Thân Lực.
THẦN LỰC
ĐỂ DANTE NGHỈ GIẢI LAO ĐI
13 tháng Ba, 1927. Giờ thì ta lại có mùa đông, đúng lúc lẽ ra ta phải được thấy mùa xuân. Bão lớn chặn kín những nẻo đường, trường học đóng của. Có tin vài người già ra đường đi dạo suýt nữa thì bị đông cứng. Hôm nay mình xỏ giày đi tuyết vào rồi bước giữa phố, chẳng thấy dấu chân ai khác ngoài dấu giày của chính mình in trên tuyết. Đến lúc mình từ cửa hàng quay về thì những dấu chân của mình đã bị phủ lấp hoàn toàn. Sở dĩ như vậy là do hồ không đóng băng như thường lệ và gió Tây chở theo biết bao hơi ẩm, trút xuống ta thành tuyết. Mình đi mua cà phê với vài ba món đồ thiết yếu khác. Người mình chạm trán trong cửa hàng không phải ai khác mà chính là Tessa Netterby, con bạn mình chưa gặp có đến cả năm nay rồi. Mình thấy có lỗi vì chưa bao giờ cất công đi thăm nó, bởi mình từng cố duy trì một thứ gần như tình bạn với nó sau khi nó bỏ học. Mình nghĩ mình là đứa duy nhất làm thế. Người nó quấn sù sụ trong chiếc khăn lớn, nhìn cứ như từ sách truyện bước ra. Nửa trên to hơn nửa dưới, thật đấy, bởi lẽ nó sở hữu gương mặt rộng với mái tóc đen quăn lọn như mớ giẻ trên đôi vai rộng, trong khi nó chỉ cao mấp mé một mét rưỡi. Nó chỉ cười, đúng kiểu con bé Tessa ngày xưa. Mình hỏi thăm nó dạo này ra sao - ta luôn luôn thăm hỏi nó như thế mỗi khi gặp nó, một cách nghiêm túc, bới vì hoàn cảnh khó khăn chi đó đã vây hãm nó lâu lắc đến nỗi đẩy nó khỏi trường học khi mới mười bốn tuổi. Nhưng ta hỏi thế cũng là vì ta chẳng nghĩ ra được gì khác mà nói, nó đâu có ở trong cùng thế giới với những người còn lại chúng ta. Nó không vào bất cứ câu lạc bộ nào, cũng không thể tham gia bất kỳ môn thể thao gì, nó chả có đời sống xã hội bình thường. Đúng là cuộc sống của nó cũng liên quan dính líu tới con người và không có mắc mứu gì trong đấy cả, nhưng mình chả biết mô tả thế nào về cuộc đời nó, mà hình như bản thân nó cũng chả biết mô tả làm sao luôn.
Ông McWilliams ở ngoài cửa hàng trông giúp bà McWilliams bởi vì các nhân viên không tới được chỗ làm. Lão này hay trêu ghẹo rất kinh, và lúc này lão bắt đầu bỡn cợt Tessa, hỏi nó có biết tin con bão đang xộc tới hay không mà sao không cho đám thiên hạ còn lại biết, vân vân, rồi bà McWilliams quát lão im mồm đi. Tessa tỏ vẻ như nó chưa bao giờ nghe thấy gì, chỉ hỏi mua một hộp cá. Mình đột nhiên cảm thấy không thoải mái khi hình dung tới cảnh nó ngồi ăn tối bằng cá hộp. Một chuyện hầu như không thể xảy ra, vì mình thấy không lý gì mà nó không thể tự nấu ăn như bất cứ người nào khác.
Tin sốt dẻo mình nghe được từ cửa hàng là mái trần Sảnh Hiệp sĩ Đền thờ mới bị sập. Vậy là đi tong luôn sân khấu diễn vở Những kẻ chèo thuyền* đã ấn định sẽ trình làng vào cuối tháng Ba này. Sân khấu tòa thị chính không lớn đủ, còn nhà hát lớn hiện đang được trưng dụng để chứa quan tài của xưởng mộc Hay’s Furniture. Cho nên tối nay chúng mình đáng ra có buổi tổng diễn tập, nhưng mình không biết có ma nào tới được không, hoặc kết quả sẽ ra sao.
The Gondoliers, hay The King of Barataria, vở nhạc kịch do Arthur Sullivan viết nhạc và w. s. Gilbert soạn lời, công diễn lần đầu vào năm 1889 tại nhà hát Savoy, với 554 suất diễn thành công, kết thúc vào năm 1891.
16 tháng Ba. Quyết định xếp xó Những kẻ chèo thuyền trong năm nay, chỉ có sáu mống tới tổng duyệt trong sảnh trường đạo cho nên chúng mình bỏ cuộc và kéo nhau tới nhà Wilf uống cà phê. Wilf cũng thông báo rằng anh dự định đây sẽ là buổi diễn cuối cùng của mình, bới vì công việc của anh đang quá bù đầu, và chúng mình sẽ phải đi tìm một giọng tenor khác. Đó quả là một cú đấm trời giáng bởi vì anh là người giỏi nhất.
Mình vẫn cảm thấy tức cười khi gọi một ông bác sĩ bằng tên cho dù anh ta chỉ mới tròm trèm ba mươi. Nhà anh đã từng là nhà của bác sĩ Coggan và đến nay nhiều người vẫn gọi nó như vậy. Nó được chủ ý xây thành nhà của bác sĩ, với chái phòng khám chếch một bên. Nhưng Wilf đã cho làm lại hết, một số bức ngăn được dỡ xuống cho không gian rộng hơn và sáng sủa hơn, thành thử Sid Ralston trêu rằng anh chàng đang chuẩn bị sẵn sàng để lấy vợ. Mà đề tài vợ chồng này là cực kỳ nhạy cảm đối với Ginny, cũng đang có mặt trong đám, nhưng có lẽ Sid không biết. (Ginny vị chi đã có tới ba lời cầu hôn. Thứ nhất là của Wilf Rubstone, sau đó đến Tommy Shuttles, rồi sau đó nữa là Euan McKay. Một bác sĩ, một chuyên gia nhãn khoa, rồi đến một mục sư. Cô nàng lớn hơn mình tám tháng nhưng mình chả dám hy vọng mình sẽ chen đua kịp với cô nàng. Mình nghĩ ít nhiều chính cô nàng đã dắt mũi họ, mặc dù cô nàng luôn thanh minh rằng cô nàng không thể hiểu nổi tại sao lại thế, và rằng lần nào họ ngỏ lời xin cưới cô nàng cũng đều bất thình lình như sét đánh giữa ban ngày. Còn mình thì nghĩ thiếu gì cách biến mọi chuyện thành trò đùa và để cho họ biết là ta không đón chào một lời cầu hôn, trước khi ta bật đèn xanh cho họ rồi để họ tự biến mình thành thằng hề.)
Nếu có bao giờ bị bệnh thập tử nhất sinh thì hy vọng mình có thể hủy cuốn nhật ký này đi, hoặc đọc một lượt và dập đi tất cả những chi tiết đáng xấu hổ trong đây, phòng khi mình chết.
Cả bọn chúng mình đã chuyện trò với nhau khá nghiêm túc, mình không biết tại sao lại thế, nội dung xoay quanh những thứ chúng mình đã học ở trường và về việc chúng mình đã quên mất bao nhiêu rồi. Có người nhắc tới Câu lạc bộ Hùng biện từng tồn tại trong thị trấn, nó đã bị đào thải như thế nào sau chiến tranh, khi mà ai nấy đua nhau mua xe hơi vi vu đó đây, đi xem phim và bắt đầu chơi gôn. Các thành viên câu lạc bộ đã từng tranh luận những đề tài nghiêm túc đến thế nào. “Khoa học hay văn chương, cái nào quan trọng hơn đối với sự hình thành nhân cách của con người?” Ai ơi thử tưởng tượng xem ngày nay có thể bắt thiên hạ đi ra ngoài dỏng tai lên nghe những thứ đó được không? Ngay như ngồi túm tụm lộn xộn mà nói chuyện về nó, chúng mình cũng cảm thấy ngớ ngẩn ấy chứ. Bỗng Ginny nảy ra ý kiến rằng ít nhất hãy thành lập Câu lạc bộ Đọc sách, như thế sẽ khuyến khích chúng mình đọc những quyển sách quan trọng chúng mình luôn muốn đọc nhưng chưa bao giờ giở ra. Cuốn văn hóa La Mã và Hy Lạp cổ của Harvard vẫn ngồi nguyên trên kệ đằng sau cánh cửa kính trong phòng khách năm này qua năm khác. Tại sao không là Chiến tranh và hòa bình, mình nói, nhưng Ginny tuyên bố cô nàng đã đọc nó rồi. Vì vậy nên có màn bỏ phiếu chọn giữa Thiên đường đã mất với Thần khúc, với phần thắng nghiêng về Thần khúc. Tất cả những gì chúng mình biết về quyển này là nó không phải hài kịch*và được viết bằng tiếng Ý, dẫu rằng dĩ nhiên chúng mình sẽ đọc nó bằng tiếng Anh. Sid tưởng nó viết bằng tiếng Latin và bảo cậu ta đã đọc nó trong lớp cô Hurt đủ để dùng suốt cuộc đòi rồi, cả đám chúng mình cười phá lên, thế là cậu ta bèn giả vờ như đã biết từ đầu rồi. Dù sao thì giờ đây khi Những kẻ chèo thuyền đã hoãn, chúng mình cũng phải tìm thời gian gặp hai tuần một lần để khích lệ tinh thần cho nhau.
Tên tiếng Anh của Thần khúc của Dante là The pine Comedy, dịch từ nguyên tác tiếng Ý Le pina commedia, với “comedy” có nghĩa là “hài kịch”.
Wilf dẫn chúng mình đi xem nhà anh. Phòng ăn ở một bên hành lang và phòng khách ở bên kia, nhà bếp có chạn âm tường, có bồn rửa đôi và lò điện đời mới nhất. Có phòng vệ sinh mới ở cuối hành lang, một phòng tắm tiện nghi hiện đại, tủ âm tường rộng đủ để bước cả người vào, với nhiều tấm gương lớn gắn trên cửa. Sàn nhà lát gỗ sồi vàng óng khắp nơi. Khi về mình thấy nhà mình sao mà chật chội thảm hại, ván ốp tường sao mà xỉn đen và lỗi thời đến thế. Trong bữa sáng mình bàn với ba xây phòng tắm nắng sát bên phòng ăn để ít nhất nhà mình cũng có một căn phòng sáng sủa hiện đại. (Mình quên không kể nhà Wilf có phòng tắm nắng xây từ nguyên cả chái nhà đối diện phòng khám của anh, tạo nên một sự cân bằng rất hài hòa.) Ba bảo cần thứ đó để làm gì trong khi nhà ta đã có hai mái hiên đón nắng buổi sáng và buổi tối rồi? Vì vậy mình thấy xem ra kế hoạch cải tạo cơ ngơi này của mình sẽ chẳng đi đến đâu.
1 tháng Tư. Sáng sớm bảnh mắt thức dậy là mình nói dối ba. Mình chạy ra hành lang hét lên thất thanh rằng có một con dơi chui qua ống khói vào phòng mình, tức tốc ba bắn ra khỏi phòng tắm với dây đeo quần lòng thòng và bọt xà phòng khắp mặt, bảo mình thôi kích động la lối như bị ai bóp họng mà hãy chạy đi lấy chổi ngay. Vậy là mình đi lấy, sau đó mình trốn trên cầu thang phụ, vờ sợ rúm ró trong khi ba chạy thình thịch quanh phòng không kịp đeo mắt kính, cố tìm cho bằng được con dơi. Cuối cùng thấy tội nghiệp ba quá mình hét to, “Cá Tháng Tư!”
Kế tiếp là Ginny gọi tới than vãn, “Nancy ơi, tớ phải làm gì bây giờ? Tóc tớ rụng khắp gối luôn, những lọn tóc đẹp của tớ rải khắp gối nên giờ tớ sắp hói rồi, tớ không bao giờ dám ra khỏi nhà nữa, cậu chạy qua đây ngay xem tụi mình có thể nhặt nhạnh làm thành một bộ tóc giả được không?”
Thế là mình nói điềm nhiên, “Thì cứ trộn bột với nước rồi quết lên dán vào là xong chứ gì. Mới lại cậu có thấy tức cười không khi chuyện ấy xảy ra vào đúng sáng ngày Cá Tháng Tư?”
Giờ đến sự kiện mà mình chẳng muốn ghi lại cho lắm.
Mình rảo bộ tới nhà Wilf mà không đợi ăn sáng bởi vì mình biết anh hay tới bệnh viện sớm. Đích thân anh chàng ra mở cửa trước, áo gi lê và sơ mi chính tề. Mình không để tâm tới phòng khám vì cho rằng nó vẫn còn đóng. Bà già anh thuê làm quản gia - mình thậm chí còn không biết tên bà ta - đang dộng rầm rầm trong nhà bếp. Mình đinh ninh người ra mở cửa là bà ta, nhưng đúng lúc đó anh đang ở tiền sảnh chuẩn bị đi, “Có gì đó Nancy?” anh nói.
Mình không nói không rằng, cứ mặt nhăn mày nhó ôm chặt cái cổ.
“Em làm sao vậy, Nancy?”
Túm chặt cổ hơn nữa, ho khọc khọc khổ sở, lắc đầu lia lịa ra dấu tỏ ý mình không thể nói được. Ôi chao, thương tâm quá.
“Vào đây,” Wilf nói, đoạn dẫn mình qua hành lang bên hông, qua cửa nhà vào phòng khám. Mình thấy bà già kia hé nhìn ra nhưng mình ra điều không nhìn thấy bà ta, cứ tiếp tục trò vờ vịt của mình.
“Xem nào,” anh nói, ấn mình vào ghế bệnh nhân và bật hết các bóng đèn lên. Những tấm mành vẫn chưa cuốn lên khỏi các ô cửa sổ và cả phòng sặc sụa mùi thuốc sát trùng hay mùi gì đó. Anh lấy ra một cây đè lưỡi cùng dụng cụ dùng để soi sáng nhìn sâu vào cổ họng.
“Nào, há miệng ra hết cở coi.”
Mình há mồm ra, nhưng ngay khi anh định đè lưỡi mình xuống thì mình kêu lên, “Cá Tháng Tư!”
Không một nhíu cười trên mặt. Anh vứt cây đè lưới đi và tắt phụp đèn trên dụng cụ, không hé một lời cho tới khi anh giật phắt cửa ngoài phòng khám. Rồi mới nói, “Anh còn phải khám cho bệnh nhân nữa, Nancy. Sao em không học cách cư xử cho đúng tuổi của mình?”
Vậy nên mình vụt gấp ra khỏi nơi đó như con chó cụp đuôi. Mình chả có bụng dạ nào mà hỏi anh tại sao không hưởng ứng trò đùa. Khỏi nói cũng biết, thể nào cái bà già tọc mạch trong bếp cũng sẽ đồn ầm vụ này ra khắp thị trấn, anh đã nổi khùng như thế nào và mình đã phải nhục nhã cút thẳng ra sao. Mình cảm thấy bứt rứt kinh khủng suốt ngày hôm đó. Thêm sự trùng hợp ngu ngốc nhất là mình thậm chí phát bệnh, phát sốt, rồi đau râm ran cổ họng, chỉ còn biết ngồi ở phòng trước đắp chăn lên đùi mà đọc lão Dante già. Tối mai mới là buổi gặp gỡ của Câu lạc bộ Đọc sách, vì vậy chắc là mình đã đi trước bọn họ một quãng xa. Rắc rối ở chỗ không chứ nghĩa gì chui được vào đầu mình, bởi mình cứ vừa đọc vừa suy nghĩ lan man rằng cái trò mình mới làm nó vô vị làm sao, trong tai cứ âm âm giọng nói sắc như dao của anh bảo mình phải cư xử cho đúng tuổi. Nhưng sau đó mình thấy mình trả treo với anh trong đầu rằng đi tìm chút niềm vui bé tẹo trong đời đâu có gì mà gớm ghiếc. Mình tin chắc ba của anh là mục sư, phải chăng việc ấy đã ảnh hưởng tới anh? Gia đình mục sư chuyển chỗ ở nhiều đến nỗi anh không bao giờ có thời gian giao du với một nhóm bạn lớn lên cùng nhau, để hiểu nhau và chọc ghẹo nhau.
Mình hình dung anh lúc giữ cánh cửa mở với áo gi lê và sơ mi hồ cứng. Cao và mỏng tựa dao. Tóc rẽ ngôi thắng thớm và ria mép tỉa nghiêm ngặt. Giời ơi, thảm họa.
Mình phân vân không biết có nên viết cho anh một lá thư giải thích rằng đùa vui không phải là xúc phạm, theo quan điểm của mình? Hay là nên viết một lá thư xin lỗi hẳn hoi?
Mình không thể hỏi ý kiến Ginny được vì anh đã cầu hôn cô nàng, như vậy có nghĩa anh nghĩ cô nàng là người có giá trị hơn mình. Và mình đang rơi vào tình trạng thiểu não đến nỗi mình tự hỏi liệu nói ra thì cô nàng có bí mật dùng chuyện này để điều khiển mình không. (Thậm chí không biết cô nàng đã gạt bỏ anh thật hay chưa.)
4 tháng Tư. Wilf không đến Câu lạc bộ Đọc sách vì có người già nào đó bị đột quỵ. Bồi vậy mình viết cho anh một mẩu nhắn. Cố tỏ ý xin lỗi trong đó nhưng cũng không quá nhún nhường. Cái này cũng dằn vặt mình không yên. Không phải mẩu giấy nhắn mà là việc mình đã viết nó.
12 tháng Tư. Mình nếm trải cảm giác ngạc nhiên tột độ trong cuộc đời trẻ trung ngờ nghệch của mình khi ra mở cửa vào trưa nay. Ba vừa về nhà và mới ngồi xuống ăn thì đó kìa, Wilf. Anh không bao giờ trả lời mẩu thư nhắn mình viết cho anh và mình đã đành cam chịu rằng anh có ý ghê tởm mình mãi mãi, và sau này tất cả những gì mình có thể làm là khiến anh nhăn mặt hỏi vì mình đâu có quyền lựa chọn.
Anh hỏi anh có làm gián đoạn bữa ăn của mình không.
Anh không làm gián đoạn gì hết bởi vì mình đã quyết định không ăn cho tới chừng nào tiêu bớt đi hai ký rưỡi. Trong khi ba và bà Box ăn thì mình ngậm chặt miệng lại và thả mình vào Dante.
Mình đáp, không.
Anh bảo, thế thì, đi với anh một chút nhé? chúng ta có thể ngắm băng tan trên sông, anh nói. Anh tiếp tục giái thích rằng anh đã thức gần như suốt đêm và phải mở cửa phòng khám lúc một giờ, thành ra anh không có thời gian chớp mắt, và không khí trong lành sẽ làm anh hồi sức mau hơn. Anh không nói tại sao anh phải thức cả đêm cho nên mình đoán chắc là có một đứa bé chào đời và anh nghĩ anh sẽ làm mình bối rối nếu anh nói điều đó.
Mình nói mình đang định bắt đầu hoàn thành chỉ tiêu đọc sách trong ngày của mình.
“Để cho Dante nghỉ giải lao chút đi,” anh bảo.
Thế là mình khoác áo vào, đánh tiếng cho ba biết rồi chúng mình chui tọt lên xe của anh. Chúng mình khỏi hành về hướng Cầu Bắc, ở đó có vài người, phần lớn là đàn ông và trai trẻ đang nghỉ ăn trưa, tụ tập xem băng tan. Năm nay không có những tảng băng lớn do mùa đông bắt đầu muộn. Dù vậy, băng vẫn tông vào các trụ cầu, vỡ ra, hình thành một quang cảnh hỗn độn như thường lệ với những dòng nước nhỏ chạy xen giữa. Chẳng có gì làm ngoài việc đứng trố mắt nhìn cảnh này như thể ta bị thôi miên, hai bàn chân tê cóng. Dẫu rằng băng đang tan nhưng xem ra mùa đông chưa chịu bỏ cuộc và mùa xuân dường như còn ở rất xa. Mình tự hỏi làm thế quái nào mà có những người có thể tìm thấy ở cảnh tượng này thú tiêu khiển đến nỗi có thể đứng đó xem hàng nhiều giờ liền.
Chẳng bao lâu sau Wilf cũng chán xem băng. Chúng mình trở lại xe và không biết phải nói gì với nhau, cho tới khi mình đánh liều hỏi anh có nhận được mẩu thư của mình không?
Anh đáp, có.
Mình nói mình thật sự thấy mình như con ngốc vì những gì đã làm (đúng vậy, nhưng có lẽ những lời mình nói nghe ăn năn hối hận hơn dự định).
Anh nói, “Ô, không sao.”
Anh lùi xe, chúng mình hướng vào thị trấn và rồi anh nói, “Anh đã hy vọng hỏi cưới em. Có điều anh không định thực hiện nó như thế này. Anh đã định sẽ chuẩn bị kỹ hơn nữa. Trong một hoàn cảnh thích hợp hơn.”
Mình nói, “Ý anh là anh đã hy vọng nhưng giờ thì không còn hy vọng nữa? Hay ý anh là bây giờ anh vẫn đang hy vọng?”
Mình thề là khi nói thế mình không hề có ý dồn ép anh. Mình thật sự chỉ muốn làm cho rõ sự việc mà thôi.
“Anh vẫn đang,” anh nói.
Tiếng “vâng” vuột ra khỏi miệng mình trước khi mình kịp định thần khỏi cơn sốc. Mình không biết giải thích nó làm sao. Mình nói vâng theo kiểu ngoan hiền dễ thương nhưng không quá sốt sắng. Giống kiểu vâng, tôi muốn uống một tách trà hơn. Mình thậm chí không tỏ vẻ ngạc nhiên. Cứ như mình cần phải đưa cả hai ra khỏi khoảnh khắc này thật nhanh rồi sau đó chúng mình mới thư giãn và trở về bình thường được. Trong khi kỳ thực còn lâu mình mới thư giãn và bình thường theo đúng nghĩa được với Wilf. Đã có lúc mình thấy anh thật bí ẩn và nghĩ anh vừa đáng sợ vừa buồn cười, thế rồi kể từ sau trò Cá Tháng Tư xui xẻo kia mình lại ngượng ngùng đến chết. Mình hy vọng mình không trả lời vâng, em sẽ lấy anh để vượt qua cảm giác ngượng ngùng đó. Mình còn nhớ rõ là mình đã nghĩ nên rút lại từ vâng để nói em cần thời gian suy nghĩ thêm, nhưng mình hầu như không thể làm thế mà không quăng cả hai xuống vũng lầy của sự ngượng ngùng còn kinh khủng hơn bao giờ hết. Với lại mình cũng chẳng biết mình có gì để phải suy nghĩ thêm nữa.
Thế là mình đã đính hôn với Wilf. Mình không thể tin nổi. Phải chăng chuyện đính hôn xảy ra với tất cả mọi người theo cách đó?
14 tháng Tư. Wilf tới nhà để thưa chuyện với ba còn mình đến nhà Ginny để kể chuyện với cô nàng. Mình vào thẳng vấn đề và thú thật rằng mình cảm thấy kỳ cục khi nói với cô nàng, rồi bảo mình hy vọng cô nàng không thấy kỳ cục khi làm phù dâu cho mình. Cô nàng nói dĩ nhiên là không rồi, thế là cả hai chúng mình dâng trào cảm xúc, vòng tay ôm nhau, và hơi thút thít, sụt sịt.
“Bọn con trai thì là gì so với tình bạn bè chứ?” cô nàng nói.
Thế rồi mình tự nhiên nổi hứng vô tư lự và bảo tất cả là lỗi của cô nàng.
Mình nói mình không thể chịu nổi cảnh người đàn ông tội nghiệp ấy bị tới hai cô gái khước từ.
30 tháng Năm. Đã rất lâu rồi mình chưa viết gì vào đây bồi vì mình mải quay cuồng trong bao nhiêu việc phải làm. Đám cưới được lên lịch là ngày mùng 10 tháng Bảy. Mình sẽ diện chiếc váy do bà Cornish may - bà này đã quay mình một trận phát điên, đứng đó trong bộ đồ lót ghim cả đống kim trong khi bà ta thì luôn miệng quát mình đứng im. Đó là chiếc đầm vải voan màu trắng, mình không chịu may đuôi váy vì e rằng mình sẽ giẫm lên nó mà vấp ngã mất. Tiếp đến là sắm sửa quần áo tư trang, bao gồm nửa tá váy ngủ mùa hè, một chiếc kimono Nhật bằng lụa mềm như nước in hình hoa huệ tây và ba bộ pyjama mùa đông, tất cả đều được mua tại cửa hàng Simpson tận Toronto. Có vẻ như pyjama không phải tư trang lý tưởng để đem về nhà chồng, nhưng váy ngủ thì không đủ giữ ấm cho ta, và đằng nào mình cũng ghét chúng bởi vì kiểu gì chúng cũng sẽ nhăn rúm ở bụng. Cộng thêm đống xi líp lụa và các món linh tinh khác, toàn màu hồng đào hoặc màu “nude”. Ginny bảo mình nên tích cóp chúng trong khi còn có cơ hội, chứ nếu lỡ nổ ra chiến tranh ở Trung Quốc thì rất nhiều đồ lụa sẽ trở nên khan hiếm. Cô nàng vẫn chăm cập nhật tin tức như thường lệ. Váy phù dâu của cô nàng màu xanh đậm.
Hôm qua bà Box làm bánh cưới. Tính ra phải mất sáu tuần bánh mới ráo cho nên chúng mình dự định sẽ xong mọi việc đúng duýt thời hạn. Phải tự tay mình đánh bột mới được may mắn, mà khối bột thì nặng nhóc nhách trái cây đến nỗi cánh tay mình muốn rụng ra luôn. Ollie có mặt ở đó, thành thử anh thay mình đánh bột một chút nhân lúc bà Box không canh chừng. Chả biết điều đó sẽ mang tới loại may mắn nào.
Ollie là em họ của Wilf, đang ở đây thăm anh mình vài tháng. Do Wilf không có anh em nào khác nên Ollie sẽ là phù rể. Anh ấy hơn mình bảy tháng, vậy xem ra mình với anh ấy vẫn là trẻ con, không giống như Wilf (mình không thể tưởng tượng được Wilf từng bao giờ là trẻ con). Anh ấy - tức Ollie - đã phải nằm viện lao những ba năm, nhưng giờ sức khỏe có khá hơn. Lúc anh ấy nằm đó người ta đã xì mất của anh ấy một trong hai lá phổi. Mình từng nghe nói về chuyện này và tin rằng như thế thì người ta phải hít thở chỉ bằng một lá phổi thôi, nhưng hóa ra không phải. Người ta chỉ xì nó đi để nó ngừng hoạt động trong khi họ chữa trị nó bằng thuốc và bao bọc (không bắt buộc) chỗ nhiễm trùng vào nang cho nó ngủ yên. (Thấy chưa, bây giờ mình đã là một chuyên gia y học lão luyện rồi, đính hôn với một bác sĩ có khác!) Trong khi Wilf giải thích điều này, Ollie bịt hai tai lại. Anh ấy nói anh ấy không thích nghĩ về những gì đã xảy ra rồi, anh ấy giả vờ với bản thân rằng bên trong mình rỗng tuếch như con búp bê bằng nhựa dẻo. Anh ấy là ‘người trái ngược hẳn với Wilf nhưng xem ra họ khá là hòa thuận.
Ơn Chúa, chúng mình sẽ thuê tiệm bánh trát kem cho cái bánh cưới một cách chuyên nghiệp. Mình nghĩ nếu không thế thì bà Box làm sao mà chịu nổi sự căng thẳng.
11 tháng Sáu. Còn chưa tới một tháng nữa. Đáng ra mình thậm chí không được viết cái này mà phải chúi đầu vào lập danh sách quà cưới cơ. Mình không thể tin nổi tất cả đống đồ ấy rồi sẽ là của mình. Wilf muốn mình đi chọn giấy dán tường. Mình tưởng tất cả các phòng đều trát vữa và sơn trắng vì anh thích vậy, nhưng hình như anh đã để chúng thô nguyên để sau này vợ anh có thể lựa giấy dán tường. Mình e rằng lúc nghe vậy trông mình sững sờ đến chết điếng người, nhưng sau đó mình bình tĩnh lại rồi bảo với anh rằng mình nghĩ anh thật chu đáo nhưng mình không thể tưởng tượng được mình muốn gì chừng nào mình chưa đến sống ở đó. (Hẳn là anh hy vọng việc này sẽ hoàn tất khi chúng mình đi tuần trăng mật về.) Mình đã trì hoãn vụ việc theo cách như vậy đấy.
Mình vẫn tới xưởng cưa hai ngày một tuần. Mình có phần mong sẽ vẫn duy trì nếp này ngay cả sau đám cưới, nhưng ba nhất quyết bảo không. Ba cứ nói mãi, làm như người ta thuê mướn một phụ nữ có chồng là bất hợp pháp không bằng, trừ phi cô ta góa bụa hoặc lâm vào cảnh túng bấn ngặt nghèo, nhưng mình chỉ ra rằng đây đâu phải là thuê mướn bởi vì dù sao ba có trả tiền công cho mình đâu. Thế là ba nói luôn ra cái điều ban đầu ba ngại ngùng không nói, rằng khi mình lấy chồng thì thể nào cũng sẽ có nhiều gián đoạn.
“Sẽ có những lúc con không chường mặt ra ngoài được,” ba nói.
“Ồ, con không biết điều đó,” mình nói, mặt đỏ lên như con khùng.
Thì ra ông cụ (ba mình ấy) đá định trong đầu rằng sẽ hay biết bao nếu Ollie quán xuyến những việc hiện nay mình đang làm và ông cụ (tức ba mình) còn thật lòng hy vọng Ollie có thể làm quen dần với công việc kinh doanh để cuối cùng còn tiếp quản toàn bộ. Có lẽ ba đã ước mình lấy một người chồng có thể đảm đương việc này - mặc dù ba nghĩ Wilf là tuyệt nhất rồi. Là kẻ đang rỗi rãi, lại thông minh và có học vấn (mình không biết chính xác anh ấy học cao đến mức nào và ở đâu, nhưng rõ ràng anh ấy hiểu biết hơn hẳn bất kỳ ai ở quanh vùng), Ollie có thể được xếp vào sự chọn lựa đầu bảng. Cũng vì lý do này mà hôm qua mình phải đưa anh tới văn phòng chỉ cho anh xem sổ sách, vân vân... xong ba dẫn anh đi giới thiệu với cánh đàn ông cũng như bất cứ ai tình cờ có mặt ở đó, và có vẻ như hết thảy mọi thứ đều mỹ mãn. Ollie tỏ ra rất chăm chú và mang vẻ mặt nghiêm túc công việc khi ớ trong văn phòng, sau đó anh vui vẻ và bông đùa (nhưng không đùa quá lố) với các ông - anh thậm chí còn thay đổi phong cách nói chuyện đúng liều lượng, khiến ba rất hài lòng và phấn chấn. Khi mình vào chúc ba ngủ ngon thì ba bảo, “Ba thấy thật may mắn khi chàng trai trẻ đó xuất hiện ở đây. Anh ta là người đang tìm kiếm tương lai và một nơi chốn có thể khiến anh ta cảm thấy như ở nhà.”
Mình không cãi lại, nhưng mình tin chắc chắn rằng khả năng Ollie an cư lạc nghiệp ở đây và điều hành một xưởng cưa cũng ít như khả năng mình được diễn trong Ziegfeld Follies*.
Loạt kịch tạp kỹ dài và hoành tráng trình diễn ở Broadway, New York, từ 1907 đến 1931.
Chỉ là anh chàng không thể không tỏ ra lịch sự mà thôi.
Có lúc mình đã nghĩ Ginny sẽ nẫng anh chàng khỏi tay mình. Cô nàng đọc nhiều hiểu rộng, hút thuốc, và mặc dù cô nàng chăm đi lễ nhưng nhiều quan điểm của cô nàng thuộc loại có người sẽ cho là thuyết vô thần. Cô nàng bảo mình rằng cô nàng nghĩ trông Ollie cũng không đến nỗi, tuy có thuộc vào dạng hơi thấp (mình ước chừng tầm mét bảy hai hoặc bảy lăm). Anh chàng có đôi mắt xanh da trời mà cô nàng thích, thêm mái tóc màu kẹo bơ với một mảng lượn sóng rủ xuống trước trán, trông quyến rũ một cách cố tình. Lẽ dĩ nhiên anh chàng rất tử tế với cô nàng khi họ gặp nhau và nhường cho cô nàng nói suốt, sau đó khi cô nàng đã về nhà thì chàng ta bảo, “Cô bạn nhỏ của em thông minh thật nhỉ?”
“Bạn nhỏ.” Ginny ít nhất cao bằng chàng ta và đương nhiên mình rất muốn nói với chàng ta điều đó. Nhưng thật xấu tính khi nói gì đó liên quan đến chiều cao với một người đàn ông hơi thiếu tấc, do vậy mình ráng ngậm miệng lại. Mình không biết phải nói gì về khía cạnh “thông minh” trong câu nhận xét của chàng ta. Theo mình, Ginny là người thông minh (chẳng hạn Ollie đã đọc Chiến tranh và hòa bình chưa?), nhưng mình không thể hiểu nổi, căn cứ theo giọng nói của chàng ta, thì chàng ta ngụ ý cô nàng thông minh hay là không. Mình chỉ dám chắc là nếu cô nàng thông minh thật thì đó cũng chẳng phải điều chàng ta quan tâm, còn nếu không thì cô nàng đã hành xử ra điều mình thông minh, mà điều này chàng ta cũng chẳng quan tâm nốt. Lẽ ra mình nên nói gì đó hay ho và bất đồng, kiểu như, “Anh quá uyên thâm đối với em,” nhưng dĩ nhiên mãi về sau mình mới nghĩ ra. Tệ nhất là ngay khi anh chàng vừa nói như thế xong, mình đã, một cách bí mật, nghi nghi hoặc hoặc về Ginny trong lòng, và mặc dù đang ra sức bảo vệ cô nàng (trong ý nghĩ) mình cũng ngấm ngầm đồng ý với anh. Mình không biết liệu tới đây cô nàng có còn thông thái trong mắt mình nữa hay không.
Wilf cũng ở đó và hẳn là có nghe đầy đủ mẩu đối đáp ấy nhưng không nói gì. Suýt nữa mình đã hồi chẳng nhẽ anh không muốn biện hộ cho cô gái anh cầu hôn sao, nhưng mình chưa bao giờ để lộ cho anh biết rằng mình biết điều đó. Thường thì anh chỉ lắng nghe mình và Ollie nói chuyện với nhau, đầu chúi về trước (anh làm thế với hầu hết mọi người, vì anh rất cao), mặt thoáng nét cười. Mình thậm chí không dám chắc đó là nụ cười hay chẳng qua miệng anh nó thế. Vào buổi tối, cả hai anh em họ hay tới nhà mình chơi, rồi rốt cuộc lại thành ra ba với Wilf chơi bài kipbi còn Ollie với mình nói chuyện nhăng cuội. Hoặc không thì Wilf, Ollie và mình chơi bài brít tay ba (ba chưa bao giờ thích bài brít vì ba nghĩ nó là trò của lũ trưởng giả học làm sang). Thỉnh thoảng Wilf nhận được cuộc gọi từ bệnh viện hay từ Elsie Bainton (bà quản gia của anh mà mình không thể nhớ tên - mình vừa phải hét lên hỏi bà Box), the là anh phải quầy quả rời đi. Hoặc đôi khi, lúc trò chơi bài kipbi kết thúc, anh ra ngồi vào cây đàn piano và chơi ngay một bài mà không cần nhìn bản nhạc. Trong bóng tối, có lẽ vậy. Ba thơ thẩn ra ngoài hiên, ngồi xuống cùng Ollie và mình, rồi tất cả cùng lắc lư người lắng nghe. Những lúc đó dường như Wilf chỉ chơi piano cho riêng anh, không phải biểu diễn cho chúng mình. Chúng mình có lắng nghe hay bắt đầu tán gẫu anh cũng chẳng bận tâm. Đôi khi chúng mình cũng tán gẫu thật, bởi vì anh chuyển sang chơi một bài nào đó hơi quá cổ điển đối với ba - bài tủ của ba là “Ngôi nhà Kentucky xa xưa của tôi”. Ta có thể thấy ba bồn chồn nhấp nhỏm, loại nhạc Wilf đang chơi khiến ba cảm thấy thế giới quay cuồng xung quanh ba, cho nên để chiều lòng ba chúng mình đành nói chuyện. Sau đó chính ông - tức ba - sốt sắng nói cho Wilf biết chúng tôi thích anh chơi đàn đến thế nào, và Wilf cảm ơn bằng phong thái lịch sự lơ đãng. Ollie và mình biết không nên nói gì cả, bởi vì chúng mình quá rõ trong trường hợp này Wilf không quan tâm tới ý kiến của bất cứ ai, cách này hay cách khác.
Có lần mình bắt gặp Ollie hát lẩm nhẩm theo bài nhạc Wilf đang chơi.
“Bình minh sắp lên và Peer Gynt đang ngáp...”
Mình thì thào, “Cái gì?”
“Không có gì,” Ollie nói. “Anh ấy đang chơi bài đấy đấy.”
Mình bắt anh đánh vần. P-e-e-r G-y-n-t.
Chắc mình phải học thêm âm nhạc quá, để Wilf và mình có điểm chung gì đó.
Thời tiết đột nhiên chuyển nóng. Hoa mẫu đơn nở to xòe như mông em bé và hoa trên những bụi mơ trân châu rủ xuống như tuyết. Bà Box đi qua đi lại lầm bầm rằng nếu cảnh này cứ kéo dài mãi thì cho đến ngày cưới tất cả mọi thứ sẽ khô cạn hết.
Trong khi viết những dòng chữ này mình đã uống cạn ba tách cà phê và thậm chí còn chưa chải tóc. Bà Box nói, “Rồi cô sẽ buộc phải thay đổi cung cách của cô mau thôi.”
Bà ngụ ý rằng Elsie Gì Gì Đó đá bảo với Wilf rằng bà ta sẽ nghỉ hưu, vì vậy mình phải tiếp quản việc chăm lo nhà cửa.
Vậy nên từ giờ mình sẽ dần thay đổi nếp sống, phải Vĩnh Biệt Nhật Ký ít nhất ở hiện tại. Mình từng có cảm giác rằng sẽ có một điều gì đó thật bất thường xảy ra trong đời mình, vậy nên mình thấy việc ghi lại tất cả mọi thứ là cực kỳ quan trọng. Liệu đó chỉ là cảm giác?
CÔ GÁI MẶC ÁO LÍNH THỦY
“Đừng tưởng là được quanh quẩn ở đây nhé,” Nancy nói. “Em có một bất ngờ cho anh đây.”
Ollie nói, “Em thì lúc nào chả đầy bất ngờ.”
Hôm ấy là một ngày Chủ nhật, và Ollie đã mong được thơ thẩn một chút. Có một điều mà không phải lúc nào anh cũng đánh giá cao ở Nancy, đó là bầu nhiệt huyết quá dồi dào ở nàng.
Ollie nghĩ nàng sắp cần tới nó ngay thôi vì công việc nhà mà Wilf - theo cách nghĩ dửng dưng thông thường - đang nhăm nhăm dồn vào vai nàng.
Sau khi đi lễ xong, Wilf hướng thẳng tới bệnh viện còn Ollie trở lạj dùng bữa với Nancy và cha nàng, chủ nhật họ thường ăn đồ nguội - bổi vì vào ngày này bà Box đi lễ ở một nhà thờ khác và buổi chiều thì nghỉ ngoi tại nhà riêng của bà. Ollie đã giúp Nancy dọn nhà bếp xong. Những tiếng ngáy rền vang từ phòng ăn.
“Ba em,” ollie nói, sau khi liếc vào phòng. “Bác ấy ngủ gật trên ghế bập bênh với tờ Bưu điện chiều thứ Bảy trên đùi.”
“Ba không bao giờ chịu thừa nhận mình sẽ ngủ vào chiều Chủ nhật,” Nancy nói. “Ba luôn nghĩ mình sẽ đọc cơ.”
Nancy đang mặc tạp dề quấn quanh eo - không phải loại tạp dề để mặc cho công việc bếp núc nghiêm chỉnh.
Nàng cởi nó ra treo lên núm của và đứng trước tấm gương nhỏ cạnh cửa bếp đẩy đẩy tóc lên cho phồng.
“Em luộm thuộm quá,” nàng nói với giọng than vãn, nhưng không phải là không hài lòng.
“Đúng vậy. Anh không thể hiểu được Wilf thấy gì ở em.”
“Coi chừng kẻo em đập anh một trận bây giờ.
Nàng dắt anh ra khỏi cửa, vòng qua bụi lý chua tới gốc cây thích nơi - nàng đã bảo anh hai hay ba lần - nàng đã từng có một cái xích đu. Rồi men theo lối mòn sau nhà đi hết dãy phố. Không có ai đang cắt cỏ, vì hôm nay là Chủ nhật. Thật ra cũng không có người nào ở sân sau và mọi ngôi nhà đều đóng im ỉm đầy kiêu hãnh, trông như những nơi trú ẩn, như thể bên trong từng căn nhà ấy là những người đàng hoàng như cha của Nancy đang nằm chết tạm thời trước thế giới, thực hiện Giấc Nghỉ Ngơi Xứng Đáng của mình.
Vậy không có nghĩa là thị trấn hoàn toàn vắng lặng. Chiều Chủ nhật là thời gian người nhà quê và người từ những ngôi làng thôn dã tràn ra bãi tắm cách đó một phần tư dặm ở chân bờ dốc. Tiếng la hét từ ván trượt nước, tiêng chí chóe của bọn trẻ ngụp lặn té nước, trộn lẫn vào tiếng còi xe hơi, tiếng kèn từ xe bán kem, tiếng hú của lũ thanh niên đang lên cơn cuồng khoe mẽ giương vây, rồi tiếng các bà mẹ thảng thốt lo đến lạc xiêu hồn phách. Tất cả trộn nháo nhào vào nhau thành một món âm thanh nhức óc.
Ở cuối đường mòn, băng qua một con phố tồi tàn không lát vỉa hè, là tòa nhà bỏ không mà Nancy bảo là nhà máy nước đá cũ, vượt qua nó có bãi đất trống và một cây cầu ván bắc qua con mương khô, qua cầu là họ đi trên con đường rộng vừa một chiếc xe hơi - hoặc một chiếc xe ngựa độc mã thì dễ qua hơn. Hai bên đường sừng sững những bụi gai, lá nhỏ xanh ngắt, lắc rắc những bông hoa khô màu hồng. Chúng đã chắn không cho gió lọt qua rồi mà lại còn chẳng cung cấp chút bóng mát nào, cành nhánh thì vươn ra chỉ chực cào lấy ống tay áo Ollie.
“Hoa hồng dại,” Nancy đáp, khi anh hỏi cái giống hoa chết tiệt này là hoa gì.
“Chắc bất ngờ là đây à?”
“Cứ chờ xem.”
Anh mồ hôi mồ kê nhễ nhại trong đường hầm này và ước gì nàng đi chậm chậm lại. Anh hay ngạc nhiên trước lượng thời gian mình dành ra để quanh quẩn bên cô gái này, một người không có bất kỳ điểm gì nổi bật, có lẽ ngoại trừ tính ương bướng, chanh chua và tự cao. Hình như anh thích phá bĩnh nàng. Nàng đủ thông minh hơn hàng đống những cô gái khác cho anh đáng công làm điều đó.
Thứ anh nhìn thấy, từ đằng xa, là mái của một ngôi nhà trong bóng cây, và do không hy vọng moi thêm bất kỳ thông tin nào từ Nancy nên anh hài lòng với hy vọng rằng họ có thể ngồi nghỉ khi tới đó, ở nơi mát mẻ.
“Có khách,” Nancy lẩm bẩm. “Lẽ ra mình phải biết trước điều này chứ nhỉ.”
Một chiếc Model T cà tàng đang đậu ở ngã rẽ cuối đường.
“Dù sao cũng chỉ một chiếc,” nàng nói. “Mong là họ sắp xong rồi.”
Nhưng khi họ đi tới chiếc xe thì vẫn chưa có ai ra khỏi ngồi nhà một tầng lửng tươm tất kia - xây bằng gạch được gọi là “trắng” ở vùng này và “vàng” ở quê Ollie. (Thực ra nó mang màu nâu nhạt cáu bụi). Không có bờ giậu - chỉ có hàng rào thép gai kéo lê quanh mảnh sân mọc kín cỏ chưa được xén. Không có lối đi lát xi măng dẫn từ cổng tới cửa vào, chỉ có con đường đất. Nói vậy không có nghĩa những điều này có gì bất thường ở một nơi ngoài rìa thị trấn - chẳng có mấy nông dân xây lối đi vào nhà hoặc sắm máy cắt cỏ cả.
Có lẽ nơi này đã từng có những luống hoa - ít nhất đó đây còn vài bông hoa trắng và vàng vươn lên trong đám cỏ cao. Đấy là hoa cúc, anh chắc chắn, nhưng không buồn hỏi Nancy để rồi thể nào cũng phải nghe lời chế giễu sửa lưng của nàng.
Nancy dẫn anh đi qua một dấu tích xác thực của những ngày phong lưu hoặc nhàn rỗi - một chiếc xích đu không sơn mà bằng gỗ, kiểu hai băng ghế đẩu mặt vào nhau, cỏ gần đó không hề bị giẫm nát - chứng tỏ nó ít được sử dụng. Chiếc xích đu treo trong bóng râm của hai cái cây rậm lá. Nancy vừa đặt mông xuống liền bật người dậy, rồi đứng giữa hai băng ghế, cô bắt đầu vận hết sức bình sinh đẩy cho cái vật kỳ quặc kẽo kẹt này chuyển động tới lui.
“Vậy để báo cho cô ấy biết chúng ta tới đây,” nàng nói.
“Báo cho ai?”
“Tessa.”
“Bạn em à?”
“Dĩ nhiên.”
“Bạn già ư?” Ollie nói, không chút hào hứng. Anh đã có nhiều cơ hội chứng kiến Nancy hào phóng phân phát cái gọi là - như vẫn được gọi trong quyển sách nào đó dành cho con gái mà có thể nàng đã đọc và ghi nhớ - niềm hân hoan hớn hở trong tính cách của cô nàng. Những trò trêu chọc vô tư của nàng với mấy bác già trong xưởng cưa hiện ra trong tâm trí anh.
“Bọn em học cùng trường. Tessa và em. Em và Tessa.”
Câu đó dây dắt anh đến một ý nghĩ khác - cái cách nàng cố gán ghép anh với Ginny.
“Cô ta thì có gì hay ho?”
“Rồi anh sẽ thấy. Ối!”
Nàng nhảy khỏi chiếc xích đu đang bay giữa chừng và chạy tới một cái giếng bơm gần ngôi nhà. Bắt đầu bơm cật lực. Nàng phải bơm rất mạnh và lâu mới có nước phọt ra. Dù vậy xem ra nàng không hề mệt, cứ bơm tiếp một lúc nữa rồi mới hứng nước vào cái ca thiếc đang chờ sẵn trên móc, xong bưng nó ra chỗ xích đu, sóng đổ cả nước ra ngoài. Anh nghĩ, bằng vào vẻ mặt hăm hở của nàng, là nàng sẽ mời mình uống ngay tắp lự, nhưng kỳ thực nàng đưa nó lên môi và sung sướng tu ừng ực.
“Không phải nước thị trấn đâu,” nàng nói, trao nó cho anh. “Nước giếng đó. Ngon lắm.”
Nàng là cô gái uống nước không đun sôi từ bất kể cái ca thiếc cũ nào treo trên một cái giếng. (Những bệnh tật hiểm nghèo từng diễn biến trong chính cơ thể anh khiến anh nhận thức được những rủi ro đó hơn hẳn gã trai trẻ nào khác). Dĩ nhiên nàng có đôi chút màu mè, phô trương. Nhưng nàng táo bạo một cách thật tình tự nhiên, và một mực tin tưởng rằng mình đang sống một cuộc đời đầy hấp lực.
Có lẽ anh không thể nói thế về chính mình. Tuy nhiên anh tin - anh không thể nhắc đến việc này mà không đùa cợt về nó - rằng mình được sinh ra để làm một việc phi thường nào đó, rằng cuộc đời anh mang một ý nghĩa nhất định. Có lẽ điều này kéo họ xích lại bên nhau. Nhưng sự khác biệt là anh sẽ đi tiếp, anh sẽ không chịu an cư rồi thôi. Do nàng cần phải thực hiện - như nàng đã thực hiện - bổn phận của một người con gái. Anh thấy mình được hưởng cái quyền thoải mái chọn lựa mà không mấy cô gái từng biết đến, ý nghĩ đó bất giác khiến anh thả lỏng, khiến anh cảm thấy động lòng thương nàng, và cảm thấy muốn đùa nghịch. Có những lúc anh không cần phải hỏi tại sao anh ở bên nàng, ấy là khi anh trêu ghẹo nàng, hoặc bị nàng trêu chọc, khiến cho thời gian thấm thoắt thoi đưa.
Nước quả là ngon và mát rượi.
“Người ta tới gặp Tessa,” nàng nói, đoạn ngồi xuống đối diện anh. “Anh không bao giờ biết khi nào sẽ có người ở đây.”
“Vậy sao?” anh nói. Anh chợt nảy ra ý nghĩ điên rồ rằng nàng là cô gái đủ ngang bướng, đủ độc lập để kết bạn với một gái đĩ bán chuyên, một loại gái điếm vùng quê tùy hứng. Nàng vẫn duy trì chỗ bạn bè với một cò gái đã trở nên hư hỏng.
Nàng đọc được ý nghĩ của anh - đôi lúc nàng rất thông minh mà.
“Ấy, không,” nàng nói. “Em không có ý thế chút xíu nào. Ôi, đó là ý nghĩ xấu xa nhất em từng nghe nói tới. Tessa sẽ không bao giờ... Thật ghê tởm. Anh phải xấu hổ về chính anh. Cô ấy sẽ không đời nào... Ôi, rồi anh sẽ thấy.’ Mặt nàng đỏ lừ lự.
Cửa mở, không có bất kỳ phép từ biệt lằng nhằng thông thường nào - cả lời chào tạm biệt cũng không nghe thấy - một ông và một bà, tuổi trung niên, quần áo cũ nhưng không sờn, như chiếc xe của họ, hướng ra lối đi, nhìn về phía chiếc xích đu, trông thấy Nancy và Ollie nhưng không nói gì. Quái lạ là cả Nancy cũng không nói gì luôn, không hề cất tiếng chào hoạt bát. Cặp vợ chồng đi tới xe của mình, mỗi người lên xe ở một bên khác nhau, và lái đi khỏi.
Sau đó một người nữa hiện ra nơi bóng rầm ngưỡng cửa, lúc này Nancy mới gọi to.
“Ê. Tessa.”
Người phụ nữ này trông như một đứa trẻ to chắc. Cái đầu lớn tướng phủ mớ tóc quăn đen, vai rộng, đôi bắp chân mập bè. Chân để trần, cô ta mặc một bộ đồ kỳ dị - áo và váy nữ sinh, kiểu lính thủy. ít nhất là kỳ dị đối với một ngày nóng nực, lại xét thêm sự thể rằng cô không còn là nữ sinh nữa. Rất có thể đó là bộ trang phục cô từng mặc hồi phổ thông, và thuộc típ người tiết kiệm nên bây giờ cô mặc nó ở nhà. Kiểu quần áo như thế không bao giờ sờn rách, và theo Ollie thì chúng cũng không bao giờ xu nịnh dáng dấp của các cô gái. Trông cô lóng ngóng vụng về trong bộ đồ ấy, không hơn không kém hầu hết các nữ sinh.
Nancy dẫn anh tới giới thiệu, và anh nói với Tessa - bằng kiểu cách bóng gió thường dễ được các cô gái chấp nhận - rằng anh đã nghe nói rất nhiều về cô.
“Không phải đâu,” Nancy đốp liền. “Đừng tin lời nào của anh ta. Nói cho ngay, tớ cho anh ta đi cùng tới đây chỉ bới vì tớ không biết phái làm gì với anh ta.”
Đôi mắt Tessa có mí dày bụp, không quá to nhưng màu mắt lại thăm tham đến sững sờ như màu xanh nước biển. Khi cô nhướng lên nhìn Ollie, chúng chiếu vào anh ánh nhìn không rõ hẳn ra là thân thiện, hay hằn học, hay thậm chí là tò mò. Chỉ là đôi mắt soi thấu, không nao núng, khiến anh không thể tiếp tục buột ra bất kỳ cầu nói ngớ ngẩn ra điều lịch thiệp nào.
“Hai người vào đi thì hơn,” cô nói và đi trước vào nhà. “Tớ hy vọng hai người không phiền để tớ đánh nốt chỗ bơ. Tớ đang đánh bơ thì vị khách vừa rồi tới khiến tớ phải ngừng tay, bây giờ nếu không đánh tiếp thì bơ sẽ hỏng mất.”
“Đánh bơ vào Chủ nhật, một đứa con gái mới thiếu khuôn phép* làm sao,” Nancy nói. “Hiểu không, Ollie. Đấy là cách làm bơ. Em cược là anh nghĩ nó tôi thang ra từ con bò, đóng gói rồi đem tới cửa hàng. Cứ tiếp đi,” nàng nói với Tessa. “Nếu cậu mệt thì cứ để tớ thử thay cậu một lát. Thật ra, tớ chỉ định đến để mời cậu đi đám cưới tớ.”
Người theo Công giáo thường kiêng làm việc vào ngày Chủ nhật, ngày của Chúa.
“Tớ cũng có nghe về nó,” Tessa bảo.
“Tớ định gửi thiệp mời cho cậu, nhưng tớ không biết cậu có thèm để mắt tới nó hay không. Tớ nghĩ tốt hơn tớ nên tới tận đây để vịn cổ cậu xuống cho tới khi cậu bảo đi mới thôi.”
Họ đi tuột vào bếp. Những tấm mành che cửa sổ thả xuống tận bậu, một cái quạt trần quét không khí trên đầu. Căn phòng sực mùi thức ăn, mùi đĩa đựng thuốc diệt ruồi, mùi dầu hỏa, mùi khăn lau bát. Xem ra tất cả các mùi này đã trây trét hẳn lên tường và ván sàn hàng bao thập kỷ rồi. Nhưng ai đó - hẳn là cô gái đang vừa đánh bơ vừa thở hì hụi, gần như gầm gừ kia - đã chịu khó cất công sơn hết tủ bếp và cánh cửa thành màu xanh trứng sáo.
Báo trải kín quanh khu vực đánh bơ để bảo vệ sàn nhà, vốn đã mòn lõm xuống tại những lộ trình chuyển động thường xuyên từ chiếc bàn ra tới bếp lò. Ollie vốn quen ga lăng với hầu hết các cô gái nông dân nên lẽ ra đã đề nghị giúp đánh bơ, nhưng trong trường hợp này anh cảm thấy không chắc lắm. Dường như cô không phải kiểu con gái ủ rũ, cái cô Tessa này, cô chỉ già trước tuổi, bộc trực một cách dễ gây nhụt chí, lại độc lập ít nhờ vả ai khác. Thậm chí cả Nancy sau một hồi cũng im lặng hẳn đi trước sự hiện hữu của cô.
Bơ hiện ra. Nancy xồ tới để nhìn cho rõ rồi gọi anh cùng tới xem. Anh ngạc nhiên trước cái màu nhàn nhạt của nó, hầu như không phải là màu vàng, nhưng anh không nói gì, ngại Nancy sẽ chê trách anh dốt nát. Tiếp theo hai cô gái đổ khối dính nhờn nhợt đó vào một tấm vải trải sẵn trên bàn, đập nó bằng những thanh gỗ dẹt và quàn tấm vải gói chặt nó lại. Tessa nâng một cánh cửa dưới sàn lên, rồi hai cô gái khiêng nó xuống mấy bậc thang tầng hầm mà lúc nãy anh không biết có ở đấy. Nancy thét lên một tiếng khi nàng suýt bước hụt chân. Anh có cảm giác để Tessa tự làm một mình hẳn sẽ tốt hơn, nhưng cô không phiền ban cho Nancy chút đặc quyền, kiểu như ta cho phép một đứa trẻ dễ thương quấy rầy. Cô để Nancy dọn đống giấy báo dưới sàn, trong khi cô mò chai nước chanh vừa mang từ dưới hầm chứa lên. Cô lấy một tảng nước đá từ góc thùng ủ đá, rửa mùn cưa đi và dùng búa đập vụn ra trong bồn rửa để có thể lấy một ít thả vào ly của họ. Một lần nữa anh không đề nghị giúp.
“Nào Tessa,” Nancy nói, sau khi nhấp một ngụm nước chanh. “Đến lúc rồi. Giúp tớ một việc nhé. Đi mà.”
Tessa uống nước chanh trong ly của mình.
“Nói cho Ollie biết đi,” Nancy nói. “Nói xem anh ấy có gì trong túi quần. Bắt đầu từ túi bên phải nào.”
Tessa nói mà không ngước lên. “Ả, tớ nghĩ anh ấy có cái ví.”
“Ừ, tiếp đi,” Nancy khuyến khích.
“Ùm, cô ấy nói đúng,” Ollie nói. “Anh có ví. Giờ chắc cô ấy phải đoán có gì trong ví chứ gì? Bởi vì không có nhiều thứ trong đó đâu.”
“Kệ anh ta,” Nancy nói. “Nói tiếp cho anh ấy đi, Tessa. Trong túi bên phái của anh ấy.”
“Đây là trò gì vậy?” ollie hỏi.
“Tessa,” Nancy thỏ thẻ. “Đi mà, Tessa, cậu biết tớ mà. Nhớ đi, tụi mình là bạn lâu năm, tụi mình là bạn ngay từ ngày đầu tiên vào lớp học. Hãy làm vì tớ đi.”
“Đây chắc là một trò chơi gì đó?” Ollie nói. “Đây là trò chơi do hai bọn em nghĩ ra với nhau hả?”
Nancy cười nhạo anh.
“Sao thế hả,” cô nói. “Chắc là có gì trong ví khiến anh xấu hổ? Anh đựng vớ cũ bốc mùi à?”
“Một cái bút chì,” Tessa nói, rất khẽ. “Một ít tiền. Tiền xu. Tớ không thể nói mệnh giá. Một tờ giấy có chữ gì đó. Một tờ giấy có chữ in?”
“Ollie, lột ra,” Nancy thét. “Dốc ví ra mau.”
“À, và một thanh xinh gôm,” Tessa nói. “Tớ nghĩ là một thanh xinh gôm. Thế thôi.”
Thanh xinh gôm đã bị tróc giấy gói và dính đầy xơ vải.
“Anh quên mất đã để nó trong ví,” Ollie nói, mặc dù không phải vậy. Tiếp đến là một mẩu bút chì, vài đồng xu và một bài báo nhàu nhĩ gập lại cắt ra từ một tờ báo.
“Có người đưa anh cái này,” anh nói, khi Nancy giằng lấy và mở ra xem.
“Chúng ta đang ở trong thị trường cần bản thảo gốc chất lượng cao, cả về thơ ca lẫn văn xuôi. Cần có sự quan tâm lưu ý nghiêm túc... “
Ollie giật nó khỏi tay nàng.
“Có người đã đưa anh cái này. Họ muốn anh cho ý kiến xem nó có nguồn hợp lệ không.”
“Ối, Ollie.”
“Anh thậm chí còn không biết nó vẫn ở đó. Cùng với thanh xinh gôm.”
“Anh không ngạc nhiên à?”
“Có chứ. Anh đã quên mất.”
“Anh không ngạc nhiên về Tessa sao? về cái cô ấy đã biết ấy.”
Ollie cố nặn ra một nụ cười vì Tessa, dù anh đang vô cùng bực bội. Đó không phải là lỗi của cô ấy.
“Đó là những thứ rất nhiều anh chàng có trong túi quần của họ,” anh nói. “Tiền xu? Tự nhiên thôi. Bút chì...
“Cả xinh gôm?” Nancy nói.
“Có thể.”
“Và bài báo in. Cô ấy đã nói là chữ in”
“Cô ấy nói một mẩu giấy. Cô ấy không biết có gì trên đó. Em đã không biết, phải không?” anh nói với Tessa.
Cô lắc đầu. Cô nhìn ra cửa, lắng nghe.
“Tớ nghĩ có xe hơi rẽ vào lối đi.”
Đúng vậy. Giờ thì cả ba người đều nghe thấy. Nancy ra nhìn hé qua màn gió và đúng khoảnh khắc ấy Tessa nhoẻn với Ollie một nụ cười bất ngờ. Đó không phải là nụ cười đồng lõa hay xin lỗi hay làm đỏm thông thường. Hăn nó là nụ cười chào đón, nhưng không phải lời mời dứt khoát. Nó như ban phát một chút nồng hậu, một chút giản dị trong cô. Đồng thời bờ vai rộng của cô chuyển động, một dáng vẻ yên bình đậu lại ở đó, như thể nụ cười đang lan rộng khắp bản ngã của cô.
“Ối, trúng phóc,” Nancy nói. Nhưng nàng buộc phải kiểm soát sự phấn khích của mình, cũng như Ollie buộc phải kiểm soát nỗi kinh ngạc và vẻ quyến rũ bị trệch khỏi trật tự của anh.
Tessa mở cửa nhà đúng lúc một người đàn ông bước xuống xe. Ông ta chờ gần cổng để nhường đường cho Nancy và Ollie ra lối đi. Ông ta chừng sáu mươi tuổi, vai u, sắc mặt nghiêm nghị, mặc com lê mùa hè màu nhạt và đội mũ phớt. Xe của ông thuộc kiểu xe hai cửa đời mới. Ông ta gật đầu nhanh với Nancy và Ollie với một thoáng tôn trọng và vẻ tò mò cố che giấu như thể ông ta đang giữ cửa cho họ khi họ ra khỏi một phòng khám tư.
Không lâu sau khi tiếng cửa nhà Tessa đóng sập đằng sau ông ta, một chiếc xe khác hiện ra ở đầu kia con hẻm.
“Xếp hàng nối đuôi,” Nancy nói. “Chiều chủ nhật thường rất nhộn nhịp. Mùa hè có khác. Người ta lặn lội hàng dặm đến gặp cô ấy.”
“Để cô ấy bảo cho họ biết họ có gì trong túi à?”
Nancy phớt lờ câu hỏi này.
“Đa số hồi cô ấy về những món đồ bị thất lạc. Những vật có giá trị. ít ra là có giá trị đối với họ.”
“Cô ấy có lấy tiền không?”
“Hình như không.”
“Phải có chứ.”
“Sao phải có?”
“Cô ấy không nghèo sao?”
Cô ấy không đến nỗi chết đói.”
“Có lẽ cô ấy không hay đoán đúng.”
“Ừm, em cho rằng cô ấy phải đoán đúng chứ, nếu không thì người ta đâu có nườm nượp đến gặp cô ấy, đúng không?”
Tinh thần cuộc chuyện trò giữa họ thay đổi khi họ bước đi giữa những khóm hồng trong đường hầm sáng sủa nhưng yếm khí. Họ lau mồ hôi trên mặt, năng lượng thất thoát nhiều nên chẳng còn hơi sức để mà đấu chí nhau.
Ollie lầm bầm, “Anh không hiểu nổi.”
Nancy nói, “Chả biết có ai hiểu nổi không. Không chỉ những vật thất lạc đâu. Cô ấy còn định vị xác chết nữa.”
“Xác chết”
“Người ta nghĩ có một ông đã bước qua đường ray và bị kẹt trong bão tuyết rồi chết cóng, nhưng người ta không thể tìm thấy ông ta, cô ấy bảo họ hãy nhìn xuống cái hồ ở chân vách đá. Quả đúng vậy. Hoàn toàn không phải ở đường ray. Có lần một con bò mất tích, cô ấy bảo với mọi người rằng nó bị chết đuối.”
“Thế rồi sao?” Ollie nói. “Nếu đúng vậy thật thì sao không có ai điều tra? Ý anh là, về mặt khoa học?”
“Nó đúng tuyệt đối.”
“Ý anh không phải là anh không tin cô ấy. Nhưng anh muốn biết làm thế nào mà cô ấy làm được như vậy. Em không bao giờ hỏi cô ấy sao?”
Nancy làm anh ngạc nhiên khi nói, “Hỏi vậy không sợ lỗ mãng à?”
Giờ đến lượt nàng là người dường như đã chán ngấy cuộc đối thoại giữa họ.
“Thế,” anh gặng, “cô ấy có thấy gì hồi cô ấy còn đi học không?”
“Không. Em không biết. Hoặc lúc đó cô ấy không lộ ra.”
“Cô ấy có giống những người khác không?”
“Cô ấy không hẳn giống hệt như bao người khác. Nhưng ai chẳng vậy? Ý em là chính em không bao giờ nghĩ mình giống ai. Hay Ginny cũng không nghĩ cô nàng giống ai. Tessa khác chỉ vì nó sống ở nơi đó và phải vắt sữa bò mỗi sáng trước khi đi học, điều mà không ai trong bọn em phải làm. Em đã luôn cố làm bạn với cô ấy.”
“Chắc chắn rồi,” Ollie khẽ nói.
Nàng tiếp tục như thể không nghe thấy.
“Dù vậy, em ngờ ngợ mọi việc bắt đầu... em nghĩ hắn là sự thể bắt đầu khi cô ấy bị bệnh. Vào năm thứ hai trung học cô ấy ốm một trận, tai biến ngập máu. Cô ấy bỏ học và không bao giờ trở lại nữa, và đó là lúc cô ấy bắt đầu sống tách biệt.”
“Tai biến ngập máu,” Ollie nói. “Bị động kinh?”
“Em chưa bao giờ nghe thế. Ớ” - nàng quay ngoắt khỏi anh - “Em thật đáng tởm.”
Ollie dừng bước. Anh hỏi, “Sao vậy?”
Nancy cũng dùng lại.
“Em đưa anh tới đó với mục đích chỉ cho anh thấy ở chỗ chúng em đây cũng có thứ đặc biệt. Là cô ấy. Tessa. Y em là, để chỉ cho anh biết Tessa.”
“Ừ. Thì sao?”
“Bởi vì anh cứ nghĩ chỗ này chẳng có gì đáng để ý cả.
Anh nghĩ tụi nơi này chỉ đáng để bỡn cợt thôi. Tất cả chúng em quanh đây. Vì vậy em mới chỉ cô ấy cho anh. Một dị nhân.”
“Dị nhân không phải là từ anh dùng để nói về cô ấy.”
“Nhưng đó chính là ý định của em đấy. Em đáng bị đá vào đầu.”
“Không hẳn.”
“Em phải quay lại xin lỗi cô ấy mới được.”
“Anh sẽ không làm thế.”
“Không á?”
“Không.”
Tối hôm đó Ollie giúp Nancy dọn bữa nguội. Bà Box đã để sẵn gà và thạch xa lát trong tủ lạnh, Nancy đã làm một ổ bánh kem trứng từ hôm thứ Bảy đ