Chương 3 Sao Hôm Vào Mộng Sáng Bên Song
Phảng phất một ngọn gió xuân khe khẽ thoảng qua, hoa đào trong vườn Thương Uyển dần dần nở rộ.
Song đê chạy dài mười dặm từ đông sang tây, dòng nước cuộn chảy xiết màu ráng đỏ, hai bên bờ sông Phu hoa đào khoe sắc xen lẫn với hàng liễu rủ vàng nhạt in bóng trên mặt nước khiến cho từng gợn sóng cũng sáng lên diễm lệ.
Quả nhiên là một trong Thượng Uyển bốn mươi sáu cảnh đẹp ” Song đê tri xuân”.
Thượng Uyển xưa vốn là hoa viên trong tư dinh tiền triều đại học sĩ Triệu Mật, diện tích vô cùng rộng lớn, về sau bị phá hủy bởi nạn lửa binh, trở thành một mảnh đất hoang tàn đầy ngói gạch vụn.
Tới triều đại Vĩnh Khánh, thiên hạ thái bình yên ấm, Cảnh Tông hoàng đế bèn cho tu sửa nơi đây, xây dựng đình đài quán các, trải qua hơn năm mươi năm, đến năm đầu triều Thiên Hữu thì xong bốn mươi sáu cảnh, trở thành vường ngự uyển quy mô nhất của hoàng gia.
Thượng Uyển hành cung cách Tây Trường kinh không quá sáu mươi dặm, xa giá một ngày là tới nơi.
Kể từ thời Cảnh Tông hoàng đế, hàng năm các cuộc du xuân đều được tổ chức ở đây.
Năm nay Hoàng Đế cũng theo lệ dẫn các cung phi mỹ nữ cùng quan lại, rầm rầm rộ rộ đại giá rời Tây Trường kinh, dừng chân nghỉ tại Thượng Uyển.
Liền mấy ngày lập xuân, yến tiệc liên tiếp mở ra, vua và quần thần tận lực vui vẻ, cảnh tượng sôi nổi nào nhiệt không ngừng...
☆☆☆Duệ Thân Vương khẽ nhấp một ngụm rượu, ánh mắt như vô tình hữu ý liếc về phía vị đế vương đang ngự trên tòa.
Tòa son chín rồng, mỗi một chiếc vảy rồng vàng đều sống động như thật, hoàng đế ngồi ngay ngắn bên trên, đang lắng nghe Dự Thân Vương cùng Đa Nhĩ hãn vương đàm tiếu, khóe miệng thoảng hoặc hơi cong lên, nhìn giống như là đang cười, chung quy lại thấy hình như không phải như vậy.
Hoàng đế xưa nay quả thực cười mà không vui, có lẽ bởi vì thời Hưng Tông còn tại thế cũng không có yêu thích lắm đứa con này, mà mẫu phi của chàng là Chung thị lại thiên vị đứa con nhỏ là hoàng tử thứ mười một Kính Thân Vương Định Vịnh, cho nên một tuổi thơ sống giữa sự coi nhẹ của song thân đã dưỡng thành một vị hoàng đế tính tình lãnh đạm, lạnh nhạt.
Ngôi vị hoàng đế này vốn không thuộc về chàng, thời Hưng Tông hoàng đế còn giữ ngôi vị, ông có mười hai người con, mà Duệ Thân Vương Định Trạm là hoàng tử thứ sáu, chính do quý phi Mạo thị sinh ra.
Mạo quý phi xuất thân nghèo khổ, sau lại được Hưng Tông một mực yêu quý, sinh Định Trạm không lâu liền được sắc phong làm hoàng quý phi.
Con dựa hơi mẹ, Định Trạm sinh ra lại cực kỳ thông minh, Hưng Tông đương nhiên có ý lập chàng làm thái tử, thế nhưng nội quan triều đình lại vâng mệnh quy chế từ xưa, chủ trương lập con trương của hoàng hậu là Định Nghi làm thái tử.
Định Nghi tư chất bình thường, hoàng đế xưa nay vốn không coi trọng đứa con này, vì thế mà vua tôi giằng co, các quần thần lấy việc từ chức để uy hiếp, bãi triều một thời gian, Hưng Tông cuối cùng đành phải nhượng bộ.
Lập Định Nghi làm thái tử, còn đứa con yêu thì sắc phong cho làm Duệ Thân Vương.
Lúc này Duệ Thân Vương mới hơn chín tuổi, nhưng là vị hoàng tử duy nhất của bản triều suốt bốn trăm năm qua được phong vương khi còn là vị thành niên.
Sau khi Hưng Tông băng hà, thái tử Định Nghi vào thế chỗ, lấy hiệu Mục Tông hoàng đế.
Năm được phong thái tử, Mục Tông mười tám tuổi, Hưng Tông dạy dỗ cực kỳ nghiêm khắc, Định Nghi thường trước mặt phụ hoàng ngay cả đi cũng không dám nhầm nửa bước, trải qua hơn mười năm quả thực bị gò ép khuôn khổ.
Lên ngôi nhất thời giống như chim sổ lồng, tùy ý làm bậy.
Chỉ biết tin tưởng mù quáng một nhóm nội quan, hoang dâm vô độ, ngay tại quốc tang đã tức tốc mở cuộc tuyển chọn mỹ nữ, lấp đầy cả nội cung, lại còn tin lời bọn đạo sĩ ăn “thuốc hồi xuân”, kết quả đăng cơ mới được bốn tháng, còn chưa kịp đợi đến năm thứ hai thay đổi niên hiệu, vào ngày Bính Tý tháng mười năm Thiên Hữu thứ bốn mươi hai, nửa đêm khuyu khoắt đã từ giã cõi đời vì bạo bệnh nơi chính điện.
Trong vòng một năm mà có đến hai hoàng đế băng hà, Mục Tông chết, theo như tổ huấn thì “Huynh chết đến đệ”, cần phải lập ngay một hoàng đế kế vị.
Được xưng là “Nội tướng” trong ban Ti Lễ, thái giám Cẩm Đường cấu kết với em trai cùng mẹ của Mục Tông cũng là con trai thứ hai của Hưng Tông: Lễ Thân Vương Định Đường, phong tỏa tin tức Mục Tông băng hà, suốt đêm dẫn quân vào thành.
Lễ Thân Vương Định Đường tự cao tự đại vì là con thứ trưởng của Hưng Tông, có ý đồ lấy cảnh vệ cấm cung mưu soán ngôi đoạt vị.
Ai ngờ tướng chỉ huy quân doanh Sử Mộ Nguyên giả vờ đáp ứng, đợi đến lúc lâm trận thì quay ra phản kích, chia bính lính làm hai đường, một đường bao vây vương phủ Lễ Thân Vương, giam lỏng Định Đường, một đường thì tầng tầng lớp lớp vây quanh cấm thành, chặn đứng cửa cung.
Lý Cẩm Đường cư nhiên là không biết gì, cho quân mở cửa đón chào, không nghĩ đến Sử Mộ Nguyên dẫn mấy vạn hùng binh bảo vệ một người chính là Nghị Thân Vương Định Thuần dẫn vào.
Lý Cẩm Đường bấy giờ biết thất thế, lập tức quỳ mọp xuống hô to Nghị Thân Vương “vạn tuế”.
Định Thuần chẳng qua chỉ đơn giản cười lạnh một tiếng, tự tay vung kiếm chém chết Cẩm Đường, sau đó dùng vạt áo bào mà lau máu, lệnh cho Mộ Nguyên “Trừ gian nịnh, đuổi loạn thần”, Mộ Nguyên khom người lĩnh mệnh.
Ban đêm, quân doanh đóng cửa thành đại hạ sát đồng đảng của Định Đường cùng Lý Cẩm Đường, mà đời sau sử sách ghi lại gọi đó là “Bính Tý chi biến” (biến cố ngày Bính Tý).
Ngay sau lúc Nghị Thân Vương dùng kiếm giết Cẩm Đường, vương phủ Lễ Thân Vương bỗng nổi lên hỏa hoạn, ngọn lửa cháy bừng bừng khiến cả bầu trời kinh thành đêm ấy rực hồng.
Lúc bấy giờ trăm họ trong thành mới biết xảy ra biến cố, mà quân đội lúc vào thành đã phái một lực lượng quân binh để duy trì giới nghiêm về đêm, do chính tay Dự Thân Vương – tâm phúc thường ngày của Nghị Thân Vương – dẫn đầu, tất cả mọi người đều cấm không được đi lại trên đường, khiến cho người ta lại càng thêm hoảng loạn.
Về sau người ta đều bảo nhau, Lễ Thân Vương Định Đường vì âm mưu phản nghịch bại lộ mà uất thẹn phóng hỏa tự thiêu.
Hơn ba trăm ngươi trong vương phủ, cũng theo ngọn lửa mà đều trở thành tro cốt không còn gì, ngay cả một mạng cũng không thể sống sót, cả bao rường cột chạm trổ dài đến vài dặm trong phủ, bao đình đài gấm vóc, tất cả đều ở trong ngọn lửa ngút trời mà hóa thành hư ảo.
Liên tục ba ngày, ngọn lửa bùng lên cuồn cuộn khói đặc, tựa như mấy ngày liền trên đầu đều bị che đậy bởi một luồng ảm đạm không ánh sáng, mãi đến ngày thứ tư mới có quân từ kinh đô đến dập tắt dần dần.
Lúc này vương phủ Lễ Thân Vương đã sớm bị đốt thảnh một mảnh tro tàn, mà từ trong cung đến ngoài cung đều chỉ nghe hô một tiếng “giết”, không chỉ có bè đàn của Lý Cẩm Đường mà ngay cả tâm phúc của Lễ Thân Vương cũng bị tru diệt sạch sẽ.
Nghị Thân Vương Định Thuần tại triều đình xưng đế, năm thứ hai đổi niên hiệu là Vĩnh Thái, cũng chính là đương kim hoàng đế.
Chỉ mấy ngày trước “Bính Tý chi biến”, Duệ Thân Vương vừa hay lại bị Mục Tông điều đi dụ lăng tế thờ Hưng Tông, đợi đến khi trở về, thì thế cục đã định.
Hoàng đế sai sử ra vùng ngoại ô, Duệ Thân Vương chỉ đành cúi đầu xưng thần, hoàng đế đối xử với người anh em này cũng vô cùng khách khí, ban cho thật lớn số lượng tiền tài trang ấp, lại ban thưởng hắn bổng lộc thân vương gấp đôi.
Vốn được Hưng Tông sủng ái quá mức, Duệ Thân Vương thuở nhỏ đã xa hoa vô cùng.
Lúc này không ai quản thúc, lại càng ăn chơi đàng điếm, không có chí tiến thủ, mỗi ngày chỉ ở trong vương phủ của mình dùng đủ các của hiếm lạ quái đản để mua vui.
Duệ Thân Vương có tài viết thư pháp rất đẹp, bọn tay chân vì muốn nịnh nọt nên thường đi chiếm đoạt những bức thư pháp gia truyền của các bậc học sĩ.
Vừa thích đâm giết đầy tớ, lại hay cường đoạt con gái nhà lành làm thê thiếp.
Một thời khiến cho lòng dân căm tức sôi sục, ngay cả quan Ngự sử cũng phải đứng ra tố tội, song đều bị hoàng đế nhất nhất gạt bỏ.
Bây giờ cả triều đình đều biết hoàng đế đối với người anh em này là mở một mắt nhắm một mắt.
Duệ Thân Vương mỗi lần ngự triều thì đều tỏ ra bớt phóng túng, song khi trở về lại theo thói cũ tìm hoan mua vui, phóng đãng khôn kể.