← Quay lại trang sách

NGÔI NHÀ CỦA “NHẠC VIỆT CHI BẢO”

Về sống tại quê nhà là dự tính lớn nhất trong cuộc đời một con người đã cống hiến hết mình cho âm nhạc dân tộc Việt Nam. Ông đã về với một kho báu văn hóa được chắt chiu suốt cả một đời nghiên cứu. Người đó chính là giáo sư Trần Văn Khê.

Cuối năm 2004, giáo sư Trần Văn Khê, nhà văn hóa lớn của Việt Nam, về để ở lại với quê hương. Như con chim hồng hạc luôn tìm về phương Nam ấm áp, như chiếc lá bao đời rụng về cội về nguồn, ông đã thực hiện được tâm niệm lớn nhất cuộc đời mình. Kho tàng vị giáo sư già mang theo không gì khác hơn là toàn bộ hành trang nghề nghiệp quý báu đã chắt chiu, tạo dựng được qua hơn nửa thế kỷ sống và làm việc ở nước ngoài, đóng gói trong 465 thùng giấy. Ông về nhưng vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu của mình với sự trợ giúp của những nghiên cứu sinh trẻ, những học sinh, sinh viên. Ông về một mình, nhưng “không cô đơn vì đã có âm nhạc”.

Một ngôi nhà mới

Ngôi nhà giáo sư Trần Văn Khê nằm trên một con đường tương đối yên tĩnh, có thể nói là hiếm hoi của thành phố sôi động này. Bao bọc lấy ngôi nhà là khu vườn do chính nghệ nhân Út Tài - một nhà tạo mẫu sân vườn nổi tiếng - thiết kế. “Phía trước trồng cau, phía sau trồng chuối theo ý tôi là điển hình của ngôi nhà Việt Nam. Còn về hoa, tôi yêu nhất là hoa dạ lý. Trong một lần ở Pháp, tình cờ ghé nhà một người bạn, mùi dạ lý đã dâng trong lòng tôi một niềm nhớ quê hương da diết”, giáo sư kể. Cô Út Tài biết ý ông nên trồng hoa dạ lý, ngọc lan và cây nhài trắng nhỏ cạnh cửa sổ phòng ngủ để có hương thơm cho vị giáo sư già mỗi ngày. Tuổi tác chỉ có thể ngăn cản được phần nào việc đi đứng trong con người này, nhưng không thể làm ngưng được niềm đam mê nghiên cứu vốn dĩ đã là một phần cuộc sống của ông.

Được gặp giáo sư trong căn nhà khang trang trong những ngày đầu xuân, chúng tôi bị mê hoặc bởi lối nói chuyện đầy thuyết phục và sự uyên bác trong từng câu chữ, thêm vào đó còn có chất lửa luôn toát ra trong từng lời nói của ông. Giáo sư Trần Văn Khê kể cho chúng tôi nghe về những hiện vật được trưng bày trang trọng trong phòng khách. Những câu chuyện tự nhiên mộc mạc nhưng vẫn nồng nàn một tình yêu.

Tranh

Giáo sư Trần Văn Khê chỉ vào những bức tranh đẹp và kể: “Đây là một trong những món quà mà tôi rất thích. Thích ở chỗ đây là quà tặng của những người trẻ không cho biết danh tính, chỉ nói họ thuộc lớp thanh niên thành phố đã hiểu rất rõ công việc của tôi. Bốn chữ “Việt Nhạc Chi Bảo” mà họ đã nhờ một danh bút thư họa viết tặng, tôi xem đó như một phần thưởng trọn đời cho sự nghiệp âm nhạc của mình. Và tôi tin vào lớp trẻ sẽ không quay lưng với âm nhạc dân tộc. Tôi nhớ một lần trong buổi nói chuyện về âm nhạc truyền thống Việt Nam tại trường Đại học Cần Thơ, ban tổ chức đã tặng tôi bức tranh một cô gái đàn tranh. Hơn ba ngày nói chuyện của tôi thu hút được 4.500 lượt sinh viên đến nghe, kể cả những hôm trời mưa rất to mà nhiều em vẫn sẵn sàng đứng dưới mưa để nghe cho đến hết. Tôi vốn thích hội họa và cũng có tìm hiểu chút ít về bộ môn nghệ thuật này. Vào ngày 7 tháng 4 năm 1973, tại Paris, tôi vô cùng xúc động khi nhận được bức tranh của một người bạn thân từ thuở hàn vi là họa sỹ Lê Bá Đảng. “Cầu chúc anh hạnh phúc mãi mãi”, lời nói ấy chân thành như tình bạn thâm niên. Đó cũng là lời động viên trong sự nghiệp hoạt động của tôi”.

Mỗi một kỷ vật được treo trang trọng trên tường, tự chúng gắn bó với ông trong suốt những chặng đường giao lưu, giảng dạy. Kia là bức thư họa của Vũ Hối lấy ý thơ của “hiền muội” Tôn Nữ Hỷ Khương, xa xa là hai bức tranh do hai vị sư trụ trì cảm mến giáo sư khi được nghe trình bày về âm nhạc Phật giáo. Chữ “Diệu” do thầy Đại Đức Minh tặng và một tranh Phật thỉnh từ Ấn Độ của thầy trụ trì chùa Chơn Không tại Honolulu, Mỹ.

Đàn

Gắn bó cả cuộc đời với âm nhạc truyền thống như một “thiên duyên”, giáo sư Trần Văn Khê được sinh ra và lớn lên trong một gia đình hai bên nội ngoại đã bao đời thấu hiểu và giảng dạy nhạc truyền thống. Giáo sư bâng khuâng quay lại thuở thiếu thời: “Khi còn trong bụng mẹ tôi đã được nghe mỗi ngày tiếng sáo của cậu Năm. Đến lúc sáu tuổi tôi đã biết đàn kìm (đàn nguyệt), tám tuổi biết đánh đàn cò (đàn nhị), 12 tuổi đàn tranh… Lúc bảy tuổi, tôi đã theo gánh hát cải lương của cô Ba tôi là bà Trần Ngọc Viện lập ra. Do đó, việc tôi gắn bó với âm nhạc kịch nghệ truyền thống đúng là nhờ duyên trời. Trên tường, tôi treo bốn nhạc khí căn bản trong đờn ca tài tử chính là bộ: tranh, kiềm, tì (tì bà), độc (đàn bầu). Cây đàn tranh là cây đàn của thế kỷ XIX. Cả gia đình trao cho tôi đem ra Hà Nội và khi sang Pháp tôi đã mang nó theo. Đến 1949, tại Liên hoan Thanh niên quốc tế Budapest, trong cuộc thi nhạc cụ dân gian, tôi đã dùng đàn tranh để dự thi và đoạt hạng nhì”. Từng loại nhạc cụ rung lên những thanh âm như để hòa theo những giai thoại nhẹ nhàng giữa vị giáo sư tài hoa và tình cảm của những người trao tặng.

Sách và tư liệu

Giáo sư Trần Văn Khê tiếp tục: “Những gì tôi thu thập được để phát huy rất phong phú. Những tư liệu đó có giá trị tàng ẩn, cần được nghiên cứu, phân tích, diễn giải, trong đó có tài năng biểu diễn của Quách Thị Hồ (cụ đã mất), của cô Bảy Phùng Há, của Nghệ sỹ Nhân dân Võ Sỹ Thừa, Nghệ sỹ Nhân dân Năm Đồ… Khi họ còn khỏe đã minh họa cho tôi khi giải thích về những nét độc đáo trong nghề nghiệp, nay thì người mất, người chẳng còn nhanh nhẹn như xưa, nhưng với tôi họ là những người bạn vô cùng quý. Và những công trình nghiên cứu về bài bản tài tử Nam bộ, bài U lan do Đức Khổng Tử sáng tác cho đàn guqin (cổ cầm) còn có trong đĩa hát tôi mua được từ lâu ở Bắc Kinh nay khó tìm thấy được trên thị trường. Có nhiều đĩa 33 vòng hiếm hoi về truyền thống của châu Á, những cây đàn cũ kỹ đem lại giải thưởng quốc tế cho tôi đối với tôi có một giá trị lớn, nhưng nếu người khác không nắm rõ được nội dung thì đó chỉ là những vật tầm thường. Có những băng hình tôi thu được những buổi chầu văn, lên đồng, những buổi nói chuyện của tôi ở các nước, có những băng tiếng tôi thu khi đi điền dã giữ lại tiếng đàn hát của những nghệ nhân nay không còn trên đời này…”

Ước nguyện của giáo sư Trần Văn Khê

“Văn hóa nước ta vừa phong phú, vừa đầy tính nhân văn cao cả. Thí dụ cây đàn bầu chỉ một dây mà đánh ra bao nhiêu âm thanh uyển chuyển, “nửa bầu chứa cả một trời âm thanh” như nhà thơ Văn Tiến Lê đã viết. Xét về góc độ kinh tế, học nhạc dân tộc rất công phu nhưng khi hành nghề lại không nuôi dưỡng được cuộc sống của nghệ nhân nên thực tế có tình trạng âm nhạc ngày nay không còn là một nghệ thuật mình phụng sự mà biến thành một món hàng người ta mua bán. Ngoài đồng, ta không còn nghe câu hò, điệu lý, trong nhà cũng ít thấy tiếng hát ru. Vì vậy, bây giờ phải làm thay đổi tư duy này cùng với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm, học tập, đào tạo, bồi dưỡng về âm nhạc dân tộc một cách căn cơ, bài bản. Tôi may mắn còn sống và đem tất cả những tài liệu này về Việt Nam. Và tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, phân tích, xếp loại cho có hệ thống. Công việc đó đòi hỏi thời gian nhiều năm. Bao giờ hoàn chỉnh mới nghĩ đến việc trưng bày hiện vật và tư liệu trong nhà lưu niệm. Hiện nay công việc chuyển tư liệu từ cát-xét ra CD, băng video VHS ra DVD còn quá nhiều nên các bạn có lòng ưu ái đừng sốt ruột khi tài liệu chưa hoàn thành và nhà lưu niệm đã quyết định nhưng chưa khánh thành trong nay mai…”, giọng ông hào sảng.

Chúng tôi chần chừ không muốn về nhưng thấy cũng cần để giáo sư nghỉ ngơi. Một chặng đường dài hoạt động không mệt mỏi của ông trôi qua, lời ông vẫn nhẹ như không. Bác Tươi, người hơn 11 năm cận kề bên giáo sư, lại mang ra cho chúng tôi những quyển sổ đi đường. Những quyển bìa màu xanh ông ghi lại đầy đủ những gì diễn ra trong một ngày, đã gặp ai, làm gì, đi đâu… Đó lại là một câu chuyện khác về chân dung một con người mà giáo sư Vũ Khiêu đã viết tặng trong một câu đối:

Thâu tóm tinh hoa trời đất lại

Nêu cao văn hiến nước non này

Nguyễn Phước Vinh (Theo báo Doanh nhân Sài Gòn)