← Quay lại trang sách

Trốn Chạy.

Carla nghe thấy tiếng xe từ trước khi chiếc xe nhú lên đỉnh cái gò nhỏ trên đường mà dân quanh vùng quen gọi là ngọn đồi. Cô ấy về rồi, nàng nghĩ. Bà Jamieson - bà Sylvia - trở về nhà sau chuyến đi nghỉ tận Hy Lạp. Từ cửa chuồng ngựa - nhưng cố ý hơi thụt vào trong để không bị phát hiện - nàng nhìn ra đoạn đường mà thể nào bà Jamieson cũng phải lái xe qua, nhà bà ấy ở trên con đường này, quãng xa hơn nhà Clark và Carla nửa dặm.

Nếu chủ định tấp vào cổng nhà họ thì đến lúc này chắc chắn chiếc xe đã đi chậm lại. Nhưng Carla vẫn hy vọng. Giá đừng là cô ấy thì hơn.

Là bà ấy thật. Bà Jamieson vụt quay đầu qua một thoáng - tâm trí bà dồn hết cả vào việc điều khiển cỗ xe qua mặt đường sỏi lằn lún vết bánh xe và những vũng nước do cơn mưa để lại - nhưng bà không nhấc tay khỏi vô lăng để vẫy, bà không phát hiện ra Carla. Carla thoáng thấy một bên cánh tay rám nắng để trần tới bờ vai, vạt tóc phai màu hơn trước, ngả trắng chứ không còn vàng bạch kim, cùng vẻ mặt vừa quyết đoán vừa càu cạu, lại vừa vui với cái càu cạu của mình - đúng cung cách bà Jamieson thường biểu lộ trong lúc đối phó với con đường thổ tả như thế này. Khoảnh khắc bà Jamieson quay đầu, có gì đó tưởng chừng như ánh đèn chớp nháng qua - dò hỏi pha lẫn hy vọng - khiến Carla thụt người lại.

Vậy đó.

Có lẽ Clark chưa biết. Nếu lúc này anh đang ngồi trước màn hình máy tính thì lưng anh sẽ quay ra cửa sổ và con đường.

Nhưng có lẽ bà Jamieson sẽ phải lộn lại con đường một tua nữa. Lái xe từ sân bay về, rất có thể bà chưa kịp rẽ vào tiệm mua thực phẩm - chỉ đến khi vào nhà rồi bà mới sực nhớ ra mình cần những món gì. Có lẽ khi ấy Clark sẽ trông thấy bà. Bằng không thì khi trời sụp tối, đèn đóm nhà bà sẽ bật sáng. Nhưng thời gian này là tháng Bảy, phải thật muộn thì trời mới tối. Mà biết đâu bà mệt đến nỗi chẳng buồn bật đèn lên, hay biết đâu bà sẽ đi ngủ sớm.

Mặt khác, có thể bà sẽ gọi điện thoại. Vào bất kỳ giây phút nào từ giờ trở đi.

Mùa hè năm nay mưa dầm mưa dề. Sáng sớm mở mắt ra đã nghe thấy tiếng mưa gõ đồm độp trên nóc nhà lưu động. Đường ngang lối dọc lún trong sình lầy, cỏ rậm ướt sũng sĩnh, cây lá trên đầu vô cớ dội nước ngay cả khi lúc ấy chẳng hề có trận mưa nào trút xuống và trời mây quang quẻ. Mỗi khi đi ra ngoài Carla hay đội mũ nỉ chóp cao rộng vành kiểu Úc xưa, bím tóc dài, dày dặn nhét vào bên trong áo sơ mi.

Chả ai tới thuê ngựa để cưỡi xuyên những lối mòn, mặc dầu Clark và Carla đã chạy khắp nơi dán quảng cáo tại tất cả các điểm cắm trại, trong quán cà phê, trên bảng thông báo của văn phòng du lịch, và bất kỳ nơi nào họ có thể nghĩ tới. Chỉ lèo tèo vài học viên đến học cưỡi ngựa, và những người này là khách quen chứ không phải lũ nhóc đi nghỉ chất đầy ắp xe buýt từ các trại hè, khiến họ tất bật xoay vần suốt hè năm ngoái. Rồi đến cả nguồn học viên thường xuyên mà họ trông cậy vào cũng đang nghỉ để đi chơi xa, hoặc đơn giản chỉ hoãn giờ học do thời tiết lình xình làm mất hứng. Dù sao chăng nữa nếu học viên gọi tới quá trễ, Clark sẽ tính họ thêm chi phí thời gian. Vài người trong số họ đã kêu ca, sau đó một đi không trở lại.

Tuy nhiên, vẫn còn nguồn thu nhập từ ba con ngựa người ta thuê chăn hộ. Ba con đó, cộng với bốn con của họ, hiện đang thả ngoài đồng, thơ thẩn quanh bãi cỏ dưới những gốc cây. Cứ trông bộ dạng ấy thì xem ra chúng chẳng thèm để ý đến chuyện mưa đã ngưng trong thoáng chốc, mưa vẫn thường ngưng một lúc như thế vào buổi chiều. Ngưng chỉ vừa đủ để vực lên những hy vọng trong con người - mây trắng ra, mỏng đi, cho lọt chút xíu thứ ánh sáng khuếch tán không bao giờ bừng lên nổi thành ánh mặt trời thật sự, và thường thì cũng tắt trước bữa tối.

Carla vừa dọn phân chuồng ngựa xong. Nàng làm túc tắc - nàng yêu thích nhịp điệu của chuỗi công việc thường nhật của mình, yêu cả cái không gian ngai ngái đủ thứ mùi bên dưới mái chuồng. Giờ nàng ra sân tập cưỡi ngựa xem mặt đất đã khô tới đâu, phòng hờ các học viên lớp năm giờ kéo tới.

Phần nhiều những trận mưa theo lệ đều không đến nỗi dữ dội hay đèo bòng thêm gió, nhưng tuần trước đất trời đột nhiên khuấy động, gió hú rít qua ngọn cây và một trận mưa mịt mùng, gần như theo phương nằm ngang, ập đến. Chỉ trong vòng một khắc đồng hồ, cơn bão đã tan ngay. Những cành cây gãy nằm vắt ngang đường, dây điện đứt, và một mảng mái lợp nhựa lớn che sân tập cưỡi ngựa long ra. Xuất hiện một vũng nước to như cái ao ở cuối sân, báo hại Clark phải hì hục tới tận tối mịt, đào rãnh cho nước thoát đi.

Nhưng chỗ mái bị tốc vẫn chưa được sửa lại. Clark đã giăng hàng rào kẽm gai ngăn lũ ngựa khỏi lội trúng bùn sình, và Carla đã đánh dấu lại một vòng đua ngắn hơn cho người tập cưỡi.

Trên mạng, ngay lúc này đây, Clark đang lướt net tìm địa chỉ mua vật liệu lợp mái. Một cửa hàng bán đồ phế thải nào đó, với giá cả họ có thể kham nổi, hay ai đấy đang cố bán tống bán tháo tấm lợp dùng rồi. Còn lâu anh mới mò tới cửa hàng cung cấp vật liệu xây dựng Hy Robert Buckley ngoài thị trấn, nơi mà anh gọi trại đi thành Highway Robbers Buggery - cửa hàng Ăn Cướp Và Kẻ Gian Xa Lộ - bởi vì anh đã nợ họ quá nhiều tiền và đã có lần uỵch nhau với họ.

Clark từng xô xát không chỉ với những người anh nợ tiền. Bản tính thân thiện của anh, ban đầu dễ tạo thiện cảm cho người khác, có thể bất thần hóa thành xấu. Có lắm nơi anh sẽ không thèm vào, những nơi mà anh luôn luôn bắt Carla phải đi thay, bởi cũng từng xảy ra một vụ cãi cọ này kia. Hiệu thuốc là một nơi như thế. Chỉ tại một bà già đã chen lên trước mặt anh - số là, bà này đã đi khỏi rồi nhưng sực nhớ ra mình để quên món gì đó, bèn quay lại và chen lên trước chứ không chịu chờ ở cuối hàng, thành ra anh ca cẩm, và người thu ngân bảo với anh rằng, “Bà ấy bị khí thũng,” Clark liền đáp, “Thế à? Tôi thì bị trĩ đây,” rồi người chủ tiệm, khi được triệu hồi tới phân giải, lại phán rằng ấy là câu nói đùa không hợp chỗ. Còn ở quán cà phê trên xa lộ thì tiền giảm giá cho bữa điểm tâm như quảng cáo không được tính, bởi vì đã quá mười một giờ sáng, Clark đôi co sau đó đánh rơi toẹt cốc cà phê mua mang đi xuống sàn - người ta bảo suýt nữa thì nó rơi trúng một đứa trẻ đang ngồi trong xe đẩy. Anh cãi đứa trẻ đó ở cách xa hàng nửa dặm và anh làm rơi cốc cà phê vì nó không có đai cầm. Người ta nói tại anh không yêu cầu đai cầm. Anh vặn lại đúng lý thì anh việc gì phải yêu cầu mới có.

“Anh điên rồi,” Carla nói.

“Đàn ông nó thế.”

Nàng chưa đả động gì với anh về trận anh to tiếng với Joy Tucker. Joy Tucker làm thủ thư ngoài thị trấn, là một khách hàng thuê họ nuôi giúp ngựa. Con ngựa đó là một ả ngựa non xốc nổi lông màu hạt dẻ tên là Lizzie - Joy Tucker, khi tếu táo, hay gọi nó là Lizzie Borden.* Hôm qua bà ta lái xe đến, trong tâm trạng không lấy gì làm vui vẻ, và kêu rêu về mái nhà chưa được lợp lại, về việc Lizzie trông sao mà buồn khổ thế, cứ như bị lạnh.

Lizzy Borden là một phụ nữ Mỹ bị buộc tội dùng rìu giết cha đẻ cùng mẹ kế của mình năm 1892. Vụ án đã gây nhiều tranh cãi và xôn xao trong dư luận.

Thật ra Lizzie chả bị làm sao hết. Clark đã cố gắng - anh cho là thế - theo chiều xoa dịu bà. Nhưng mà chính Joy Tucker là người hăng tiết, chê rằng chuồng trại của họ nhếch nhác, rằng Lizzie xứng đáng điều kiện tốt hơn, Clark buông thõng, “Tùy bà.” Joy vẫn không - hoặc chưa - chuyển Lizzie đi, như Carla đinh ninh. Nhưng Clark, vốn trước đó hay ưu ái ả ngựa non như con vật cưng của mình, giờ khước từ chăm chút bất kể cái gì thêm cho ả. Hậu quả là cảm xúc của Lizzie bị tổn thương - ả bướng bỉnh khi tập luyện và hay đá lung tung khi buộc phải được gọt móng guốc, cái việc họ vẫn làm cho ả hằng ngày kẻo không móng guốc ả sẽ chai sần. Carla đành phải dè chừng để không bị cắn.

Nhưng điều kinh khủng nhất khiến Carla lo ngay ngáy là sự vắng mặt của Flora, con dê trắng nhỏ hay cặp kè lũ ngựa cả ở trong chuồng lẫn ngoài đồng. Đã hai ngày nay không thấy bóng dáng con dê đâu. Carla sợ bọn chó hoang hay lũ sói đồng cỏ đã xơi mất nó rồi, hay một con gấu đã vồ nó cũng nên.

Đêm qua, và cả đêm hôm kia, nàng đều mơ thấy Flora. Trong giấc mơ thứ nhất, Flora bước thẳng đến giường nàng, miệng ngậm một quả táo đỏ, nhưng trong giấc mơ thứ hai - giấc mơ đêm qua - nó chạy đi khi thấy Carla tới gần. Hình như chân cẳng nó bị thương, nhưng nó vẫn chạy. Nó dẫn Carla tới một chỗ trông như hàng rào kẽm gai trên một bãi chiến trường, và rồi nó - Flora - chui qua hàng rào, toàn thân và cả cái chân đau, trôi tuột qua như một con lươn trắng và biến mất.

Bầy ngựa đã trông thấy Carla băng qua sân tập nên xồ hết cả ra mép hàng rào để làm cho nàng chú ý lúc nàng quay trở về - trông chúng ướt đầm đìa dù đã được khoác chăn New Zealand. Nàng khẽ khàng chuyện trò với chúng, xin lỗi chúng vì mình đi tay không. Nàng vuốt cổ, xoa mũi chúng và hỏi chúng có biết gì về Flora hay không.

Con Grace và con Juniper khịt mũi, hít nàng, như thể chúng nhận ra cái tên đó và chia sẻ mối lo lắng với nàng, nhưng bất ngờ ả Lizzie húc chen vào giữa, hất đầu Grace ra khỏi bàn tay âu yếm của Carla. Thừa cơ ả cắn bồi luôn bàn tay ấy một phát, khiến Carla phải mất một lúc mắng mỏ ả.

Tính cho đến cách đây ba năm, Carla chưa bao giờ ngó ngàng đến nhà lưu động. Thậm chí nàng còn không gọi chúng bằng cái tên như vậy. Mà cũng có thể, hệt như cha mẹ mình, hình như nàng đã nghĩ “nhà lưu động” là phô trương. Có một số người sống trên xe moóc, nàng chỉ biết thế thôi. Xe này chẳng khác gì xe kia. Khi Carla dọn vào sống trong đó, khi nàng chọn cách sống này với Clark, nàng bắt đầu nhìn nhận mọi thứ dưới một góc độ mới. Chính từ đấy mà nàng bắt đầu dùng từ “nhà lưu động” và hay để ý xem người ta bố trí tiện nghi trong đó như thế nào. Loại rèm người ta hay treo, phong cách người ta sơn trang trí, những kiểu tầng trên, hiên nhà hay những phòng phụ đầy tham vọng người ta cơi thêm. Nàng háo hức, tưởng như không thể đợi nổi đến giây phút tự tay mình thực hiện những cải tiến đại loại.

Clark đồng thuận với những ý tưởng của nàng, được một thời gian. Anh xây bậc thang mới, mất biết bao thời giờ đi săn lùng tay vịn sắt rèn loại dùng rồi. Anh tuyệt nhiên không hề than thở về số tiền đổ vào sơn nhà bếp và nhà tắm, hay vào đống vải vóc may rèm. Công cuộc sơn phết của nàng quả là khinh suất - lúc đó, nàng không biết rằng người ta phải tháo bản lề các cánh cửa tủ nhà bếp ra. Hoặc ta phải may vải lót vào rèm, thành ra đến nay chúng đã bạc màu hết.

Clark chỉ chịu không nổi cái việc lật thảm lót sàn lên thay - một việc tái diễn ở tất cả các phòng và là công việc nàng dồn tâm trí vào nhiều nhất. Thảm được chia thành những ô vuông nhỏ màu nâu, mỗi ô rập hoa văn và hình khối màu nâu đậm, nâu đỏ và nâu vàng. Có một dạo khá dài nàng từng nghĩ những hoa văn và hình khối trong từng ô đó phải giống nhau, phải được sắp xếp cùng kiểu. Sau đấy khi có nhiều thời gian hơn, rất nhiều thời gian, để ngắm nghía chúng, nàng lại quyết định nối bốn ô vào nhau tạo thành từng khối vuông đồng dạng lớn hơn. Đôi khi nàng dễ dàng chọn được cách sắp đặt, có khi nàng phải trăn trở ghê gớm mới nhìn ra.

Nàng làm việc này những khi ngoài trời đang mưa và tâm trạng Clark đang đè trĩu mọi ngóc ngách trong nhà, chẳng thiết chú tâm vào thứ gì khác ngoài màn hình vi tính. Nhưng việc hay nhất khi ấy là nặn ra hoặc nhớ ra chuyện gì đó để làm trong chuồng ngựa. Lũ ngựa không dám nhìn nàng khi nàng đang bức bối, nhưng Flora, vốn không bao giờ bị cột, sẽ lân la tới chà rúc vào người nàng, ngước cái mặt không hẳn là biểu lộ sự thông cảm - mà là sự châm chọc thân tình thì đúng hơn - trong đôi mắt vàng lục lóng lánh.

Flora chỉ là một con dê choai khi Clark mang nó về từ một nông trại anh tới để mặc cả mua vài món vật dụng cho ngựa. Những người chủ trại ở đó đang chuẩn bị giã từ cuộc sống thôn quê, hoặc ít nhất là đang muốn từ bỏ việc chăn nuôi - ngựa họ đã bán hết cả nhưng họ không sao tống khứ được đàn dê. Anh nghe người ta kháo nhau rằng một con dê có khả năng tạo ra bầu không khí dễ chịu và thoải mái trong chuồng ngựa nên muốn thử xem sao. Nàng và Clark dự tính mai này sẽ cho nó đẻ nhưng mãi chẳng thấy nó có dấu hiệu động dục gì.

Ban đầu nó là con vật cưng không thể chối cãi của Clark, bám gót anh khắp mọi nơi, luôn ngó ngoáy chộn rộn để gây sự chú ý của anh. Nó lanh lợi, duyên dáng, nũng nịu như một con mèo con, và cái bộ dạng giống thiếu nữ ngây thơ đáng yêu của nó khiến họ bật cười. Nhưng khi lớn hơn một chút, xem ra nó lại gắn bó với Carla, và qua sự gắn kết này nó tự dưng khôn ra và ít õng ẹo đi - thay vào đó, cứ như nó có khả năng hài hước vừa mang tính châm biếm vừa xoa dịu cảm xúc vậy. Với lũ ngựa Carla cư xử dịu dàng mà nghiêm khắc, kiểu như mẹ đối xử với con cái, nhưng tình thâm với Flora rất khác, Flora không cho phép nàng tỏ ra bề trên với nó.

“Vẫn không thấy tăm hơi Flora à?” nàng hỏi trong khi kéo dỡ các ngăn chuồng. Clark đã đăng một mẩu thông báo Tìm Dê Lạc lên mạng.

“Giờ thì chưa,” anh đáp, hơi lơ đãng nhưng không phải là không thân thiện. Anh cho rằng, không phải lần đầu, Flora chắc là đã tự đi tìm cho mình một chàng dê đực rồi.

Không một lời nào đả động đến bà Jamieson. Carla bắc ấm nước lên bếp. Clark đang hát ư ử một mình như anh thường vẫn vậy mỗi khi ngồi trước máy vi tính.

Thỉnh thoảng anh đáp trả cái máy. Nhố nhăng, anh buột miệng, trả treo trước thách thức nào đó. Hoặc anh cười rú lên - nhưng sau đó lại không nhớ chuyện gì đã làm mình cười khi nàng hỏi anh.

Carla gọi, “Anh uống trà nhé?” và ngạc nhiên khi thấy anh đứng lên đi vào bếp.

“Vậy là,” anh mở lời. “Vậy là, Caria à.”

“Là sao?”

“Bà ta đã gọi.”

“Ai?”

“Bệ hạ. Hoàng hậu Sylvia. Bà ta vừa mới về.”

“Sao em không nghe thấy tiếng xe.”

“Anh không hỏi em có nghe thấy hay không.”

“Thế cô ấy gọi làm gì?”

“Bà ta muốn em tới giúp chấn chỉnh ngôi nhà. Nguyên văn bà ta nói đấy nhá. Ngày mai.”

“Rồi anh trả lời sao?”

“Anh đồng ý. Nhưng em nên gọi lại xác nhận thì tốt hơn.”

Carla nói, “Em thấy chẳng có lý do gì mà mình phải gọi lại, nếu anh đã bảo cô ấy rồi.” Nàng rót trà vào ca cho hai người. “Nhà của cô ấy em đã dọn sạch sẽ trước khi cô ấy đi rồi mà. Em không biết ở đó có gì cần làm sớm vậy.”

“Chắc có gấu mèo đột nhập vào nhà quậy tưng trong khi bà ta đi. Biết đâu đấy.”

“Em chả việc gì phải gọi cô ấy ngay lúc này,” nàng nói. “Em muốn uống trà và muốn đi tắm.”

“Càng sớm càng hay.”

Carla cầm ca trà của mình vào phòng tắm, nói vọng ra, “Chúng mình còn phải tới hiệu giặt nữa. Khăn khố gì khô rồi mà vẫn bốc mùi kinh người.”

“Đừng có đổi chủ đề, Carla.”

Thậm chí cả khi nàng đã mở vòi sen tắm mà anh vẫn đứng ngoài cửa nói vọng vào.

“Anh không định để em thoát khỏi móc câu đâu, Carla.”

Nàng nghĩ anh còn đứng đó khi mình bước ra, nhưng anh đã trở lại bàn máy tính. Nàng diện đồ như sắp sửa ra thị trấn - nàng hy vọng nếu họ ra khỏi nhà, tới hiệu giặt tự động, mua cappuccino mang về, thì có lẽ họ sẽ nói chuyện với nhau theo cách khác, có thể sẽ giải tỏa đi phần nào. Nàng sái một bước dứt khoát vào phòng khách và quàng tay ôm lấy anh từ phía sau. Nhưng vừa khít vòng tay vào người anh thì cơn đau nhói bỗng nuốt chửng lấy nàng - chắc hơi nóng vòi sen đã giải thoát cho dòng nước mắt - nàng đổ sụp xuống người anh, tan nát, nức nở.

Anh rời tay khỏi bàn phím nhưng vẫn ngồi yên.

“Đừng nổi điên với em,” nàng khẩn khoản.

“Anh không điên. Anh rất ghét khi em như vậy, thế thôi.”

“Em như vậy là vì anh nổi điên.”

“Đừng nói anh thế này thế kia. Em làm anh nghẹt thở rồi. Nấu nướng gì đi.”

Thế là nàng đi nấu bữa tối. Bởi vì đến giờ này thì có thể chắc chắn học viên lớp năm giờ sẽ không đến. Nàng lấy khoai tây ra bắt đầu gọt vỏ, nhưng nước mắt nàng không sao ngừng rơi, khiến nàng không thể thấy mình đang làm gì. Nàng lấy một tờ khăn giấy lau mặt rồi dứt thêm một tờ nữa mang theo, bươn bả ra ngoài trời mưa. Nàng không vào chuồng ngựa, vì vắng Flora ở đó đau lòng khủng khiếp. Nàng bước dọc theo lối mòn sau nhà dẫn vào rừng. Lũ ngựa đang ở trên cánh đồng bên kia. Chúng dồn tới hàng rào nhìn nàng. Tất cả, trừ Lizzie, ả ta nhảy cỡn lên và khịt một cái, đủ khôn ngoan để hiểu rằng tâm trí cô chủ đang ở nơi khác.

Chuyện bắt đầu khi họ đọc bản cáo phó thông báo ông Jamieson từ trần. Đăng trên tờ báo thành phố, với chân dung ông ở trang tin tức buổi chiều. Mãi cho đến năm ngoái, họ chỉ biết gia đình Jamieson là hàng xóm, sống tách biệt. Bà vợ dạy môn thực vật học ở trường đại học cách đó bốn mươi dặm, do vậy phần lớn thời gian bà ở trên đường. Ông chồng là nhà thơ.

Mọi người ai cũng chỉ biết tới thế. Nhưng xem ra ông còn bận rộn những thứ khác nữa. Dù là nhà thơ, và dù đã già - có lẽ lớn hơn bà Jamieson hai chục tuổi - ông tráng kiện và tháo vát. Ông cải tạo hệ thống rãnh thoát nước nơi mình ở, nạo vét và lát đá ống cống. Ông cuốc đất, rào giậu và trồng tỉa một vườn rau, mở đường xuyên rừng, quán xuyến mọi việc sửa chữa trong nhà.

Ngôi nhà là một cơ ngơi hình tam giác trông hơi quái do chính ông xây cách đây nhiều năm, cùng với nhóm bạn, trên nền một ngôi nhà nông trại rệu rã. Người ta đồn đám người đó là dân hippy - mặc dù ông Jamieson đã hơi lớn tuổi để mà hippy, kể cả vào lúc ấy, trước khi bà Jamieson về sống với ông. Lại có chuyện kể rằng họ trồng cần sa trong rừng, đem bán, rồi tích cóp tiền trong những hũ thủy tinh gắn xi đem chôn quanh căn nhà. Clark nghe tin này từ mấy người anh quen trong thị trấn. Anh bảo đó là chuyện nhảm nhí.

“Nếu có thì giờ này chắc có kẻ đã mò vào đào nó lên rồi. Chắc có kẻ đã tìm cách bắt lão ấy phun ra chỗ cất giấu.”

Khi đọc bản cáo phó, Carla và Clark mới vỡ lẽ rằng ông Leon Jamieson là người từng được nhận một giải thưởng lớn, năm năm trước khi ông chết. Một giải thưởng thơ ca. Chưa ai từng nhắc tới điều này. Hình như người ta tin vào tiền bán ma túy chôn trong những hũ thủy tinh hơn là tiền thắng giải làm thơ.

Lập tức Clark bảo, “Lẽ ra mình đã có thể bắt lão ta phải trả giá.”

Caria biết ngay anh đang nói về điều gì, nhưng nàng coi đó là đùa tếu.

“Quá trễ,” nàng nói. “Ai mà trả giá được khi đã chết.”

“Lão không thể. Nhưng mụ thì có.”

“Cô ấy đi Hy Lạp rồi.”

“Mụ đâu có định ở hẳn Hy Lạp.”

“Cô ấy không biết mà,” Carla nghiêm trang hơn.

“Anh đâu có bảo mụ biết.”

“Cô ấy không mảy may biết tí ti gì về việc đó.”

“Thì chúng mình sẽ nói cho mà biết.”

Carla kêu lên, “Không. Không.”

Clark tiếp tục như thể nàng chưa hề kêu.

“Chúng mình sẽ nói là chúng mình sẽ kiện. Thời nào chả có kẻ vớ bẫm kiểu như thế.”

“Sao anh làm thế được? Ta không thể kiện người chết.”

“Cứ dọa lên báo. Nhà thơ lớn của thời đại. Báo chí sẽ ăn tươi nuốt sống cái tin đó. Tóm lại chúng mình chỉ việc đe dọa và rồi mụ sẽ sập bẫy.”

“Anh đừng mơ,” Carla nói. “Cứ đùa hoài.”

“Không,” Clark nói. “Anh không đùa.”

Carla bảo nàng không muốn nói về chuyện này nữa, anh bảo, ừ.

Nhưng họ lại nói về nó vào hôm sau, rồi ngày hôm sau nữa, hôm sau nữa. Thỉnh thoảng anh vẫn nảy ra những ý tưởng viển vông như thế, thậm chí có khi còn bất họp pháp nữa kia. Ba hồi anh nói về chúng với độ hưng phấn cao dần, ba hồi - nàng không biết tại sao - anh lại dẹp hết cả đi. Giả sử mưa ngừng rơi dầm dề, giả sử thời điểm này sao đó mà biến thành một mùa hè bình thường, thì chắc hẳn anh đã buông trôi ý tưởng này đi như anh đã buông trôi nhiều ý tưởng khác. Nhưng điều đó không xảy ra, vậy là suốt cả tháng qua anh cứ lải nhải về kế hoạch, cơ hồ như nó rất hệ trọng và rất chắc ăn vậy. Vấn đề chỉ là họ sẽ đòi bao nhiêu. Quá ít thì người phụ nữ đó sẽ không hoảng hốt, sẽ nảy ra ý muốn tìm hiểu xem họ có đang lường gạt bà không. Quá nhiều lại khiến bà ta phản kháng và không khéo lại trở nên ngoan cố.

Carla đã thôi cho đó là đùa cợt. Thay vào đó nàng bảo anh nó sẽ không thành đâu. Nàng bảo nó không thành là vì người ta nghĩ nhà thơ nào mà chả thế. Cho nên chẳng đáng mất công tốn tiền che đậy.

Anh nói nó sẽ thành nếu được thực hiện rốt ráo. Carla sẽ nức nở thổ lộ với bà Jamieson toàn bộ câu chuyện. Sau đó Clark sẽ đi vào, giả vờ ra điều bị choáng sốc vô cùng, vì anh vô tình nghe lỏm được. Anh sẽ nổi giận đùng đùng, anh sẽ đề cập đến việc sẽ xì ra cho cả thế giới cùng biết. Anh sẽ để tự bà Jamieson là người đầu tiên nhắc đến tiền bạc.

“Em đã bị tổn thương. Em đã nhục nhã và bẽ bàng, cả anh cũng bị tổn thương và nhục nhã bởi vì em là vợ anh. Đó là vấn đề lòng tự trọng.”

Anh cứ nhay đi nhay lại với nàng như thế còn nàng thì cố đánh trống lảng, nhưng anh cương quyết.

“Hứa đi,” anh ép nàng. “Hứa đi.”

Đầu đuôi cũng tại những lời nàng đã kể cho chồng nghe, những lời mà giờ đây nàng không thể rút lại hay phủ nhận được nữa.

Thỉnh thoảng ông ta ham muốn em à?

Lão già ấy á?

Thỉnh thoảng lão gọi em vào phòng khi mụ vợ không có nhà?

Phải.

Khi mụ ta đi mua hàng và y tá cũng không ở đó.

Giữa một trong những cơn ngột hứng ăn may của nàng, một thứ luôn khiến anh ngất ngây tức khắc.

Vậy lúc đó em làm gì? Em có vào không?

Nàng giả đò xấu hổ.

Đôi khi.

Vậy là lão gọi em vào phòng lão? Phải không? Carla? Vậy, rồi sao nữa?

Em vào xem ông ấy muốn gì.

Vậy lão muốn gì?

Những lời này được hỏi và trả lời với giọng thì thầm, dẫu không có ai nghe, dẫu họ đang ở trong lãnh địa của chiếc giường. Một câu chuyện bên chăn gối, trong đó các tiểu tiết rất quan trọng và phải bổ sung sau mỗi lần, kèm theo đó là sự miễn cưỡng, vẻ thẹn thùng, tiếng rúc rích, tục tĩu, tục tĩu.Không chỉ riêng anh mới là người sốt sắng và khoan khoái. Cả nàng nữa. Sốt sắng làm anh thích, làm anh, và cả chính nàng nữa, điếng ngất. Khoan khoái mỗi lần trò này còn hiệu quả.

Ở một góc tâm trí nàng, chuyện đó rất thật, nàng như thấy lão già dâm dục đó, thấy cái của lão ngổng lên trong chăn, đúng thực là nằm liệt, gần như không thành lời nhưng thành thạo trong ngôn ngữ ra dấu, phô bày cơn ham muốn của lão, cố ra hiệu lôi kéo nàng đồng lõa, dẫn dụ nàng bày trò gian dâm. (Sự khước từ của nàng là cần thiết, nhưng có lẽ cũng gây ra cho Clark một nỗi thất vọng mơ hồ, quái đản.)

Thỉnh thoảng một hình ảnh hiện lên khiến nàng buộc phải dập đi, e sợ nó phá hỏng mọi thứ. Nàng nghĩ tới cái thân hình mờ mờ, đắp chăn, đờ đẫn và teo quắt đi mỗi ngày trên chiếc giường bệnh thuê, đó mới là hình ảnh có thật mà nàng chỉ thoáng thấy vài bận khi bà Jamieson hay y tá trực quên khép của. Bản thân nàng chưa bao giờ thật sự tới gần ông hơn mức ấy.

Thật lòng nàng kinh sợ việc đến làm cho nhà Jamieson, nhưng nàng cần tiền, và nàng thấy tội nghiệp bà Jamieson - hình như bà đang ám ảnh và rối trí, như thể bà đang bị mộng du. Một hay hai lần Carla đã bất thần thực hiện một động thái gì đó ngớ ngẩn hết sức chỉ để làm không khí bớt căng thẳng. Kiểu hành động nàng vẫn làm khi những người lóng ngóng sợ sệt lần đầu cưỡi ngựa đang cảm thấy xấu hổ. Nàng cũng từng làm vậy với Clark khi anh chìm trong tâm trạng. Giờ nó không còn tác dụng đối với anh nữa. Nhưng câu chuyện về ông Jamieson thì có tác dụng, một cách rõ rành rành.

Không cách chi tránh nổi những vũng nước trên lối mòn, hay đám cỏ cao sũng nước dọc hai bên đường, hay bụi cà rốt dại vừa mới nở hoa. Nhưng không khí ấm đủ để nàng không bị lạnh thấu xương. Áo quần nàng ướt đẫm như thể do mồ hôi của chính nàng hay do nước mắt từ trên mặt nàng rơi xuống quyện với mưa phùn. Cơn nức nở của nàng nguôi dần. Mặc dù không có gì để lau mũi - mảnh khăn giấy đã ướt nhoét - nàng vẫn cúi người hỉ thật mạnh xuống một vũng nước.

Ngẩng đầu lên, nàng cố huýt một tiếng sáo vang dài, ám hiệu của nàng - và cũng là của Clark - gọi Flora. Nàng chờ vài phút rồi gọi tên Flora. Lặp đi lặp lại, huýt sáo và gọi tên, huýt sáo và gọi tên.

Flora không hồi đáp.

Tuy nhiên cảm giác đau đớn đơn thuần vì mất Flora, có lẽ là mất Flora vĩnh viễn, gần như là nỗi khuây khỏa so với mớ bòng bong nàng vướng phải liên quan tới bà Jamieson, và so với nỗi khổ phập phù của nàng với Clark. Ít nhất sự ra đi của Flora không bắt nguồn từ bất kỳ việc gì mà nàng - Carla - đã làm sai.

Ở tại ngôi nhà kia, bà Sylvia chả còn gì để làm, ngoài việc mở cửa sổ. Và suy nghĩ - bằng nỗi trông ngóng khiến bà bàng hoàng chứ không hề ngạc nhiên - xem bao lâu nữa mình sẽ gặp lại Carla.

Tất cả đồ dùng cá nhân của người bệnh đã được dọn đi. Căn phòng từng là phòng ngủ của bà Sylvia với chồng, rồi sau đó là phòng hấp hối của ông, đã được rửa dọn và sắp đặt ngăn nắp như chưa từng có biến cố gì xảy ra trong đấy. Carla đã giúp bà quán xuyến tất cả trong suốt mấy ngày hoảng loạn kể từ lúc ra lò hỏa thiêu tới lúc đi Hy Lạp. Từng món quần áo ông Leon đã mặc lẫn những món ông chưa bao giờ xỏ tay, gồm cả quà tặng của những bà em gái ông, vốn chưa lấy ra khỏi giấy gói, đều được chất lên ghế sau xe hơi đem chuyển giao cho cửa hàng từ thiện. Thuốc tây, đồ cạo râu của ông, những lon nước tăng lực chưa khui đã duy trì sự sống cho ông đến tận lúc hơi tàn lực kiệt, những hộp bánh quy mè mà ông cứ nhai hàng chục cái một lúc, những lọ nhựa đựng thuốc xoa lưng cho ông, những tấm chăn da cừu lót chỗ ông nằm - tất cả bị tống vào túi nylon đen cho xe rác mang đi, và Carla không thắc mắc lấy một lời. Nàng không bao giờ nói, “Có lẽ ai đó dùng được cái này,” hoặc lựa ra những hộp lon chưa khui. Khi bà Sylvia bảo, “Phải chi cô đừng mang quần áo ra thị trấn. Phải chi cô thiêu sạch chúng trong hỏa lò,” Carla cũng không tỏ vẻ ngạc nhiên.

Họ chùi bếp lò, cọ rửa tủ bếp, lau tường và cửa sổ. Một ngày, bà Sylvia ngồi trong phòng khách soạn thư từ chia buồn bà nhận được. (Không có những chồng giấy và sổ tay được giữ gìn cẩn thận, như người ta thường thấy ở nhà của các nhà văn, không có tác phẩm dở dang hoặc những bản thảo nguệch ngoạc. Ông đã bảo bà, từ nhiều tháng trước khi mất, rằng ông quăng chúng đi hết rồi. Không chút tiếc nuối.

Bức tường hướng Nam ngôi nhà dựng lên từ những cửa sổ lớn. Bà Sylvia ngước nhìn lên, ngạc nhiên trước ánh nắng nhàn nhạt vừa lộ ra - hoặc có thể ngạc nhiên vì bóng Carla đổ xuống, chân đất, tay trần, trên đỉnh chiếc thang, gương mặt quyết đoán trùm trong những lọn lăn tăn màu vàng hoa bồ công anh, quá ngắn cho kiểu tóc tết bím. Nàng xăm xắn phun nước rửa và lau kính. Khi bắt gặp ánh mắt bà Sylvia nhìn mình, nàng ngừng lau và vung hai cánh tay như thể bị kéo ra, làm vẻ mặt ngô nghê như bức tượng phù điêu đầu người trên máng xối. Cả hai bật cười rũ. Bà Sylvia cảm thấy tiếng cười vang giòn lan khắp thân thể mình như dòng suối vui thích. Bà trở lại đống thư từ khi Carla tiếp tục lau chùi. Bà quyết định cho tất cả những lời có cánh - thành thật hay chiếu lệ, tỏ lòng tôn kính và tiếc thương - ra đi cùng đám chăn lông cừu và bánh quy giòn.

Khi nghe thấy tiếng Carla leo xuống thang, nghe tiếng giày trên hiên, tự dưng bà cảm thấy xấu hổ. Bà ngồi yên tại chỗ, đầu cúi xuống lúc Carla vào phòng và đi qua sau lưng bà trên đường vào nhà bếp lấy xô và giẻ lau dưới gầm bồn rửa. Carla hầu như không dừng lại, nàng lướt nhanh như chim, nhưng cũng kịp xoay người thả một chiếc hôn xuống mái đầu đang cúi của bà Sylvia. Sau đó nàng đi tiếp, huýt sáo véo von một điệu gì đó một mình.

Nụ hôn hằn sâu trong đầu bà Sylvia kể từ đấy. Nó không mang nghĩa gì cụ thể. Chỉ là cố lên. Hoặc sắp xong rồi. Nó có nghĩa họ là bạn tốt đã sát cánh kinh qua rất nhiều việc khó khăn. Hoặc có lẽ nó chỉ có nghĩa là mặt trời đã ló rạng rồi. Rằng Carla đang nghĩ đến việc về nhà với bầy ngựa của mình. Tuy nhiên bà Sylvia thấy nó như một bông hoa nở bừng, những cánh hoa lan tỏa bên trong bà mang sức nóng náo động, tựa một cơn bốc hỏa thời kỳ mãn kinh.

Thường thì trong những lớp thực vật học mà bà dạy hay có một nữ sinh đặc biệt - một cô gái mà sự thông minh và tận hiến, tính tự cao tự đại, bản ngã vụng về, hoặc thậm chí lòng đam mê chân thành với thế giới tự nhiên, gọi nhắc bà đến cái tôi thời son trẻ của chính bà. Những cô gái như vậy thường vây quanh bà một cách tôn sùng, hy vọng được đáp lại bằng kiểu thân tình nào đó mà - trong hầu hết trường hợp - họ không thể tưởng tượng ra, và rồi họ sẽ nhanh chóng chọc tức bà.

Carla không có gì giống bọn họ. Nếu nàng có giống ai đó trong cuộc đời bà Sylvia, thì chắc hẳn là giống những cô gái bà biết hồi ở trường trung học - những cô gái vui tươi nhưng không bao giờ quá đà, những vận động viên thoải mái nhưng không cạnh tranh quyết liệt, sôi nổi nhưng không nóng nảy. Hạnh phúc hồn nhiên.

“Chỗ cô ở, ngôi làng bé tẹo, cái ngôi làng bé tẹo tèo teo, với hai bà bạn già của mình á, ừm, thuộc vào loại mà thi thoảng lắm mới có một cái xe du lịch dừng lại, như thể nó bị lạc đường, du khách xuống xe, ngó xung quanh, và hoang mang cùng cực bởi vì mình đang ở nơi chẳng là nơi nào hết. Chẳng có gì để mua.”

Bà đang nói về Hy Lạp. Carla ngồi cách bà một khoảng. Rốt cuộc cô gái tay chân to chắc, ngượng nghịu, tươi tắn ấy cũng đang ngồi đây, trong căn phòng đã chất chứa những suy tư về cô. Cô gái hơi mỉm cười, gật đầu chậm nhịp.

“Mới đầu,” bà Sylvia nói, “mới đầu cô cũng rất hoang mang. Trời nóng hầm hập. Nhưng ánh sáng thì tràn trề. Tuyệt diệu. Sau đó cô cũng tìm ra việc để làm, chỉ có vài việc đơn điệu thôi nhưng có thể tiêu hết cả ngày. Ta đi bộ nửa dặm đường để mua một chút dầu và đi nửa dặm nữa về hướng khác để mua bánh mì hoặc rượu, vậy là hết buổi sáng, ta ăn bữa trưa sơ sài dưới gốc cây, và sau bữa trưa thì trời nóng đến nỗi chẳng thể làm được gì ngoài việc đóng cửa chóp lại nằm dài trên giường, có thể đọc sách. Ban đầu ta đọc. Sau thì đọc cũng chẳng nổi. Tại sao phải đọc? Rồi ta nhận ra những cái bóng đã dài hơn và ta đứng dậy, đi bơi.

“Ôi,” bà tự cắt lời mình. “Ôi, cô quên mất.”

Bà bật dậy đi lấy món quà bà đã mang về, món quà mà thật ra bà không quên tí nào. Bà không muốn trao nó cho Carla ngay, mà muốn khoảnh khắc đó đến tự nhiên hơn, và trong khi kể bà đã nghĩ trước đến giây phút bà nhắc tới biển, đi bơi. Và nói, như lúc này bà nói, rằng, “Nhắc đến bơi lội cô mới nhớ ra vật này bởi vì nó là phiên bản nhỏ, cháu biết không, nó là phiên bản nhỏ của con ngựa người ta tìm thấy dưới biển. Đúc bằng đồng đỏ. Người ta vớt nó lên từ tận đáy biển, sau bao nhiêu năm như thế. Họ cho rằng nó có từ thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên.”

Lúc Carla bước vào và nhìn quanh tìm việc để làm, bà Sylvia đã bảo, “Ồ, ngồi xuống đây một phút đã, cô chưa có ai để nói chuyện từ lúc trở về. Đi mà. “ Carla ngồi xuống mép ghế, chân tách ra, hai tay kẹp giữa đầu gối, lộ vẻ u phiền. Như thể cố hết sức để tỏ ra lịch sự, nàng hỏi, “Chuyến đi Hy Lạp thế nào ạ?”

Bây giờ nàng đang đứng, cầm gói giấy lụa nhàu bọc con ngựa mà nàng chưa mở ra hẳn.

“Người ta cho rằng nó mô tả một con ngựa đua,” bà Sylvia nói. “Bất ngờ tăng tốc về đích, tung nỗ lực cuối cùng vào cuộc đua. Cả người cưỡi ngựa nữa, một cậu bé, cháu có thể thấy cậu ta đang thúc cho con ngựa đạt tới giới hạn tận cùng sức mạnh của nó.”

Bà không nói ra rằng cậu bé làm bà nghĩ tới Carla, và đến giờ bà cũng không biết tại sao. Nó chỉ chạc mười hay mười một tuổi. Có lẽ sức mạnh và sự uyển chuyển ở cánh tay chắc hẳn đang nắm dây cương, hay những nếp nhăn thơ trẻ trên trán, sự mê mải và nỗ lực thuần khiết ấy về mặt nào đó giống với cách Carla lau những cánh cửa sổ lớn hồi mùa xuân vừa qua. Cặp đùi khỏe mạnh trong ống quần soóc, đôi vai rộng, những cú lia rộng lên mặt kính, rồi cả động tác vung vung cánh tay, đã chào mời, thậm chí ra lệnh cho bà Sylvia phải bật cười phá lên.

“Đúng thế thật,” Carla nói, lúc này đang chăm chú xem xét bức tượng đồng nhỏ ánh xanh. “Cháu cảm ơn cô rất nhiều.”

“Đừng câu nệ. Chúng ta uống cà phê nhé? Cô đã pha rồi. Cà phê ở Hy Lạp khá đậm, đậm hơn ý cô thích, nhưng bánh mì thì tuyệt diệu. Còn quả vả chín ư, đúng là ngây ngất. Ngồi thêm chút nữa nhé. Cháu phải ngăn cho cô đừng huyên tha huyên thuyên thế này mãi. Còn ở đây thì sao? Từ đó đến nay cuộc sống ở đây thế nào?”

“Cứ mưa suốt thôi ạ.”

“Cô cũng thấy vậy. Nhìn là thấy,” bà Sylvia nói vọng ra từ góc bếp của căn phòng rộng. Trong lúc rót cà phê, bà quyết định sẽ im lặng về món quà khác mà bà đã mang về. Nó không đáng giá bao nhiêu cả (con ngựa đắt hơn cô gái có thể đoán), nó chỉ là một hòn đá nhỏ xinh đẹp màu hồng nhạt mà bà nhặt trên đường.

“Cái này về cho Carla,” bà đã nói với bà bạn Maggie của mình, lúc đó đang đi bên cạnh. “Mình biết thế là hâm. Nhưng mình muốn cô gái lưu giữ một mẩu nhỏ về mảnh đất này.”

Bà đã nhắc đến Carla với Maggie, với cả Soraya, một người bạn khác của bà ở đó, nói cho họ biết sự hiện diện của cô gái càng ngày càng có ý nghĩa thế nào đối với bà, về mối ràng buộc mơ hồ dường như ngày càng lớn giữa họ, về việc cô đã an ủi bà trong những tháng tang thương mùa xuân qua.

“Cứ như gặp một người... một người tươi tắn, tràn đầy sinh lực ùa vào nhà mình.”

Bà Maggie và bà Soraya đã bật cười một cách tử tế nhưng dễ gây khó chịu.

“Luôn có một cô gái,” bà Soraya vừa nói vừa lười nhác vươn đôi cánh tay rám nắng nặng nề ra, rồi bà Maggie tiếp lời, “Vào lúc nào đó tụi mình tất cả rồi cũng đều thế cả. Phải lòng một cô gái.”

Bà Sylvia cố nén giận trước cái từ cổ lỗ kia - phải lòng.

“Chắc đó là vì mình với Leon không có con,” bà nói. “Dớ dẩn. Tình mẫu tử thay thế.”

Các bà bạn của bà cùng lên tiếng một lúc, tuy cách nói hơi khác nhau, đại loại thứ tình cảm đó có thể xuẩn ngốc, nhưng chung quy, nó vẫn là tình yêu.

Nhưng cô gái ấy, ngày hôm nay, không có tí gì giống cái cô Carla mà bà Sylvia luôn ghi nhớ, không còn chút thần sắc thanh thản ngời ngời của sinh vật trẻ tuổi vô tư và tốt bụng đã đồng hành với bà suốt chuyến đi Hy Lạp.

Cô gái hầu như không quan tâm gì đến món quà bà tặng. Hoi có vẻ u uất khi chìa tay ra nhận cốc cà phê.

“Có điều này cô nghĩ là cháu thích lắm đây,” bà Sylvia hăng hái nói. “Lũ dê í mà. Chúng nhỏ nhắn ngay cả khi đã lớn hết cỡ. Con thì đốm con thì trắng, chúng nháy cỡn lên những tảng đá giống như... giống như bọn yêu tinh vùng đó vậy.” Bà phá ra cười hơi giả tạo, bà không cưỡng lại được. “Nếu chúng mà có đeo vòng hoa lên sừng thì cô cũng chẳng ngạc nhiên đâu. Con dê xinh xắn của cháu sao rồi? Cô quên mất tên nó.”

Carla đáp, “Flora.”

“Flora.”

“Nó đi rồi.”

“Đi? Cháu bán nó rồi à?”

“Nó biến mất. Tụi cháu không biết nó ở đâu.”

“Ôi, cô xin lỗi. Cô xin lỗi. Nhưng liệu có khi nào nó quay trở lại không?”

Không có câu trả lời. Bà Sylvia nhìn thẳng vào cô gái, một điều mà trước đó bà chưa bao giờ có khả năng làm, và thấy đôi mắt nàng đẫm lệ, mặt mũi tèm lem - đúng ra là nhem nhuốc - và thấy hình như nàng ta sưng húp nỗi buồn đau.

Nàng không tránh nổi cái nhìn của bà Sylvia. Nàng bặm chặt môi vào răng, nhắm mắt, quằn quại bổ người tới trước ra sau tựa như đang khóc gào trong câm nín, rồi bất ngờ, nàng rú lên thật sự. Nàng rú và khóc và đớp không khí, nước mắt đầm đìa chảy xuống má, nước dãi thập thò hai lỗ mũi, nàng cuống quít nhìn quanh tìm cái gì để lau. Bà Sylvia vội chạy đi lấy một nắm khăn giấy Kleenex.

“Đừng lo, của cháu đây, đây rồi, cháu sẽ ổn mà,” bà nói, nghĩ bụng có lẽ việc nên làm là ôm quàng cô gái vào lòng. Nhưng bà tuyệt nhiên không có một tí ao ước nào muốn làm thế, mà có khi làm vậy lại càng khiến tình hình tệ hại hơn. Có thể cô gái sẽ cảm nhận được bà Sylvia không muốn làm vậy tí nào, và biết được bà kinh sợ ra sao khi bị rơi vào trận đồ khóc lóc om sòm này.

Carla lảm nhảm gì đó, rồi lại lặp lại.

“Kinh khủng,” nàng nói. “Kinh khủng.

“Có gì mà kinh khủng. Người ta đôi khi cũng cần phải khóc. Không sao, đừng lo.”

“Thật kinh khủng.”

Và bà Sylvia không thể không nghĩ, sau mỗi khoảnh khắc của màn diễn đau khổ này, rằng cô gái đang tự làm mình trở nên tầm thường hơn, trở nên giống với những nữ sinh sướt mướt trong văn phòng của bà, của Sylvia. Có đứa khóc vì điểm số của chúng, nhưng đó thường là mưu mẹo, một cơn sụt sịt qua loa chả có sức thuyết phục. Hiếm xảy ra hơn, những vụ nước mắt thật sự hóa ra lại có dây dắt đến chuyện yêu đương, hoặc đến cha mẹ chúng, hoặc đến một ca dính bầu.

“Không phải chuyện con dê của cháu đúng không?”

“Không. Không.”

“Cháu nên uống một ly nước thì hơn,” Sylvia nói.

Bà chùng chình thời gian đợi nước nguội, cố nghĩ xem mình nên làm gì hay nên nói gì tiếp theo, nhưng khi bà cầm ly nước trở vào thì xem ra Carla đã bình tĩnh hơn.

“Rồi. Rồi,” bà Sylvia nói khi nàng đang uống nước.

“Thế có đỡ hơn không?”

“Dạ có.”

“Không phải con dê. Vậy thì chuyện gì?”

Carla nói, “Cháu không thể chịu đựng được nữa.”

Cô nàng không thể chịu đựng cái gì?

Hóa ra là anh chồng.

Thằng cha luôn nổi điên với con bé. Hắn hành xử như thể hắn ghét cay ghét đắng con bé vậy. Con bé chẳng thể làm gì mà hắn coi là được, cũng chẳng thể nói gì cho xuôi. Sống chung với hắn đang khiến con bé phát rồ. Đôi khi nó nghĩ nó đã rồ dại thật. Có khi nó lại nghĩ chính thằng chồng nó mới điên.

“Anh ta có đánh cháu không, Carla?”

Không. Hắn không đánh đấm gì con bé. Nhưng hắn chán ghét con bé. Hắn khinh miệt con bé. Hắn không chịu nổi khi con bé khóc, mà con bé thì không thể không khóc khi hắn nổi khùng.

Con bé không biết phải làm gì.

“Có lẽ cháu biết phải làm gì rồi,” bà Sylvia nói.

“Bỏ đi ư? Nếu bỏ được cháu đã bỏ rồi.” Carla lại bắt đầu khóc vống lên. “Cháu sẽ cho đi bất kỳ thứ gì để bỏ được. Cháu không thể. Cháu không có tiền. Đi thì cháu biết đi đâu trên đời này.”

“Ờm. Nghĩ coi. Có thật vậy không?” bà Sylvia nói bằng phong thái khuyên răn đúng chất nhất mà bà có thể tạo ra. “Cháu còn bố mẹ chứ? Chẳng phải cháu đã bảo cháu lớn lên ở Kingston? Cháu không có gia đình ở đó sao?”

Cha mẹ con bé đã chuyển tới British Columbia. Họ ghét Clark. Họ không quan tâm xem con bé sống hay chết.

Thế còn anh chị em?

Có một ông anh lớn hơn chín tuổi. Đã lấy vợ và sống ở Toronto. Ông anh này cũng chẳng đếm xỉa tới con bé. Ông anh này không thích Clark. Vợ ông ta là một kẻ hợm mình.

“Cháu đã bao giờ nghĩ đến trại lánh nạn cho phụ nữ chưa?”

“Ở đó họ chỉ nhận người bị đánh thôi. Vả lại nếu mọi người biết chuyện sẽ rất rầy rà cho việc làm ăn của tụi cháu.

Bà Sylvia cười nhẹ.

“Đây là lúc nghĩ về việc đó à?”

Tức thì Carla bật cười thành tiếng. “Cháu biết,” nàng nói. “Cháu mất trí rồi.”

“Nghe này,” bà Sylvia nói. “Nghe cô nói nhé. Nếu có tiền để đi thì cháu có đi không? Cháu sẽ đi đâu? Sẽ làm gì?”

“Cháu sẽ đi Toronto,” Carla nói liền. “Nhưng cháu sẽ không tới gần chỗ anh cháu. Cháu sẽ ở nhà trọ gì đó và sẽ tìm việc làm ở trại dạy cưỡi ngựa.”

“Cháu nghĩ cháu làm được thế?”

“Hồi mùa hè cháu gặp Clark cháu còn đang dạy cưỡi ngựa mà. Giờ cháu có nhiều kinh nghiệm hơn hồi đó. Rât nhiều.”

“Nghe như cháu đã tính toán kỹ việc này rồi,” bà Sylvia trầm tư.

Carla nói, “Giờ cháu nghĩ kỹ rồi.”

“Vậy chừng nào cháu đi nếu đi được?”

“Ngay bây giờ. Ngay hôm nay. Ngay phút này.”

“Tất cả những gì ngăn cản cháu là thiếu tiền?”

Carla hít sâu một hơi. “Đó là tất cả những gì ngăn cản cháu,” nàng nói.

“Ờ,” bà Sylvia báo. “Giờ nghe cô đề xuất thế này nhé. Cô nghĩ cháu không nên tới nhà trọ. Cô nghĩ cháu nên đón xe buýt đi thẳng tới Toronto và tới ở nhà một bà bạn của cô. Tên bà ấy là Ruth Stiles. Bà ấy có một ngôi nhà lớn, bà ấy sống một mình và sẽ không phiền nếu có người đến ở chung. Cháu có thể ở tạm đó đến khi nào tìm được việc làm. Cô sẽ giúp cháu một ít tiền. Chắc chắc ở Toronto phải có nhiều, rất nhiều trại dạy cưỡi ngựa.”

“Vâng ạ.”

“Vậy cháu nghĩ sao? Cháu có muốn cô gọi điện xem mấy giờ thì xe buýt chạy không?”

Carla đáp là muốn. Nàng run rẩy. Hai bàn tay di lên di xuống bắp đùi, đầu lắc nguầy nguậy.

“Cháu không thể tin được,” nàng láp nháp. “Cháu sẽ trả lại tiền cho cô sau. Ý cháu là, cảm on cô. Cháu sẽ trả lại tiền cho cô. Cháu không biết phải nói gì nữa.”

Bà Sylvia đã ở bên điện thoại, quay số gọi bến xe buýt.

“Suỵt, cô đang nghe giờ xe chạy,” bà nói. Bà lắng nghe, và rồi gác máy. “Cô biết cháu sẽ trả lại mà. Thế cháu có đồng ý ở nhà Ruth không? Để cô báo cho bà ấy biết. Dù vậy, vẫn còn một vấn đề.” Bà nhìn xoáy vào chiếc quần soóc và áo thun Carla đang mặc. “Cháu không thể đi xa với bộ đồ này.”

“Cháu không thể về nhà lấy gì được,” Carla hoảng hốt. “Cháu ổn mà.”

“Xe buýt có máy lạnh. Cháu sẽ chết cóng mất. Thể nào trong mớ đồ của cô chẳng có cái cháu mặc được. Hình như chúng ta cao bằng nhau?”

“Cô thon gấp mười lần cháu.”

“Trước kia thì không thế đâu.”

Cuối cùng họ chọn một chiếc áo jacket vải lanh màu nâu, hầu như chưa mặc lần nào - bà Sylvia từng coi nó là một vố chọn lầm, kiểu cách quá lấc cấc - một chiếc quần đặt may màu nâu nhạt và áo sơ mi lụa màu kem. Đôi giày đế mềm của Carla đành phải giữ nguyên cho đi chung với bộ cánh mới, bởi vì chân nàng to hơn chân bà Sylvia hai cỡ.

Carla đi tắm - một việc mà sáng hôm ấy nàng đã chẳng có tâm trí nào mà làm - trong khi bà Sylvia gọi điện cho bà Ruth. Buổi tối hôm đó bà Ruth sẽ đi ra ngoài gặp bạn bè, nhưng bà sẽ gửi lại chìa khóa cho những người thuê nhà ở tầng trên và Carla chỉ việc nhấn chuông phòng họ.

“Dù sao con bé cũng phải đón taxi từ bến xe buýt về. Tôi chắc nó sẽ xoay xở được chứ nhỉ?” bà Ruth hỏi.

Bà Sylvia cười. “Cô bé không phải là một con vịt kém cỏi đâu, đừng lo. Chỉ là cô nàng đang gặp chuyện buồn, thế thôi.”

“Vậy tốt. Ý tôi là con bé ra đi vậy là tốt.”

“Không phải con vịt kém cỏi tí nào,” bà Sylvia lầm bầm, nghĩ về Carla trong cái quần đặt may và cái áo khoác vải lanh. Người trẻ sao mà nhanh bình phục khỏi cơn tuyệt vọng đến thế và cô gái mới xinh xẻo làm sao trong bộ đồ mới toanh.

Xe buýt sẽ ghé vào thị trấn lúc hai giờ hai mươi. Bà Sylvia quyết định làm trứng tráng để ăn trưa, trải bàn bằng chiếc khăn màu xanh dương đậm, bày ra những cái ly pha lê và khui một chai vang.

“Cô hy vọng cháu thấy đói bụng để ăn được chút gì đó,” bà nói khi Carla ló ra, sạch tinh và sáng sủa trong bộ đồ mượn. Làn da phớt tàn nhang ửng đỏ lên do kỳ cọ, tóc ẩm và sậm màu lại, để buông, những lọn lăn tăn duyên dáng ẹp sát vào đầu. Nàng bảo nàng đói rồi, nhưng khi cố đưa nĩa trứng rán lên, đôi tay nàng run rẩy không sao đút được vào miệng.

“Cháu không biết sao mình lại run thế này,” nàng nói. “Chắc tại phấn khích. Cháu không ngờ sự việc lại dễ dàng đến vậy,” nàng nói.

“Rất bất ngờ,” bà Sylvia bảo. “Cứ như không thật vậy.”

“Thế nhưng, đó là thật. Tất cả mọi thứ bây giờ hình như đều là thật cả. Thật như mới vừa rồi, khi cháu đang chìm trong con mụ mị.”

“Có lẽ khi ta quyết định làm gì đó, khi ta quyết định thật sự, thì ta đều cảm giác như thế. Hoặc cảm giác nhất định phải như thế.”

“Nếu ta có một người bạn,” Carla nói với nụ cười ngượng ngập, màu đỏ bừng lan khắp cả trán cô. “Nếu ta có một người bạn thật sự. Ý cháu là một người giống như cô.” Nàng đặt dao nĩa xuống rồi lúng túng nâng ly rượu lên bằng cả hai tay. “Xin uống mừng một người bạn thật sự,” nàng nói, mất tự nhiên. “Đáng ra cháu không nên nhấp ngụm nào, nhưng cháu uống đây.”

“Cả cô nữa,” bà Sylvia nói, giả vờ vui vẻ. Bà uống, nhưng rồi lại phá hỏng khoảnh khắc ấy bằng câu, “Cháu sẽ gọi cho anh ta chứ? Hay là sao? Anh ta cần phải biết. Ít ra anh ta cần biết cháu ở đâu vào lúc anh ta đinh ninh cháu đang ở nhà. “

“Không gọi đâu ạ,” Carla nói. “Cháu không thể. Có lẽ nếu cô...”

“Không,” bà Sylvia nói. “Không.”

“Không, vậy ngu quá. Đáng ra cháu không nên nói thế. Thật khó mà suy nghĩ cho đàng hoàng. Có lẽ cháu nên làm thế này, cháu nên ghi một mẩu giấy nhắn bỏ vào thùng thư. Nhưng cháu không muốn anh ta biết quá sớm. Cháu thậm chí không muốn cô cháu mình lái xe qua đó khi chúng ta ra thị trấn. Cháu muốn đi đường cửa sau. Vậy nếu cháu viết... nếu cháu viết, thì cô có thể, cô có thể bổ nó vào thùng thư khi cô trở về được không?”

Bà Sylvia đồng ý, thấy không còn giải pháp nào hay hơn.

Bà lấy giấy bút ra. Bà rót thêm chút rượu. Carla ngồi thừ ra nghĩ ngại, sau đó viết mấy chữ.

Em đã ra đi rồi. Em sẽ ổng*.

Nguyên văn: “I will be all write’’. Carla viết nhầm chữ “right thành “write’’.

Đó là những chữ bà Sylvia đọc thấy khi bà mở tờ giấy ra, trên đường từ bến xe buýt trở về. Bà tin chắc Carla phân biệt được chữ ổng với ổn. Chẳng qua tại cô nàng cứ nói đi nói lại mãi về việc viết thư nhắn, và cô nàng cũng đang ở trong tâm trạng rối bời. Xem ra còn rối hơn bà Sylvia đã nhận thấy. Rượu đã khơi tuôn mạch nói, nhưng dường như không lồng kèm bất kỳ sự đau đớn hay uất ức nào. Con bé kể về trại ngựa nơi con bé làm việc và gặp Clark năm mười tám tuổi, khi chỉ mới rời trường trung học. Cha mẹ con bé muốn con bé lên tiếp đại học, con bé tán đồng miễn là có thể chọn được ngành bác sĩ thú y. Tất cả những gì con bé thật lòng muốn, muốn suốt đời, là được làm việc chung với súc vật và sống ở thôn quê. Ở trường phổ thông con bé vốn là một đứa ngu ngơ vụng về, thuộc vào loại hay bị tụi bạn xách mé thô thiển, nhưng con bé không quan tâm.

Clark là huấn luyện viên dạy cưỡi ngựa giỏi nhất ở đó. Hàng đống phụ nữ mê anh ta, họ đăng ký học cưỡi ngựa chỉ để được anh ta làm thầy. Carla hay ghẹo anh ta về những phụ nữ anh ta dạy và ban đầu hình như anh ta thích thế, sau đó đâm ra quạu. Con bé xin lỗi và cố dàn hòa bằng cách nghe anh ta thổ lộ về giấc mơ - thật ra là kế hoạch - mở một trường dạy cưỡi ngựa của anh ta, một trại ngựa, ở nơi nào đó vùng quê. Một hôm con bé vào chuồng ngựa, bắt gặp cung cách anh ta treo bộ yên của mình lên và con bé nhận ra mình đã yêu anh ta.

Giờ thì con bé nghĩ đó chẳng qua là dục tình. Có lẽ đấy chỉ là dục tình mà thôi.

Tới độ thu về, đúng ra con bé phải thôi việc để vào đại học ở Guelph, nhưng con bé khước từ không chịu đi, bảo rằng nó cần nghỉ một năm.

Clark rất thông minh nhưng lại không đủ kiên nhẫn để học hết trung học. Anh ta đã mất liên lạc hoàn toàn với gia đình. Anh ta nghĩ gia đình giống như chất độc ngấm vào máu người ta. Từng làm nhân viên phục vụ trong bệnh viện tâm thần, làm người chỉnh nhạc cho đài phát thanh ở Lethbridge, Alberta, làm nhân công xây đường cao tốc gần vịnh Thunder, làm thợ cạo học việc, làm chân bán hàng quân trang tồn kho. Mà đó mới chỉ là những việc anh ta đã kể cho con bé nghe.

Con bé đặt cho anh ta biệt hiệu Kẻ Phiêu Bạt, theo lời một bài hát, một bài hát xưa mẹ nó thường hay hát. Giờ về nhà, con bé véo von bài ấy suốt ngày và mẹ nó biết rằng đang có gì đó manh nha.

“Đêm qua nàng ngủ trên giường nệm lông chim

Đắp chân bông lụa

Đêm nay nàng sẽ ngủ dưới đất cứng lạnh...

Cạnh chàng phiêu bạt dấu y-ê-u-u-u. “

Mẹ con bé ca cẩm, “Nó sẽ vò tan nát tim mày cho mà xem, chắc chắn.” Cha dượng con bé, một kỹ sư, thậm chí không công nhận Clark có được uy năng cỡ đó. “Đồ tồi bại,” dượng gọi anh ta. “Thằng ma cà bông.” Cứ như thể Clark là con rệp cho ông ta phủi khỏi áo không bằng.

Thành ra Carla phải lên tiếng, “Ma cà bông có để dành đủ tiền mua một nông trại không? sẵn nói luôn, anh ấy đã làm được như thế rồi,” và ông dượng chỉ nói, “Tôi không tranh luận với cô nữa.” Dẫu gì con bé cũng không phải là con gái ông ta, ông ta nói thêm vậy, coi đó như lý lẽ đanh thép.

Thành ra, rất tự nhiên, Carla phải trốn đi với Clark. Cách hành xử của cha mẹ con bé gần như đứng đằng sau chuyện đó.

“Cháu có liên lạc với cha mẹ sau khi đã ổn định rồi không?” bà Sylvia hỏi. “Ở Toronto ấy?”

Caria nhướng mày lên, hóp má thành một chứ o ngộ nghĩnh nơi miệng. Và buông thõng, “Không.”

Rõ ràng có hơi men.

Trở về nhà, sau khi đã bỏ mẩu giấy nhắn vào hộp thư, bà Sylvia dọn đống chén đĩa vẫn còn bày trên bàn, rửa và chà bóng chảo tráng trứng, dìm xấp khăn ăn và tấm khăn trải bàn màu xanh vào chậu giặt, mở cửa sổ ra. Bà làm trong tâm trạng hoang mang, hối hận pha lẫn bực tức. Bà đã lấy hẳn một bánh xà phòng mới mùi táo cho cô gái tắm và cái mùi đó vẫn còn. phảng phất trong nhà, hệt như khi nãy thoang thoảng bay trong không gian xe hơi.

Mưa vừa tạnh. Bà không thể ngồi yên, vì vậy bà ra ngoài đi dạo dọc theo lối mòn do ông Leon dọn mà thành. Lớp sỏi ông lót vào những quãng lầy lội đã bị rửa trôi gần hết. Ông bà từng hay dạo bước khi xuân về, đi tìm hoa lan dại. Bà dạy cho ông tên của từng loài hoa dại - mà ông quên hết, ngoại trừ hoa diên linh thảo. Ông từng hay gọi bà là Dorothy Wordsworth của ông.*

Dorothy Mae Ann Wordsworth (1771-1855): nữ nhà thơ Anh, em gái nhà thơ lớn cùa trào lưu văn học lãng mạn William Wordsworth.

Mùa xuân năm ngoái có lần bà đi ngắt về cho ông một bó hoa violet răng cưa, nhưng ông nhìn chúng - như thỉnh thoảng ông nhìn bà - với vẻ kiệt sức và cự tuyệt.

Bà vẫn thấy hiển hiện hình ảnh Carla - Carla bước lên xe buýt. Lời cảm ơn của con bé chân thật nhưng có vẻ lơ đãng, cái vẫy tay hờ hững. Bà vốn