← Quay lại trang sách

Chương 2 -

Bệnh xá của liên trại tù Yên bái tuy là tuyến đầu tiên nhưng hầu như cũng là tuyến cuối cùng để điều trị tù nhân. Từ ngày tôi về bệnh xá, chỉ có một trường hợp duy nhất bị gãy xương đùi được chuyển ra BV tỉnh Yên Bái, nhưng ba hôm sau bệnh nhân được chuyển về với tình trạng y nguyên như cũ.

Dụng cụ của bệnh xá rất sơ sài. Chúng tôi chỉ có ống nghe, máy đo huyết áp, một bộ tiểu giải phẩu, ống chích và kim tiêm. Ngay cả găng tay là thứ chúng tôi cần nhất vẫn không có. Thuốc men cũng lèo tèo không kém, không gì ngoài mấy thứ trụ sinh thông thường do các công ty quốc danh cung cấp như penicillin, tetracycline, thuốc bổ multivitamin, thuốc đỏ, thuốc tím...Thế mà chúng tôi là cái phao cho tù nhân nương tựa khi đau yếu.

Một hôm BS. Cán, trưởng bệnh xá, gọi tôi lên để nhận thêm thuốc từ trong miền Nam gởi ra. Tôi mừng khấp khởi vì hy vọng có thêm thuốc cho bạn tù. Đến nơi tôi mới hỡi ôi, cả một đống thuốc vứt bừa bải trên sàn nhà, không có sắp xếp phân loại gì cả. Tôi kiểm lại hạn xử dụng thì đã quá đến hai năm là ít. Thì ra đống thuốc này họ hốt từ miền Nam ra, cái gì xài được họ lấy hết cả rồi, cái gì họ không xài được là ném cho chúng tôi như đổ rác. Các chỉ dẫn kèm theo thuốc họ không đọc được vì viết bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp nên không thể sắp xếp, phân loại thuốc men cho đâu ra đó, trong khi BS miền Nam chúng tôi thì đọc sách báo y khoa bằng Anh hay Pháp ngữ dễ dàng như đọc tiếng Việt. Nhưng không lẽ bỏ, bỏ thì tiếc quá, tôi nhủ thầm " Có còn hơn không. Thuốc " tư bản " biết đâu vẫn còn tốt ". Nghĩ thế tôi cặm cụi tìm trong đống thuốc bừa bãi thứ gì có thể dùng được thì nhặt ra. Tôi tìm được mấy thứ thuốc viên trị đau khớp, dạ dày, thuốc giảm đau, trụ sinh...Tôi dứt khoát loại ngay mấy thứ thuốc chích vì sợ thuốc quá hạn có thể gây ra choc thuốc (anaphylactic shock ) làm chết người thì mình hối hận suốt đời.

Tù nhân chuyển ra Bắc tháng sáu/76 có cả cấp tướng và đại tá. Trong số đó có chuẩn tướng Phạm Hà Thanh nguyên là chỉ huy trưởng ngành Quân y của tôi. Nhưng tôi không được gặp ông vì sĩ quan cấp tướng nếu đau yếu phải chính tay BS. Cán điều trị. Cấp đại tá trở xuống khi bệnh mới được đưa qua bệnh xá do tôi trông coi. Nhờ thế tôi mới có dịp được gặp một người mà tôi rất ngưỡng mộ từ lâu đó là sử gia Phạm Văn Sơn. Từ thời còn học trung học ở Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn tôi đã đọc cuốn " Việt nam tranh đấu sử " của ông mà xúc động không cùng. Tôi kính trọng, thương cảm, ngả nón kính phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm của gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ bến. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.

Ông là một học giả uyên bác, một sử gia nổi tiếng ở miền Nam, tác giả của những công trình nghiên cứu Việt sử được mọi người khâm phục. Chức vụ cuối cùng của ông là Đại tá, trưởng Ban quân sử Bộ Tổng tham mưu. Ông bị bệnh vảy nến ( Psoriasis ) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm ông bị bịnh cùi. Bệnh xá đâu có thuốc gì để điều trị cho ông, ngay cả thuốc giúp ông khỏi đau nhức khớp xương, biến chứng hay đi chung với bệnh vảy nến. Nhưng dù sao ở đây ông không phải đi lao động, được ăn cơm không độn và được nghỉ ngơi.

Yên Bái thường lạnh, nhất là dịp gần cuối năm khi bắt đầu có mưa phùn. Có những buổi sáng giá đóng trắng trên ngọn cỏ trước sân. Buổi tối anh em trong tổ điều trị chúng tôi thường đốt một đống lửa nhỏ, ngồi quây quần chuyện vãn với nhau cho đỡlạnh và đỡ nhớ nhà. Nghe những cơn gió rít lê thê bên ngoài mà buồn não ruột. Những buổi tối như thế chúng tôi đều mời ông tham dự. Chúng tôi mời ông chỉ vì ai cũng biết và kính trọng ông, nhưng cũng vì một lý do khác: ông nói chuyện rất hay, lưu loát và mạch lạc. Ở ông là cả một kho kiến thức về sử. Ông kể cho chúng tôi đủ thứ chuyện, chuyện Gia Long đào mộ Quang Trung rồi đem sọ Quang Trung giam vào ngục thất, Gia Long bó con nữ tướng Bùi Thị Xuân rồi đốt như ngọn đuốc trước mắt bà, riêng bà thì bị voi dày, cảnh Quang Trung lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân rồi kéo quân ra Bắc đánh quân Thanh...Có lúc ông đem chuyện Kiều ra bàn, ông còn làm cả thơ vịnh Kiều đọc cho chúng tôi nghe. Chúng tôi ngồi nghe ông nói quên cả thời gian và lạnh.

Trại cấm chúng tôi gọi nhau bằng cấp bậc, nhưng chúng tôi đã có cách, đại úy gọi là anh Ba, đại tá như ông chúng tôi gọi là anh Sáu. Nhưng cách gọi như thế chỉ trước mặt cán bộ, khi ngồi chung với ông bên bếp lửa chúng tôi gọi ông là Bố và xưng Con. Hôm nào chúng tôi cải thiện được được ít lá chè tươi và nấu được bát nước chè xanh chia nhau thì không khí càng đậm đà. Có khi chúng tôi xoay được thứ quý hiếm nhất trong tù là khoai mì, nướng vào lửa và mời ông. Ông bóc từng miếng mì cháy bỏ vào miệng nhai ngon lành. Tro và những vết lọ cháy dính cả lên má và môi ông, ông cũng chẳng buồn lau. Nhìn ông ăn từng mẫu mì cháy mà tôi chạnh lòng. Đời ông đã từng ăn bao nhiêu là yến tiệc sang trọng.

Lúc tôi chuyển trại ông vẫn còn ở lại bệnh xá. Sau này khi đã sang đến Úc tôi mới gặp được một người bạn tù với tôi ở Yên Bái cho biết sau đó ông được chuyển lên Vĩnh Phú và chết rất thê thảm trong tù. Tôi có bài viết của một người đàn em của ông kể rất tỷ mỷ về những giây phút đau đớn cuối cùng của đời ông. Lần tới tôi sẽ tìm và gởi tới các bạn.