GIÁO SƯ TRẦN VĂN KHÊ: RA ĐI LÀ ĐỂ TRỞ VỀ
Có thể ví đó là một bình rượu nóng mà vị giáo sư 84 tuổi mang về xứ sở sau 55 năm trải nghiệm ở xứ người. Một bình rượu ủ theo thời gian ngày càng nồng hương và thuần khiết do chất men của âm nhạc dân tộc (ANDT). Ông thú thật rằng mình đã lo lắng bởi chuyến tàu gửi về quê nhà có cả số phận ông trong đó có thể bị sóng đánh chìm hay thất lạc. Nhưng vẫn phải gửi tất cả trở về. Bởi món rượu này phải uống và tận hưởng ở ngay tại quê hương.
Số phận của giáo sư Trần Văn Khê gói trong 465 kiện hiện vật, sách vở và tài liệu quý. Còn cả ông nữa, nhân chứng sống để đối thoại với thế hệ trẻ. Sở Văn hóa - Thông tin thành phố Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang chuẩn bị một dự án làm nhà lưu niệm Trần Văn Khê và về sau, chính giáo sư sẽ hiến tặng những tài sản vô giá ấy của mình để làm thành một “thư viện dân tộc học” nho nhỏ.
Còn nhớ ngày sang Pháp du học, ông chỉ độc một bộ quần áo trên người, một chiếc sơ-mi dự trữ cùng hai cây đàn cò, đàn tranh. Ngày trở về, trên tay vị giáo sư già có thêm cây gậy sắt để chống nạng đi khập khiễng, cùng sợi dây chuyền trên cổ có khắc hình cây đàn tỳ bà. Cả cuộc đời ông hiến dâng cho cây đàn muôn điệu là âm nhạc ấy thôi. Và có lẽ, ông chuẩn bị cho chuyến đi xa của mình cũng chỉ bằng tấm lòng say mê, nhiệt huyết không bao giờ cạn đối với kho tàng âm nhạc truyền thống mà ông là một trong những người tiên phong khơi gợi, cất giữ, làm phục hồi những giá trị nghệ thuật tưởng chừng tàn lụi, đưa ANDT Việt Nam ra thế giới…
Thưa giáo sư, trong của cải văn hóa mà giáo sư vẫn gọi là giá trị vô hình của một sự nghiệp, những hiện vật nào đáng giá nhất?
Trước hết tôi xin nói rõ là những tư liệu và hiện vật tôi đem về, không phải là một “tài sản vô giá” như nhiều báo đã ghi. Tất cả chỉ là những gì liên hệ đến đời sống cá nhân và nghề nghiệp của tôi, chớ không phải quan trọng đến đáng để vào “bảo tàng viện”, những hiện vật không phải “đồ sộ” mà “nhỏ nhoi” để góp phần vào di sản đồ sộ mà trong nước đã có. Trong đó có những bộ sách sử, bản ghi chép những đoạn về lịch sử âm nhạc Việt Nam, các bộ từ điển bách khoa gần như đầy đủ, những đĩa hát đầu tiên của một vài nghệ nhân Việt Nam và các nước châu Á mà đến giờ ngay ở nước sở tại đôi khi cũng khó tìm ra được. Cụ thể, tôi có hơn 100 quyển thuộc loại từ điển bách khoa của Anh, Mỹ, Ý, Pháp…; gần 200 cuốn sổ lớn đi đường ghi chép như một thiên nhật ký trong suốt hành trình tham dự hơn 200 hội nghị ở khoảng hơn 68 nước trên thế giới để làm tư liệu về dân tộc học; hơn 2.000 sách, tạp chí thuộc loại nghiên cứu âm nhạc học và nhạc kịch Việt Nam, một kho hình ảnh có thể chuyển sang lưu trữ ở CD cùng 800 cát-xét ghi lại nội dung gặp gỡ nghệ nhân trong các chuyến điền dã khắp Việt Nam và một số nước trên thế giới… Những thứ “của cải” này tuy không có một giá trị thương mại, nhưng là vô giá đối với tôi và tôi nghĩ rằng chúng có ích cho những thế hệ mai sau trong việc tìm hiểu và nghiên cứu âm nhạc theo phương pháp “dân tộc nhạc học”.
Là một trong 50 công dân danh dự của thế giới được nhập cư tại Pháp, được hưởng bảo hiểm xã hội 100%, có thể an hưởng tuổi già trong vòng tay con cháu, vậy sao giáo sư vẫn quyết định về Việt Nam?
Tôi về đây để tính sổ những chuyện đã nghiên cứu. Dĩ nhiên sức khỏe của tôi không còn tốt nữa, tôi không thể làm công việc đó một mình nên về đây để nhờ những nghiên cứu sinh trẻ, học sinh, sinh viên phụ giúp. Đồng thời, tôi muốn góp ý kiến về phương pháp nghiên cứu ANDT trong nước. Tôi biết rõ Paris có những thư viện chứa những tài liệu quý hiếm về Việt Nam và có thể chỉ cho những ai cần đến chúng.
Giáo sư có thể nói rõ hơn trong 55 năm ở xứ người, giáo sư đã tìm ra còn đường nào ngắn nhất để rọi sáng nguồn ANDT, phục hồi những môn nghệ thuật truyền thống có nguy cơ biến mất?
Con đường đó rất dài và phải đi rất lâu. Sau 29 năm tôi liên tục đề nghị, UNESCO mới chấp nhận được chương trình “Bảo tồn, phát huy âm nhạc truyền thống của các nước” trong chương trình của mình. Sau 40 năm giới thiệu giá trị lịch sử và nghệ thuật của nhạc cung đình Huế, bộ môn này mới được trong nước và UNESCO nhìn nhận đúng giá trị. Ngay ở trong nước, ANDT vẫn chưa có được vị trí xứng đáng của nó được vị trí xứng đáng của nó và trong các nhạc viện, nhạc dân tộc mới chỉ là một khoa, một hệ, chủ yếu là âm nhạc phương Tây. Các loại hình nghệ thuật như ca trù có một thời tưởng không sống nổi vì ngay cả trong xã hội ta còn bị xem là nghề bán phấn buôn hương. Tôi đã góp phần vạch ra sự hiểu lầm ấy và đưa cái hay của ca trù ra thế giới làm người thức giả trong giới nhạc phải ngạc nhiên. Tôi nghĩ rằng quan trọng phải là ý thức bảo vệ, bênh vực và giúp các bộ môn âm nhạc sống lại, chứ không phải tìm hiểu nó cho thỏa tính tò mò trong khoa học và việc nó mất còn chẳng bận tâm. Khi tôi ra các nước, họ không hề biết gì về ANDT của mình, tôi phải “tiếp thị” bằng cách nói chuyện, thuyết phục, giảng giải tại các trường đại học, các đài phát thanh, truyền hình, liên hệ các nhà xuất bản nổi tiếng trên thế giới để đưa các khái niệm về âm nhạc truyền thống Việt Nam vào trong các bách khoa từ điển, với các hãng đĩa để giới thiệu bằng âm thanh các bộ môn ANDT, để qua âm nhạc và văn hóa, người ta yêu thương dân tộc Việt Nam. Và tôi làm điều này không vì danh vì lợi mà chính vì tình thương đất nước mình.
Cả một đời tài hoa và lãng tử, vì sao khi trở về giáo sư vẫn chỉ một mình?
Một bên là tình, một bên là bổn phận, tôi vẫn tự nhủ mình hy sinh tất cả cho âm nhạc. Thế nên tôi hay giúp những thiếu nữ mến mộ mình xây dựng gia đình yên ấm để có thể quên tôi. Và tôi tiếp tục cuộc sống một mình nhưng không cô đơn vì luôn có nhạc thơ để làm bạn.
Xin cảm ơn giáo sư.
Nhật Lệ (Theo báo Lao động)