trong tâm vẫn thương xót nhau chớ đâu có thù ghét gì!
Bỗng anh chàng nọ bỏ dao xuống, lật đật cởi hai tay áo buộc trên cổ ngắm nghía tìm tòi, nói một mình:
- Trời ơi! Rận cắn ngứa quá, bị bệnh chấy rận thì bỏ mẹ!
Anh ta vừa lột áo ra cầm tay, Toàn đã rợn da gà khắp mình. Trên lưng áo, những con rận bò chi chít như kiến, mỗi lúc một nhiều. Tù làm việc nặng, nhiệt năng trong cơ thể bốc ra, rận gặp hơi ấm, bò lổm ngổm đi kiếm ăn.
Vấn đề rận, rệp và ròi (ở các vết thương lở loét lâu ngày) của tù nhân là một vấn đề nan giải vì nơi đâu có tù là có những thứ ‘’chết tiệt’’ đó. Lâu ngày, tù cũng quen đi, ít bận tâm, chỉ những lúc rảnh rỗi mới phát động chiến dịch ‘’tổng tấn công’’ rận và rệp.
Người nào chẳng may mắc vòng lao lý -đặc biệt là tù nhân trại giam cộng sản- đều hiểu thế nào là rệp, ròi và rận, nhất là rận. Vì lý do thiếu vệ sinh chung, nên chỉ nằm một lúc trong trại giam là có rận, dù trước đó trong người không có một con. Rận truyền từ người nọ sang người kia bằng đủ mọi cách, nhưng có một cách nhiều người không biết là rận di chuyển nhờ hơi gió. Một cơn gió thổi lướt qua đủ để cả chục con rận đực, rận cái lợi dụng cánh gió bay sang người khác để sinh sôi nẩy nở. Vả lại mặt khác, cả Trại Đầm Đùn chỉ có một cái ao hàng ngày 7, 8 trăm người tắm rửa, giặt rũ, làm sao tránh được nạn rận, chấy. Rận nổi lền bềnh trên mặt ao ngoi ngóp chờ những người sau đến giặt là bám vào quần áo giặt của họ.
Vì thế, một trong những công việc chính và cần thiết cho tù lúc rảnh rỗi là ngồi ngoài nắng bắt rận. Buổi tối trước khi đi ngủ, tù nhân nằm trong bóng đêm, đưa tay lần áo trong, rờ rờ các nếp áo cũng bắt được rận như thường. Nhưng bắt rận một cách thiếu khoa học như thế cũng coi như chẳng có kết quả gì nên tù nhân truyền cho nhau nhiều cách bắt rận, tựu trung có mấy phương pháp chính tùy hoàn cảnh áp dụng:
- Dùng nước sôi ngâm quần áo cho chết rận và trứng.
- Giết rận bằng máy.
- Dùng sâu bọ cho chúng bắt rận thay người.
Phương pháp đầu rất hiệu nghiệm nhưng tù nhân không có điều kiện thực hiện. Trong trại giam cộng sản người tù nào được quyền có nồi nước sôi ngâm quần áo trong khi một ấm nước đun sôi để uống cũng không thể có, không bao giờ có.
Theo phương pháp thứ hai, người tù trải quần áo lên trên một mặt phẳng và rắn, như mặt bể nước bằng xi măng hay mặt sàn gạch, rồi dùng một cái chai lăn mạnh lên trên quần áo để giết rận. Phương pháp này giết mau nhưng không giết hết vì rận khôn không kém người, thấy nguy là chúng chui vào ẩn núp giữa những khe nếp áo hoặc những đường khâu dầy, sức ‘’cán’’ của chai không ảnh hưởng tới chúng. Như thế, phương pháp thứ hai cũng chỉ có hiệu quả phần nào thôi.
Còn phương pháp thứ ba, Toàn có nghe nói nhưng chưa có dịp áp dụng.
Hai tù nhân mới tới trại mấy bữa nay nhập toán do Toàn làm trưởng, cả hai đang bị rận cắn đỏ mẩn cả người cả cổ, luôn luôn thò tay vào trong áo gãi lấy gãi để, mặt ‘’nhăn nhó như nhà khó ăn gừng’’. Cả hai nhất tề cởi trần, phơi áo trên một tảng đá có ánh nắng rọi tới, dùng ánh sáng buộc rận ra khỏi các ‘’hầm trú ẩn’’ của chúng.
Toàn bỗng thấy ngứa ngáy khắp người như hàng trăm con rận cắn anh một lúc. Sự thật, hơi nóng trong người khiến rận bị khích thích bò lung tung gây cho anh cảm giác đó. Anh bèn cởi khuy áo cho bớt rực, rồi quay nhìn hai người tù mới làm việc gần đó. Hiển nhiên hai người này đã có nhiều kinh nghiệm ở trại giam nên dù mới nhập trại đã dám xung phong đi rừng làm củi không bỡ ngỡ chút nào. Nhưng trong hai người, một người có vẻ làm nghề trí óc, còn người kia khỏe mạnh hơn làm đến đâu gọn gàng đến đấy, rõ ràng là một tay lao động, chuyên nghiệp. Số lượng củi anh ta làm ra tới lúc này coi đã bộn, ngổn ngang một đồng. Toàn so sánh với đống củi của mình, thầm phục trại viên kia làm giỏi thật sự.
Mặt trời đã gần đứng bóng. Ánh nắng một ngày đầu Xuân ấm áp, tưng bừng xao động trên ngọn cây, nhẩy múa trên bãi cỏ, lấp loáng trên những tảng núi đá rải rác đây đó. Cơn mưa phùn lúc sáng sớm đã tạnh hẳn khi mọi người vượt được già nửa quãng đường vào rừng. Mấy người tù ngước trông bầu trời mưa phùn trong sương muối và ‘’nghe’’ thoảng hơi gió nồm, đã đoán rằng ngày hôm nay trời sẽ nắng ấm. Vậy mà đúng quá. Kinh nghiệm về thời tiết của người tù bị khổ sai nơi nước độc thật là kinh nghiệm xương náu.
Toàn bỗng thấy đói bụng. Anh sợ nhất thời giờ gần trưa là lúc anh bị cơn đói hành hạ, gần nửa năm mà anh chưa làm quen được với cơn đói buổi trưa, nhất là khi vào rừng làm củi. Những lúc đó, mặt anh thường nhợt nhạt, mồ hôi vả ra cùng mình.
Toàn lại leo lên ngọn cây đã chặt gần trụi hết cành, xách luôn cả con dao theo, làm như sắp chặt thêm nếu thấy giám thị hay lính cảnh vệ theo dõi việc làm. Đứng trên cao, anh đưa mắt quan sát một vòng. Hai chú cảnh vệ đã mỏi lưng và chán ngán công việc buồn tẻ của tù nhân, dựng súng một bên và chăm chú đánh cờ, giây lát mới ngửng đầu lên ngó chừng tù. Còn giám thị kè kè khẩu súng bên hông, thong thả đi từ nơi này đến nơi khác kiểm soát công việc của từng toán.
Tiếng rìu chặt chan chát vào thân cây, lúc mau lúc thưa, dội vào tận các vách đá. Thỉnh thoảng, có tiếng la báo hiệu rồi thân cây đổ rầm rầm.
Đứng trên cây cao, Toàn thấy mấy thửa ruộng bỏ hoang, sau vách đá. Trong năm, nơi đây là mấy ruộng mía rậm rạp xanh tươi, Mạnh và Tuyên đã lẻn đến ăn trộm mía như những kẻ chết khát. Nghe họ kể lại, Toàn chảy nước miếng vì thèm.
Toàn đảo mắt nhìn kỹ lại lần nữa. Không một ruộng khoan ruộng cà, ruộng sắn. Nghĩa là không có một thứ gì ăn được. Để an ủi, Toàn lẩm bẩm:
- Thôi! Càng đỡ nguy hiểm.
Tù luôn luôn nhờ ăn trộm hoa mầu của nhân dân là một tội rất nặng sẽ bị cùm, nhốt xà-lim liền. Và rất có thể bị ‘’phong vương’’. Hình phạt phong vương thật khủng khiếp, từ trước đến nay, bị tội này, chỉ có một tù nhân sống sót không hiểu vì lẽ gì. Danh tính tù nhân đó được ghi vào niên giám với lời cước chú cần thiết để ban quản trị có tài liệu nghiên cứu thêm về tính cách hữu hiệu của hình phạt và sức chịu đựng của tù.
Nhưng ăn trộm hoa màu vô chủ cũng bị kết tội không kém nặng nề. Vì nếu vô chủ, hoa mầu đó thuộc quyền sở hữu của nhà nước, và là tài sản quốc gia. Mà ăn trộm tài sản quốc gia là kẻ phá hoại chế độ.
Toàn bất giác lạnh người vì sợ, tưởng tượng rằng nếu lát nữa đây trong giờ nghỉ trưa, có tìm thấy một trái mít rừng, anh cũng đành lắc đầu từ chối không dám sờ tới, sợ mất mạng!!
Toàn nghĩ thế nên bao nhiêu sinh lực trong người như toát thành hơi bay đi hết. Anh chán nản leo xuống tiếp tục tính toán thầm số lượng củi đã chặt được. Luôn luôn anh lo sợ không kịp đạt đúng tiêu chuẩn.
Một hồi còi ré lên, lệnh tạm nghỉ một tiếng đồng hồ được thông báo cho toàn thể tù nhân xa gần. Mọi người xếp dọn dụng cụ nghỉ mệt một lát lấy sức, đặng làm cho xong trước khi gánh một phần củi về trại.
Toàn còn đương lom khom thu xếp, tù mới 982 bước lại gần thì thầm:
- Hay quá, anh trưởng toán à!
Toàn chưa kịp hỏi, 982 đã mừng rỡ, hí hửng:
- Tôi vừa kiếm được một thứ rất có ích cho anh em trại viên.
Toàn ngạc nhiên, đoán chừng là một thứ cây, quả hay lá gì có thể ăn được, nước miếng liền ứa ra đầy miệng. Nhưng Toàn vẫn dè dặt:
- Gì thế, bạn?
982 chỉ bụi trẻ mọc bên vách đá rồi nói:
- May quá, tôi tìm thấy một ổ kiến bò nhọt.
Đang đói, Toàn liên tưởng đến tổ ong và mật ong, trưởng tổ kiến này là thứ ăn được cho đỡ đói đã mừng. Tuy vậy, anh vẫn làm bộ, hỏi:
- Để làm chi vậy?
982 thảm nhiên:
- Để bắt...rận!
Toàn vừa lạ lùng vừa chán nản vì anh lại đói cào đói cấu, ngơ ngác hỏi như người mất hồn.
- Có ăn được không?
982 bật cười:
- Mình không ăn được kiến bò nhọt nhưng nó ‘’ăn’’ được mình!
Toàn chán phè, lơ đãng nhìn đây đó, hai tay bóp bụng.
982 nói đúng phần nào. Kiến bò nhọt là một loại kiến dữ tợn thường để lại kỷ niệm khó quên cho những người chẳng may bị nó đốt. Loài kiến này thường kiếm ăn trong đám cỏ bên vệ ao nên nhiều thợ câu đánh rớt luôn cần câu xuống ao vì bị bò nhót đốt. Kiến bò nhót mình lớn bằng hạt thóc màu đen lợt, cẳng cao, chạy rất mau, đặc biệt là lúc nào cũng đi kiếm ăn một cách hăm hở, dữ tợn, sẵn sàng tấn công con mồi hay địch thủ. Nọc kiến rất độc, cho ta một cảm giác buốt như kim châm kéo dài 1, 2 phút đồng hồ không hết, nhiều khi nọc làm sưng tấy cả ngón tay, không kém gì nọc ong.
Toàn sực nghĩ ra một chước để quên đói, tiếp tục nói chuyện với 982 về kiến bò nhọt. Sau nữa, đó cũng là một kinh nghiệm có khi cần đến. Ở tù, kinh nghiệm nào cũng có thể cần đến và có thể hữu ích. Anh chậm rãi hỏi 982:
- Kiến bò nhót ở đâu? Làm thế nào để chúng bắt rận?
981 dẫn Toàn lại gần bụi tre. Trên một đốt tre ở lưng chừng cao, có một tổ kiến to phình dính vào thân cây, nhiều con kiến to cẳng cao chạy đi chạy lại hăm hở, dữ tợn, tha những thức ăn lớn gấp năm thân hình, chạy rất nhanh, 982 quan sát một lát, ấn định một kế hoạch, rồi quay sang bảo Toàn:
- Tôi sẽ bắt đàn kiến này về trại để chúng bắt rận cho anh em mình. Chỉ chúng mới bắt hết rận, trứng rận và cả rệp ở quần áo nữa. Đấy rồi anh trưởng toán coi tôi nói có đúng không?
982 nghĩ giây lát, nói tiếp:
- Tôi bắt